Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
* CÂU HỎI TIỂU LUẬN (Mơn học Đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước ta về các mặt đời sống)
Sự vận dụng và kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo thơng qua Nghị quyết 24 và
Nghị quyết 25 về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam? Liên hệ tình hình tín ngưỡng, tơn giáo ở q
hương anh (chị) hiện nay.
* BÀI LÀM
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO
Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan
trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một trong
những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó
thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất,
nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là
những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển
nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này,
sau đó, do lịng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân
huệ của mình”. theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tơn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có
tơn giáo và có điều kiện để tơn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là
biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn
hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự khơng có
tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác
đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo trên lập trường duy
vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo tưởng, là những
vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng
và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước
cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước
tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất cơng của xã hội thì họ chỉ cịn
biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện
thực ấy, họ khơng thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải
tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng
bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua
mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn nhấn
mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau
1
1
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc
giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn
có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy
vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù
đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản
ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội
nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những
“bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu
khơng có những “bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn lại
“xiềng xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ
phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất
công và bạo lực.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm về tơn
giáo, tín ngưỡng rất phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng
tạo, góp phần to lớn vào thắng lợi của công tác tôn giáo
nói riêng và sự nghiệp cách mạng nói chung. Với các nội
dung cơ bản như sau:
Một là, xem xét vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng một cách tồn
diện, trên quan điểm lịch sử cụ thể.
Tơn giáo và tín ngưỡng được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét
dưới góc độ văn hóa, triết học và đạo đức. Tuy khẳng định “tơn
giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật”, nhưng theo Người, trong
văn hóa và đạo đức tơn giáo “Cái gì tốt thì ta nên khơi phục và
phát triển, cịn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi”, điều này đã thể hiện
sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể trong xem xét, đánh giá về tơn
giáo của Người.
Đối với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhận định: “Người dân An Nam khơng có linh mục, khơng
có tơn giáo theo cách nghĩ của châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên
hoàn toàn là một hiện tượng xã hội… Những người già trong gia
đình hay các già bản là người thực hiện những nghi lễ tưởng
niệm”. Tuy một số chức sắc, tín đồ tơn giáo có những hành động
làm phương hại đến khối đại đoàn kết dân tộc, nhưng “phần lớn
đồng bào tôn giáo… đều yêu nước kháng chiến” và dù là lương
hay giáo thì nhân dân ta đều tốt cả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề tôn giáo vào điều
2
2
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
kiện cụ thể của Việt Nam. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đã tập trung nghiên cứu về Kitô giáo trong bối cảnh cuộc
đấu tranh tư tưởng đang diễn ra gay gắt ở phương Tây, trong khi
Hồ Chí Minh là người đã rất tường tận và chịu ảnh hưởng sâu đậm
từ văn hóa, tín ngưỡng của phương Đơng. Từ nhận thức đó, Người
đã tiếp cận và giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan đến tôn
giáo ở Việt Nam để phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Hai là, luôn thể hiện sự tôn trọng đối với những người sáng
lập ra các tôn giáo, đánh giá cao vai trị và sự hy sinh, đóng góp
của các bậc “chí tơn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tơn trọng, khâm phục tinh thần hy
sinh cao cả của những người sáng lập ra Phật giáo, Kitơ giáo.
Người nói: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatơ tin ở đức Chúa
Trời;... Đó là những vị chí tơn nên chúng ta tin tưởng”.
Người ln ca ngợi tấm lịng bác ái cao cả của Chúa, tinh
thần từ bi, hỷ xả, cứu độ chúng sinh của Phật và cho rằng mục
đích cao cả của các vị ấy giống nhau ở chỗ họ đều muốn “mưu
hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Người nhận
thức rõ những điểm khác biệt của từng tơn giáo và chấp nhận nó
như một phần tất yếu của sự nghiệp cách mạng; đồng thời đã khai
thác và phát huy triệt để những điểm tương đồng trong quan điểm
tư tưởng của các bậc “chí tơn” để thu hút, động viên, tập hợp
quần chúng theo đạo cùng đoàn kết để tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Người đã gắn nhiệm vụ cách mạng với lý tưởng của những
người sáng lập ra các tôn giáo một cách hài hòa, tự nhiên, thể
hiện một phương pháp cách mạng mang đậm phong cách Hồ Chí
Minh.
Ba là, khẳng định sự tồn tại của tôn giáo là một tất yếu lịch
sử, luôn đồng hành cùng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.
Người khẳng định tôn giáo đã và đang tồn tại tất yếu dưới
chủ nghĩa xã hội. Trả lời câu hỏi của cử tri Hà Nội: “Tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì tơn giáo có bị hạn chế khơng?”, Người khẳng định
rõ: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hồn tồn tự
do. Ở Việt Nam ta cũng vậy”. Điều đó lý giải quan điểm của Hồ
Chí Minh rằng: trên con đường cách mạng của dân tộc ta ln có
sự tham gia, đồng hành của đồng bào các tơn giáo, từ cách mạng
giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho
thấy Người đã vượt xa tầm nhìn hạn hẹp, định kiến với tơn giáo
của khơng ít người đương thời để đạt đến tầm cao mới nhằm phục
vụ sự nghiệp cách mạng.
3
3
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
Bốn là, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa vấn đề tôn giáo dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức rõ Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc
và đa tôn giáo, mỗi tôn giáo tuy có lịch sử hình thành, du nhập, số
lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự, vị trí vai trị xã hội và đặc
điểm khác nhau, nhưng mọi tơn giáo đều tồn tại trong lịng dân
tộc và do đó lợi ích của từng tơn giáo cũng gắn liền với lợi ích của
quốc gia, dân tộc… nên Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan
hệ đặc biệt này. Người cho rằng: đối với người Cơng giáo, khơng có
gì vui mừng hơn khi họ vừa là con chiên ngoan đạo, vừa là người
yêu nước theo tinh thần “kính Chúa - yêu nước”, “phụng sự Thiên
Chúa - phụng sự Tổ quốc”, “nước có độc lập thì đạo mới được tự
do”… Theo Người, đối với đồng bào theo đạo thì đức tin tơn giáo
và lịng u nước ln thống nhất với nhau. Một người dân Việt
Nam yêu nước đồng thời cũng chính là một tín đồ chân chính và
ngoan đạo, ngược lại, một kẻ chống lại dân tộc, Tổ quốc mình thì
cũng chính là một kẻ phản Chúa.
Ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta, dù là trong cách
mạng giải phóng dân tộc hay cách mạng xã hội chủ nghĩa thì vấn
đề dân tộc và tơn giáo vẫn ln có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khơng có độc lập dân tộc thì sẽ khơng có giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người và ngay cả tơn giáo cũng
khơng có tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã. Người
nói: “Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang”. Trong mối
quan hệ đó thì vấn đề dân tộc ln được ưu tiên đặt lên hàng đầu,
tuy nhiên Người không tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc, xem nhẹ vấn
đề tơn giáo mà thường giải quyết mối quan hệ này một cách thỏa
đáng, tạo cơ sở để sau này giáo hội các tơn giáo đề ra tơn chỉ,
mục đích hành đạo theo hướng gắn bó việc đạo với việc đời, tơn
giáo với dân tộc như: “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”
của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của Thiên Chúa
giáo; “Nước vinh, Đạo sáng” của Cao Đài giáo…
Năm là, xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của cơng tác tơn
giáo là để đồn kết đồng bào có đạo, đồn kết giữa các tơn giáo,
đồn kết toàn dân tộc.
Một trong những tư tưởng đặc sắc và đóng góp to lớn của Hồ
Chí Minh vào sự phát triển lý luận Mác-Lênin về tôn giáo là đã xác
định: mục đích cao nhất, nội dung xun suốt của cơng tác tơn
giáo là để tăng cường khối đại đồn kết toàn dân, đoàn kết lương
giáo, đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc tơn giáo khác nhau, góp
phần ngày càng to lớn vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Cho
nên, ngay cả những lúc vận mệnh của cách mạng như “ngàn cân
4
4
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn xác định một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hịa phải thực hiện là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, Người
đã chỉ ra sự đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục
đích của những người sáng lập tôn giáo. “Nay đồng bào ta đại
đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để
đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn,
để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta
làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để
đưa giống nịi ra khỏi cái khổ ải nô lệ” và với trách nhiệm của
người đứng đầu Nhà nước, Người khẳng định rõ: “…những việc
chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo tồn dân
làm hết sức mình, kể cả hy sinh xương máu để giữ gìn sự đồn kết
đó, đồng thời phê phán sâu sắc cách nhìn thiển cận trong xây
dựng khối đoàn kết lương giáo. Người cho rằng: “Tư tưởng hẹp hịi
thì hành động cũng hẹp hịi. Tư tưởng hẹp hịi thì nhiều thù mà ít
bạn (như vấn đề tơn giáo). Người mà hẹp hịi thì ít kẻ giúp. Đồn
thể mà hẹp hịi thì khơng phát triển”.
II. NGHỊ QUYẾT 24-NQ/TW, NGHỊ QUYẾT 25-NQ/TW LÀ SỰ
VẬN DỤNG, KẾ THỪA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Đảng, Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã hiểu rõ nhu cầu
tâm linh của người dân Việt Nam và coi quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo là một trong những quyền nhân thân cơ bản của người
dân. Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta được xây dựng
một mặt dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo; mặt khác căn cứ
vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo của người dân, đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc.
Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VI) ra Nghị quyết số 24-NQ/TW Về tăng cường cơng
tác tơn giáo trong tình hình mới là dấu mốc quan trọng về sự đổi
mới đường lối, chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo; trong đó
xác định: “Tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Tín
ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, bộ phận các nước XHCN Đơng
Âu đã sụp đổ và thành trì XHCN tại Liên bang Xô viết đã lung lay
tận gốc, tuy nhiên những quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn
5
5
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
cịn chế ngự (phê bình tơn giáo chủ yếu vào căn bản của thuyết vô
thần luận mác xít và các hình thái vơ thần duy vật khác) thì các
luận điểm này đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức:
khơng thể nhìn tơn giáo qua mệnh đề của Mác đã bị cắt xén và
phiến diện “Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Phải nhìn nhận
tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận
quần chúng và nó hồn tồn có thể đồng hành với CNXH. Riêng
luận đề mới mẻ về Văn hóa tơn giáo đã khơi dậy trực tiếp nhất
những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, người có tơn
giáo cũng như khơng có tơn giáo. Khi các giá trị văn hóa, đạo đức
của tơn giáo được đặt trong khn khổ của văn hóa dân tộc một
mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hóa dân tộc, mặt khác tạo
ra thêm một con đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt
các giá trị văn hóa, đạo đức của tơn giáo thuận lợi hơn trong quá
trình “Tìm về dân tộc”… Quan trọng là từ đây, nhận thức về vấn
đề tôn giáo của cán bộ, đảng viên và quần chúng đã có bước tiến
khá dài. Một bầu khơng khí xã hội mới mẻ đã lan tỏa, ranh giới vơ
hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương giáo” mà các thế lực
đế quốc, thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu
thuẫn, nay đã được gỡ bỏ căn bản, tạo nên những điểm sáng trong
quan điểm Đạo Đời.
Kể từ sau Nghị quyết 24/NQ-TW, Đảng, nhà nước ta cịn có
nhiều văn kiện, văn bản pháp lý khẳng định và phát triển tư duy
đổi mới về tôn giáo, như: Chỉ thị 37- CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ
Chính trị về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới… (từ 1990 đến
2003, đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2 Nghị quyết,
2 Chỉ thị, 9 Thơng báo. Trong đó, cấp Ban Bí thư ban hành 1 Chỉ
thị, 7 Thông báo; cấp Bộ Chính trị ban hành 01 Nghị quyết, 01 Chỉ
thị và 02 Thông báo; cấp Ban Chấp hành TW ban hành 01 Nghị
quyết…); Chính phủ ban hành Nghị định số 69/NĐ- HĐBT ngày
21/3/1991 “Quy định về các hoạt động tôn giáo”, Nghị định
26/NĐ-CP ngày 19/4/1999 “Về các hoạt động tôn giáo”…
Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với tơn giáo,
nhìn lại từ tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới
nảy sinh, đặt trong hoàn cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay
đổi quan trọng, ngày 12/3/2003 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tơn
giáo, trong đó quan điểm, chính sách của Đảng ta đối với tín
ngưỡng, tơn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một
bước mới: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng
bào các tơn giáo là bộ phận của khối đại đồn kết tồn dân
tộc. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
6
6
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng
pháp luật…”.
Trên cơ sở các nền tảng đó, tháng 7/2004, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thơng qua, ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, và
thánh 11/2016 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua, ban
hành được Luật Tín ngưỡng, tơn giáo. Hiến pháp năm 2013 cũng
tiếp tục khẳng định quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng cũng như
sức lan tỏa của 02 Nghị quyết 24, 25-NQ/TW đến nay đã đem lại
nhiều thành tựu đối với đời sống tơn giáo trong nước nói riêng,
cũng như đời sống chính trị-văn hóa-xã hội cả nước nói chung, cụ
thể:
Thứ nhất, đã làm chuyển biến căn bản nhận thức của xã hội,
nhất là nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở
các cấp về tơn giáo và cơng tác tơn giáo. Nhìn nhận tín ngưỡng,
tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; coi trọng
những giá trị văn hóa, đạo đức tơn giáo tốt đẹp; thực hiện nhất
qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo của nhân dân. Tâm lý mặc cảm, định kiến với tôn giáo
giảm dần; coi đồng bào có tơn giáo là bộ phận quan trọng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo
cũng là sinh hoạt văn hóa bình thường của nhân dân, quần chúng
có đạo. Cơng tác vận động tín đồ, chức sắc tơn giáo được đẩy
mạnh, gắn kết đồng bào tín đồ các tơn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nội lực của tồn dân trong
q trình hội nhập và phát triển đất nước.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng bằng hệ
thống các văn bản chính sách, pháp luật về tơn giáo ngày càng
hồn thiện. Nhờ hệ thống chính sách, pháp luật và những hướng
dẫn, chỉ đạo cụ thể, có thể nói, chưa bao giờ sinh hoạt tín ngưỡng,
tơn giáo của nhân dân được thuận lợi như hiện nay. Sinh hoạt tơn
giáo của chức sắc, tín đồ được bảo đảm, nhu cầu sinh hoạt tôn
giáo được hướng dẫn và giải quyết nhanh chóng theo trình tự quy
định của pháp luật.
Thứ ba, xác định nội dung cốt lõi công tác tôn giáo là cơng
tác vận động quần chúng, cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các tổ chức
chính trị - xã hội các cấp đã quan tâm đẩy mạnh công tác vận
động quần chúng tôn giáo. Quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân; tập trung giải quyết vấn
đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào. Đẩy mạnh công tác vận
động chức sắc, tín đồ tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu
nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”; tham gia các hoạt động xã hội, từ
7
7
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
thiện, nhân đạo… Cả hệ thống chính trị đã có sự phối hợp thống
nhất trong lĩnh vực công tác vận động quần chúng tôn giáo; xây
dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện, thường xuyên thăm hỏi,
động viên các tổ chức, chức sắc, tín đồ tơn giáo nhân các ngày lễ,
tết của đất nước, lễ trọng của các tôn giáo; tham gia giải quyết kịp
thời các vụ việc phức tạp nảy sinh liên quan đến tôn giáo.
Thứ tư, hoạt động đối ngoại tôn giáo được đẩy mạnh qua các
kênh của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức, cá
nhân tơn giáo và liên quan đến tôn giáo ở trong nước và trên quốc
tế. Các bộ, ngành liên quan và các địa phương quan tâm tạo điều
kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động về tơn giáo ở
nước ngồi vào tìm hiểu và tham dự các hoạt động tôn giáo tại
Việt Nam, đi thực tế tình hình tơn giáo ở các vùng, miền để hiểu rõ
hơn tình hình và việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp
luật về tơn giáo của Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, công tác đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực xấu nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế
độ tiếp tục được tăng cường, đổi mới; an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội được đảm bảo. Cơng tác phối hợp giữa ban dân vận,
chính quyền các cấp, các lực lượng chức năng, MTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội ngày càng chặt chẽ, thông qua các chương
trình phối hợp cơng tác đồng bộ, thống nhất. Cơng tác tuyên
truyền, vận động đã giúp quần chúng nhân dân, tín đồ tơn giáo
nhận rõ những âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo của các thế
lực xấu và tự giác đấu tranh với những việc làm sai trái, vi phạm
pháp luật... Tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức, chức sắc, nhân
sĩ, trí thức tơn giáo và các lực lượng tiến bộ, bạn bè trên thế giới
lên án các hành vi của các đối tượng xấu đi ngược lại lợi ích của
quốc gia, dân tộc và xu hướng phát triển tiến bộ của thời đại.
NỘI
III. TÌNH HÌNH TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO HIỆN NAY Ở TP. HÀ
1. Tình hình chung
Thành phố Hà Nội là đầu não chính trị - hành chính quốc gia,
trung
tâm
lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục và giao dịch quốc tế, là nơi đặt
trụ
sở
của
các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính
trị
xã
hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế và là nơi
diễn
ra
các
hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của nhà nước.
Cũng như các địa phương khác trên cả nước, các tơn giáo từng
bước
du
nhập, hình thành và phát triển ở Hà Nội. Các tôn giáo ở Hà Nội,
8
8
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
tuy
số
lượng
khơng nhiều, chiếm tỷ lệ khơng cao trong dân số, nhưng lại có vị
trí
đặc
biệt
quan trọng. Hầu hết các tơn giáo lớn đều có trụ sở tại Hà Nội, như
trụ
sở
Trung
ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đặt tại số 73 phố Quán Sứ, quận
Hoàn
Kiếm; Học viện Phật giáo Việt Nam tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn;
Trường
Trung cấp Phật học tại chùa Mỗ Lao, quận Hà Đông; Toà Giám mục
Hà
Nội
tại số 40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, đồng thời là trụ sở Văn
phòng
I
của Hội đồng Giám mục Việt Nam; Tồ Giám mục Hưng Hố tại số
5,
phường
Lê Lợi, thị xã Sơn Tây; Đại Chủng viện Thánh Giuse với 2 cơ sở: cơ
sở
1
tại
số
40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm và cơ sở 2 tại phường Cổ
Nhuế,
quận
Bắc Từ Liêm; Văn phòng Uỷ ban Bác ái và Văn phòng của tổ chức
Caritas
tại
số 31 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm; Trụ sở Tổng hội Hội thánh
Tin
lành
Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin lành Hà Nội, đặt tại số 2 Ngõ
Trạm,
quận Hồn Kiếm; Thánh thất Cao Đài Thủ đơ tại số 48 phố Hòa
Mã,
quận
Hai
Bà Trưng; Thánh đường Hồi giáo Al-Noor Hà Nội tại số 12 phố Hàng
Lược,
quận Hoàn Kiếm. Ngoài ra, người nước ngoài đang sinh sống và
làm
việc
tại
các tập đoàn kinh tế, các tổ chức văn hóa, các tổ chức quốc tế và
các
cơ
quan
đại diện ngoại giao.
Trên địa bàn Hà Nội, ngoài các tôn giáo đã được công nhận tư
cách
pháp
nhân đang hoạt động, gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi
giáo
(Islam
giáo), đạo Cao đài, Minh sư đạo, Baha’i và Giáo hội các Thánh hữu
ngày
sau
của Chúa Giêsu Kytô Việt Nam (Giáo hội Mặc Mơn), cịn có một số
hệ
phái
Tin lành chưa có tư cách pháp nhân và hàng chục hiện tượng tơn
giáo
mới
đã
và đang tìm cách truyền bá, phát triển lực lượng. Ngồi ra, tơn
9
9
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
giáo
ở
Hà
Nội
cịn chịu ảnh hưởng bởi những diễn biến tơn giáo của các tỉnh,
thành
trong
cả
nước, trong đó bao gồm cả những mặt tích cực và tiêu cực. Đa số
tơn
giáo
ở
Hà
Nội có quan hệ và chịu ảnh hưởng rất lớn từ các tổ chức quốc tế,
nhất
là
Công
giáo, Tin lành. Như vậy, Hà Nội là địa phương đa dạng về tôn giáo.
Không những thế Hà Nội là địa phương có nhiều đầu mối (cơ quan
TW) của các tơn giáo.
2. Đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Hà Nội
Thủ đơ Hà Nội có vị trí đặc biệt quan trọng trong q trình
xây dựng và phát triển đất nước, cùng với những diễn biến của xu
thế tồn cầu hóa, khu vực hóa trên mọi lĩnh vực, trong đó có hoạt
động tơn giáo. Hà Nội là trọng điểm số một mà các thế lực thù
địch hướng tới trong mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống
phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay, tình hình tơn giáo ở Hà Nội có
những diễn biến phức tạp vì hầu hết những diễn biến tơn giáo
trong cả nước và Hà Nội đều tác động trực tiếp qua lại lẫn nhau.
Thứ nhất, các tôn giáo lớn ở Việt Nam, rõ nhất là những tơn
giáo
có
cộng đồng lớn, như Phật giáo, Công giáo và Tin lành đều đặt Trung
ương
Giáo hội tại Hà Nội, do vậy, cơ bản những diễn biến tôn giáo trong
cả
nước
đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà Nội, từ đó gây ảnh hưởng
đến
tình
hình an ninh trật tự xã hội cũng như chính trị ở Thủ đơ, đồng thời,
các
tôn
giáo cũng thường hướng về Thủ đô để học hỏi những việc làm tốt
đẹp,
hoặc
ngấm ngầm thực hiện những việc làm trái với pháp luật. Hơn nữa,
những
động thái, diễn biến của tơn giáo ở Hà Nội cũng có tác động trực
tiếp
đến
những động thái tôn giáo của các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Thứ hai, tôn giáo ở Hà Nội là đầu mối của các quan hệ quốc
tế
liên
quan
đến lĩnh vực tôn giáo giữa các tôn giáo trong nước với các tôn
giáo,
tổ
chức,
cá nhân ở các nước trên thế giới. Nổi bật là mối quan hệ của Cơng
giáo
với
Tịa thánh Vatican, với Thượng Hội đồng giám mục Á châu; Tin
Lành
với
10
10
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
Hàn Quốc, với nước Mỹ và với những giáo phái khác; Hồi giáo có
mối
quan
hệ với các nước khối Ả rập.
Thứ ba, hiện nay, một số tổ chức tôn giáo ở Hà Nội xảy ra các
hoạt
động
khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến đất đai có nguồn gốc tôn giáo,
xây
dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự và tranh chấp quyền trơng nom,
quyền
quản
tự
viện khá phức tạp, điển hìnhnhư các vụ việc tại số 42 Nhà Chung,
giáo xứ Thái Hà, Núi Chẽ - Đồng Chiêm… ảnh hưởng đến an ninh,
trật tựtrên địa bàn Hà Nội và khối đoàn kết toàn dân tộc. Ngồi ra,
trên địa bàn Hà Nội có cộng đồng đạo Tràng Phật giáo khá đông
đảo, tốc độ phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và nhóm sinh
hoạt, hoạt động tôn giáo. Đa phần người dân Việt Nam nói chung
và
người
Hà
Nội nói riêng đều có tín ngưỡng dân gian, do đó, đạo Tràng hoạt
động
với
giáo
lý cùng cơ sở vật chất trên cơ sở của Phật giáo, nên nhiều người
dễ
tin
theo
và
có người cịn nhầm lẫn tưởng đó là Phật giáo. Islam giáo trong nội
bộ
chưa
đồn kết, khơng thống nhất...
Thứ tư, các tơn giáo ổn định tổ chức, sinh hoạt tôn giáo tuân
thủ pháp luật, có đường hướng đồng hành, gắn bó với dân tộc,
một số chức sắc, chức việc tôn giáo tham gia các tổ chức chính trị
- xã hội. Ngồi ra, các tơn giáo trên địa bàn Hà Nội tích cực tham
gia các hoạt động từ thiện xã hội. Hầu hết, các Giáo hội tơn giáo
lớn đều có và đặt cơ sở đào tạo trên địa bàn Hà Nội, từ đó hội tụ
sự giao thoa cả về những người học cũng như người giảng đạo đến
từ các tỉnh, thành phố trên cả nước về học tập, trao đổi kinh
nghiệm hoạt động tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo. Tuy nhiên một
số tôn giáo đã lợi dụng sự đan xen các hoạt động xã hội, như hoạt
động từ thiện, nhân đạo, y tế và giáo dục để truyền bá, nâng cao
uy tín của tơn giáo mình với những người tiếp nhận các hoạt động
xã hội do tổ chức tôn giáo triển khai thực hiện, nhằm dần lơi kéo
họ trở thành tín đồ của tơn giáo mình.
Thứ năm, Hà Nội là địa bàn có số lượng các hiện tượng tơn
giáo mới khá cao (bằng khoảng 1/4 cả nước), các hiện tượng tơn
giáo
mới
này
có
xu
hướng
hoạt động trái pháp luật, gây mất trật tự an ninh, chính trị và an
tồn
xã
hội
trên
địa bàn. Trong đó, đã có một số hiện tượng tôn giáo mới do một số
phần tử cực đoan tự xưng pháp danh hoặc tự thành lập nhóm, như
11
11
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
Hồng Thiên Long, Đức Chúa Trời Mẹ… hoạt động trái pháp luật đã
để các cơ quan chính quyền nhà nước phải vào cuộc để giải quyết
những vấn đề trật tự an ninh và an toàn xã hội.
3. Thực trạng tơn giáo, tín ngưỡng tại Hà Nội, các vấn
đề đặt ra
Với tư cách là trung tâm tôn giáo của cả nước, với những đặc
điểm tôn giáo trên địa bàn Hà Nội hiện nay có một số vấn đề đặt
ra cho CTTG của Hà Nội cần quan tâm, như:
Thứ nhất, các tôn giáo ở Hà Nội đều tham gia tích cực các
hoạt động xã hội, như: từ thiện, nhân đạo, cứu trợ, giáo dục và y
tế, về mặt tích cực của các hoạt động này đã hỗ trợ làm giảm bớt
một phần sự quá tải cho các cơ quan chính quyền nhà nước. Tuy
nhiên, qua đây có một số tổ chức tôn giáo đã tận dụng những hoạt
động này nhằm truyền bá, gây uy tín với cộng đồng người dân để
dần lơi kéo họ trở thành tín đồ của tơn giáo mình. Hơn nữa, đối với
các đối tượng lợi dụng tôn giáo, kể cả đối tượng trong nước và đối
tượng ở nước ngồi, thơng qua các hoạt động này thì đây là cơ hội
để tuyên truyền chống phá cơng cuộc cách mạng của nước ta.
Ngồi ra, có một số chức sắc, chức việc của tôn giáo ở Hà Nội
cũng tích cực tham gia vào các cơ quan dân cử và tổ chức - chính
trị của Thành phố Hà Nội, cùng với các quan hệ quốc tế giữa các
tổ chức tôn giáo trong nước với các tổ chức, cá nhân tôn giáo các
nước trên thế giới và sức ảnh hưởng của nó cũng có thể đội ngũ
chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo bị các thế lực phản động
lợi dụng. Do vậy, đội ngũ này cần thường xuyên được đào tạo, bồi
dưỡng những kiến thức về chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà
nước để có lập trường tư tưởng vững vàng đi đúng tơn chỉ, mục
đích của giáo lý, giáo luật tơn giáo của mình và đồng hành cùng
dân tộc xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, một số chức sắc tơn giáo có những biểu hiện tranh
chấp, khiếu kiện với chính quyền địa phương, điều này dễ nảy sinh
việc kéo theo một bộ phận tín đồ do họ bị lơi kéo, gây mất an ninh
chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn địa phương, hơn nữa gây mất
lòng tin của nhân dân với chính quyền địa phương và cũng là điểm
tạo các kẽ hở trong đồn kết nội bộ chính quyền với nhân dân, để
các thế lực lợi dụng tơn giáo có cơ hội chống phá.
Thứ ba, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành
của các tơn giáo có yếu tố nước ngoài tham gia, điều này cũng
cần phải quan tâm quản lý chặt chẽ, ngăn chặn những phần tử
tranh thủ hoạt động đào tạo, lợi dụng tôn giáo để xây dựng các cơ
sở hoạt động chính trị trên địa bàn Hà Nội chống phá Đảng và
cách mạng Việt Nam.
12
12
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
Thứ tư, quan hệ quốc tế của các tôn giáo và ảnh hưởng của
các tôn giáo nước ngồi đối với tơn giáo ở Việt Nam trên địa bàn
Hà Nội với những điều phối trực tiếp của tơn giáo nước ngồi đối
với tơn giáo ở Việt Nam. Đồng thời, trong xu thế tồn cầu hóa, vào
thời kỳ đất nước mở cửa quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã
hội với nước ngồi, ngày càng có nhiều người nước ngồi (các
quốc tịch, tơn giáo khác nhau) đến Hà Nội theo nhiều mục đích
khác nhau. Điểm này là điểm đáng phải quan tâm chú ý tăng
cường quản lý để ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng tơn giáo,
chính sách tự do tơn giáo của Nhà nước ta, nói xấu, chống phá
Đảng và Nhà nước ta.
Thứ năm, đạo tràng trên địa bàn Hà Nội những năm gần đây
hoạt động và phát triển mạnh mẽ, có những đạo tràng hoạt động
tốt, có những đạo tràng hoạt động gây mất an ninh, trật tự xã hội,
đi trái với phong tục, tập quán của người Việt Nam, không hợp tác
với chính quyền địa phương gây bất ổn trong quần chúng nhân
dân trong địa bàn của địa phương. Việc hoạt động tơn giáo tập
trung đơng người ngồi cơ sở tơn giáo của các nhóm đạo tràng
gây khó khăn trong cơng tác quản lý nhà nước, khó khăn trong
việc đảm bảo an tồn, vệ sinh, phịng chống cháy nổ, an ninh trật
tự. Đặc biệt, nội dung sinh hoạt tôn giáo không được định hướng,
khó kiểm sốt, ví dụ như: Đạo tràng Adida, đạo tràng Tu học phật
pháp, đạo tràng Niệm Phật và đạo tràng phường Thanh Trì ở địa
bàn quận Hồng Mai, đạo tràng ở chùa Quán Âm.
Thứ sáu, gần đây, nổi lên một số hiện tượng tơn giáo mới có
hoạt động mê tín dị đoan, một số hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới gây ảnh hưởng xấu về kinh tế, văn hóa, xã hội, thậm
chí là phi nhân tính, phản văn hóa, phản khoa học, hơn nữa cịn
gây phương hại đến sự ổn định chính trị, gây chia rẽ cộng đồng, cá
biệt bị biến thành công cụ của các thế lực thù địch. Hoạt động
truyền đạo của các hiện tượng tơn giáo mới làm phương hại đến
chính sách tự do tơn giáo, gây khó khăn cho cơng tác quản lý nhà
nước cũng như quản lý xã hội trên địa bàn Hà Nội. Một số đạo giáo
mới gây nhiều bức xúc trong dư luận như đạo Thánh đức chúa trời
lôi kéo nhiều tín đồ bằng chiêu trị.
4. Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật liên quan đến lĩnh vực tôn giáo
Công tác tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật là một
trong những giải pháp rất quan trọng trong cơng tác tơn giáo tín
ngưỡng, thành phố Hà Nội tuy đã có những thành tựu nhất định
nhưng vẫn cịn nhiều điểm cần phải hồn thiện. Để nâng cao cơng
tác này cả về hình thức, nội dung tun truyền, phổ biến sao cho
đa dạng, phong phú và hấp dẫn hơn, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một
13
13
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
số giải pháp về cơng tác tuyên truyền mà Thành phố Hà Nội có
thể quan tâm như sau:
Thứ nhất, đởi mới hình thức tun truyền
Một là, thơng qua tổ chức các chương trình thi tun truyền,
phổ biến về pháp luật liên quan đến lĩnh vực tôn giáo dưới dạng
sân khấu hóa và dạng viết chuyên đề theo chủ đề trên cơ sở phát
động các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật liên quan đến lĩnh vực tôn
giáo để thu hút đông đảo mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, bao
gồm cả đội ngũ làm CTTG ở Hà Nội và đội ngũ chức sắc tôn giáo,
quần chúng tín đồ tơn giáo tìm hiểu về pháp luật liên quan đến
lĩnh vực tôn giáo tham gia. Đối với lớp tập huấn, đào tạo, bồi
dưỡng truyền thơng cần phải có các hình thức phản hồi thơng tin,
tùy theo từng đối tượng tham gia cụ thể để kiểm tra kết quả của
lớp học, như: đưa các tình huống cần phải xử lý, giải quyết trên cơ
sở thực tiễn để kiểm tra, thay vì bài viết thu hoạch một cách máy
móc, vì phần lớn học viên viết bài thu hoạch chỉ chép lại trong tài
liệu.
Hai là, ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng cổng
thông tin điện tử trực tuyến giao tiếp trên mạng internet chuyên
về lĩnh vực tôn giáo để tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan
đến lĩnh vực tôn giáo và đưa thông tin về các tôn giáo, hoạt động
của các tôn giáo trên địa bàn Hà Nội, đồng thời là nơi tiếp nhận,
giải đáp những thông tin phản hồi của chính đội ngũ làm CTTG và
chức sắc tơn giáo, quần chúng tín đồ tơn giáo cùng tồn thể nhân
dân quan tâm đến tôn giáo Hà Nội và CTTG trên địa bàn Hà Nội,
tạo thuận lợi để có thể mọi lúc, ở mọi nơi thông qua mạng internet
những người quan tâm đều có thể tìm hiểu được về những nội
dung mình mong muốn.
Thứ hai, đa dạng nội dung tuyên truyền
Một là, nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan
đến lĩnh vực tôn giáo không chỉ dừng ở những nội dung thuần túy
về lĩnh vực tôn giáo, bên cạnh các nội dung trực tiếp liên quan đến
hoạt động tôn giáo cũng cần phải thường xuyên tuyên truyền phổ
biến các nội dung mà lĩnh vực khác có liên quan đến lĩnh vực tôn
giáo, như: lĩnh vực đất đai, xây dựng, giáo dục, y tế, di sản văn
hóa, an ninh quốc phịng,... Từ đó, trước hết là giúp cho đội ngũ
làm CTTG hiểu biết rộng hơn để nâng cao năng lực công tác, sau
là các chức sắc tôn giáo, lực lượng những người có uy tín trong các
tơn giáo cùng với tín đồ các tơn giáo cũng được tăng phần hiểu
biết về các lĩnh vực khác có nội dung liên quan đến tơn giáo, góp
phần giảm thiểu được tối đa các vụ việc khiếu kiện xuất phát từ
chức sắc tơn giáo, tổ chức tơn giáo và cộng đồng tín đồ các tôn
giáo.
14
14
Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính Khóa xx
Hai là, cần xây dựng một đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm
về CTTG, về chuyên mơn biên tập thơng tin, về các lĩnh vực khác
có nội dung liên quan đến lĩnh vực tôn giáo để làm việc ở cơ quan,
đơn vị cấp Thành phố chuyên trách về CTTG, QLNN về tôn giáo.
Nhiệm vụ của đội ngũ này là biên tập một cách xúc tích, ngắn
gọn, dễ hiểu, đầy đủ các nội dung thông tin từ những chủ trương,
chính sách Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến CTTG nói
chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng, đồng thời kết
hợp với những chính sách và hoạt động QLNN của Thành phố Hà
Nội đối với lĩnh vực tôn giáo đảm bảo vận dụng linh hoạt, đúng
pháp luật. Những nội dung đã được biên tập này, một mặt được
đưa lên chuyên mục trên cổng thông tin điện tử trực tuyến chuyên
về lĩnh vực tôn giáo của Thành phố, mặt khác để xây dựng bộ tài
liệu đầy đủ, đa lĩnh vực phục vụ các lớp tập huấn, đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ CTTG cho đội ngũ làm CTTG từ
cấp Thành phố đến cấp cơ sở, đồng thời xây dựng bộ tài liệu tuyên
truyền thông qua các lớp tập huấn cho đội ngũ chức sắc các tơn
giáo và lực lượng những người có uy tín trong các tơn giáo. Những
nội dung biên tập phải đảm bảo khơng có những thơng tin khơng
cần thiết cho CTTG trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên Nguyễn Thị Ngọc An - Lớp Trung cấp Chính trị
- Hành chính Khóa xx Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
15
15