Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu ứng dụng bài tập nhằm nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.72 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THẠC HIẾU

LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO THỂ LỰC
CHUNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
VĂN HÓA NGHỆ THUẬT NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Nghệ An, 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THẠC HIẾU

LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO THỂ LỰC
CHUNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
VĂN HÓA NGHỆ THUẬT NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số


: 60.14.61.03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Việt

Nghệ An, 2017
2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

cm

Centimet

GDTC

: Giáo dục thể chất

KG

: Kilogam

m

: Mét

NXB

: Nhà xuất bản


s

: Giây

TDTT

: Thể dục thể thao

LVĐ

: Lượng vận động

VĐV

: Vận động viên

TDTT

: Thể dục Thể thao

3


DANH MỤC BẢNG
Tiêu đề

TT

Trang


Kết quả phiếu phỏng vấn các sinh viên về thực trạng
Bảng 3.1

công tác giáo dục thể chất của Trường Cao đẳng Văn

33

hóa Nghệ thuật
Đánh giá thể lực chung của sinh viên Trường Cao đẳng
Bảng 3.2

Nghệ thuật

37

Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên các bài tập được sử
Bảng 3.3

dụng trong giáo dục tố chất thể lực chung cho cho đối

41

tượng
Kết quả so sánh tự đối chiếu các test đánh gái trình độ
Bảng 3.4

thể lực chung trước và sau thực nghiệm cả sinh viên
trường Cao đảng Văn hóa Nghệ thuật

4


45


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

1.1. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về công tác giáo dục
thể chất học đường

4

1.2. Giáo dục thể chất trong các trường đại học ở Việt Nam

9

1.3. Các chỉ tiêu thể lực một nội dung cơ bản đánh giá chất lượng giáo dục
thể chất

11

1.4. Khái quát các luận điểm cơ bản về giáo dục các tố chất thể lực trong
thể dục thể thao


16

1.5. Đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi sinh viên trong tập luyện và thi đấu thể
thao

21

1.6. Quan điểm về bài tập thể chất trong giáo dục tố chất thể lực chung cho
lứa tuổi học sinh, sinh viên

30

1.7. Khái quát về Trường Cao đẳng Nghệ thuật Nghệ An

33

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

38

2.1. Phương pháp nghiên cứu

38

2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

38

2.1.2. Phương pháp phỏng vấn


38

2.1.3. Phương pháp quan sát sư phạm

38

2.1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm

39

2.1.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

41

2.1.6. Phương pháp toán học thống kê

42

2.2. Tổ chức nghiên cứu

43

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

43

5



2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

43

2.2.3. Kế hoạch và thời gian nghiên cứu

43

2.2.4. Địa điểm nghiên cứu

43

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

44

3.1 Đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của sinh viên Trường Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật

44

3.2. Đánh giá trình độ thể lực chung của sinh viên Trường Cao đẳng Văn
hóa Nghệ thuật Nghệ an

48

3.2.1. Lựa chọn các bài tập phát triển thể lực chung cho sinh viên trường
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật

49


3.3. Kết quẩ phỏng vấn mức độ ưu tiên các bài tập được sử dụng trong giáo
dục tố chất thể lực chung cho đối tượng nghiên cứu

52

3.4. Kết quả so sánh tự đối chiếu các test đánh giá trình độ thể lực trước và
sau thực nghiệm của sinh viên Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ
an

56

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

63

PHỤ LỤC

Sau

6


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố

trong bất kỳ cơng trình nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thac Hiếu

7


Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm tới Trường Đại học Vinh, phòng Đào tạo sau đại
học, Trường Cao Đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ an đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tác giả trong suốt qua trình hoc tập và nghiên cứu.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy cô giáo, các nhà khoa học đã tận
tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong qua trình học tập, nghiên cứu và hồn
thành khóa học.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn Ts nguyễn Ngọc Việt đã dành nhiều
thời gian và tâm huyết chỉ bảo cho tác giả những kiến thức và kinh nghiệm quý
báu, giúp tơi tự tin trong qua trình nghiên cứu để hồn thiên luận văn thạc sĩ này.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn ban giam hiệu trường Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật Nghệ an, các cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên đã giúp đỡ tơi
trong qua trình điều tra, khảo sát, thu nhập các dữ liệu liên quan đến đề tài.
Tôi củng xin chân thành cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp, người thân đã
tân tình giúp đỡ trong qua trình học tập, nghiên cứu và hồn thành khóa học.
Mặc dù trong qua trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, bản
thân đã rất nỗ lực và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Vì vây, rất mong được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và
các nhà giáo, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiên hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ an, tháng 8 năm 2017

Tác giả

Nguyễn Thạc Hiếu

8


ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết: Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
Đảng và Nhà nước ta ln coi trọng vị trí của cơng tác TDTT. Vì đó là động lực
quan trọng cần phải có chính sách chăm sóc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt
Nam phát triển hài hoà về các mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức. Sức
khỏe là một bộ phận cấu thành của nền văn hoá, là mặt quan trọng của chất lượng
đời sống, là nguồn tài sản quý báu của mỗi quốc gia, là sản phẩm phản ánh một
cách khách quan thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học, trong đó có sự đóng góp
quan trọng của ngành TDTT nói chung và ngành khoa học TDTT nói riêng.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu”. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Giáo dục đại học,
đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
đó là những con người có phẩm chất năng lực, sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp phát triển đất nước”.
Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 11/12/1998 đã ghi rõ: “... Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người phát triển toàn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và củ nghĩa xã hội (CNXH);
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”.
Giáo dục thể chất (GDTC) trong nhà trường là một bộ phận quan trọng
không thể thiếu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN). GDTC khơng chỉ
tác động tích cực tới q trình phát triển và hồn thiện thể chất mà cịn góp phần

quan trọng phát triển các phẩm chất đạo đức, nhân cách nhân cách và những
phẩm chất cần thiết cho cuộc sống, học tập và lao động của con người.
Trong những năm qua công tác GDTC trong nhà trường các cấp đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ, trình độ thể lực cũng như thành tích thể
thao sinh viên được nâng cao, số lượng sinh viên tham gia thi đấu các giải thể
thao quốc gia, khu vực ngày càng nhiều.
9


Tuy nhiên, bước vào thế kỷ 21, chúng ta đứng trước những thách thức to
lớn về nguồn nhân lực : “...nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường
đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục và đào tạo...”, “...chất lượng giáo dục
và đào tạo là một thách thức, là đơn đặt hàng đối với cả người dạy, người học và
người sử dụng loại hàng hoá đặc biệt này...”. Thực tế này đặt ra những yêu cầu
rất cao đối với công tác đào tạo cao đẳng, đòi hỏi mỗi sinh viên phải được rèn
luyện và có sự chuẩn bị tốt về sức khoẻ và trình độ thể lực cao nhằm đáp ứng
với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Một trong những nguyên nhân của hiện trạng đó là việc dạy học mơn thể
dục ở nhiều trường chỉ coi trọng hình thức, giảng dạy hết chương trình mà chưa
chú trọng thực chất, chưa thường xuyên quan tâm tới việc phát triển thể lực
chung cho sinh viên. Nội dung giờ học chính khố ít, khơng được coi trọng, việc
tập luyện ngoại khoá phần lớn lại mang tính tự phát.
Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ an là một trường chuyên
nghiệp lớn ở khu vực bắc miền Trung, với mục đích đào tạo ra đội ngũ cán bộ,
giáo viên có trình độ cao đẳng. Vì thế, yêu cầu về sức khoẻ và thể lực chung đối
với sinh viên có đặc thù nghề nghiệp và cao hơn các khối trường khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác GDTC cho sinh viên, trường
Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ an khơng chỉ thực hiện đầy đủ và
nghiêm túc các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nội dung chương trình
GDTC mà còn xây dựng, tổ chức các nội dung học tập mới phù hợp với điều

kiện của nhà trường trong chương trình ngoại khố. Điều đó đã góp phần khơng
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cơng tác GDTC và trình độ thể lực chung cho
sinh viên.
Tuy nhiên, thực trạng thể lực chung của sinh viên trường Truờng Cao
đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ an còn nhiều hạn chế, đặc biệt trước những yêu
cầu ngày càng cao của xã hội thì việc nâng cao hơn nữa trình độ thể lực chung
cho sinh viên là việc làm quan trọng.

10


Qua phân tích, tổng hợp các cơng trình nghiên cứu về cơng tác GDTC nói
chung về nâng cao thể chung chung cho sinh viên nói riêng cho thấy, mặc dù có
khá nhiều cơng trình nghiên cứu như Nguyễn Văn Thế (1997), Phạm Thị Nghị
(1999), Phạm Thu Thái (1999), Nguyễn Thị Bích Thuỷ (2001), Phan Thanh
Hiều (2007) ... Tuy nhiên, với đối tượng là trình độ thể lực chung của sinh viên
các trường nghệ thuật khu vực bắc miền Trung lại chưa được quan tâm nghiên
cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài:
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG BÀI TẬP NHẰM NÂNG CAO THỂ LỰC CHUNG CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT NGHỆ AN

 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của đối tượng
nghiên cứu, đề tài tiến hành lựa chọn và ứng dụng hệ thống các bài tập phát triển
tố chất thể lực chung cho sinh viên Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ
an phù hợp điều kiện thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDTC của
nhà trường hiện nay.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề đạt mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết các nhiệm

vụ nghiên cứu sau:
- Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của sinh viên
Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ an
- Nhiệm vụ 2: Lựa chọn, ứng dụng và xác định hiệu quả các bài tập phát
triển thể lực chung cho sinh viên Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ an

11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác GDTC học đường
Nhiệm vụ cơ bản có tính chiến lược của TDTT là góp phần bảo vệ, tăng
cường sức mạnh của nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, đóng thời góp phần
giáo dục đạo đức xây dựng nhân cách, nâng cao dân trí xã hội.
Giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối
với sự hồn thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện
thể chất của học sinh nhằm đào tạo con người mới phát triển, phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giữ vững an ninh quốc
phịng. Đó là lớp người “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần trong sáng về đạo đức” [6].
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của GDTC trong nhà trường các cấp là
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo lớp trẻ theo tinh thần nghị
quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng tạo.
Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước, luôn coi trọng vị trí cơng tác giáo dục thể
chất, là một mặt trong mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường xã hội chủ
nghĩa. GDTC trong nhà trường các cấp, còn giữ vị trí quan trọng và then chốt

trong chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT.
Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo
chung, đồng thời là một bộ phận quan trọng của nền TDTT Việt Nam. GDTC
trong trường học, đang cùng với thể thao thành tích cao, thể thao cho mọi người
và các bộ phận TDTT khác, đảm bảo cho nền TDTT phát triển cân đối và đồng
bộ, góp phần thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển TDTT Việt
Nam.

12


Từ khi cách mạng thành công 1945 Đảng và Nhà nước ta, đã quan tâm
đến việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Bác Hồ đã dạy: “Dân có cường
thì nước mới thịnh”, “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, đất nước ta bước vào giai đoạn
cách mạng mới, Đảng và Nhà nước rất coi trọng và quan tâm xây dựng nền
TDTT Việt Nam mang tính: Dân tộc, hiện đại, phục vụ đời sống và sức khoẻ
nhân dân. Sự hình thành và phát triển nền thể thao nước ta, cũng đã trải qua các
thời kỳ gắn liền với tình hình chính trị, kinh tế, văn hố của đất nước.
Tháng 03/ 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục khẳng định vị trí sức khoẻ dưới chế độ mới: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành cơng. Mỗi
một người dân yếu ớt là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân
khoẻ mạnh, tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ”. Vì thế, Người dạy:
“Luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
[42].
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác GDTC trường
học nhằm đào tạo những lớp người phát triển toàn diện, kế tục sự nghiệp cách
mạng, xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng XHCN và bảo vệ Tổ quốc, thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói
chung, về GDTC trong trường học nói riêng, xuất phát từ những cơ sở tư tưởng,
lý luận của học thuyết Mác – Lênin về con người và sự phát triển con người toàn
diện về giáo dục thế hệ trẻ trong xã hội XHCN, về những nguyên lý GDTC Mác
– xít, từ tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về TDTT nói chung và GDTC cho thế
hệ trẻ cho nói riêng.
Những tư tưởng lý luận cơ sở đó, đều được Đảng ta quán triệt trong suốt
thời kỳ lãnh đạo Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng
CNXH ngày nay, được cụ thể hoá qua các kỳ đại hội Đảng, các chỉ thị, các nghị
13


quyết, nghị định, thông tư về TDTT, ở từng giai đoạn Cách mạng theo yêu cầu
nhiệm vụ và tình hình cụ thể của đất nước.
- Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III tháng 09/ 1960, xác định
hướng công tác giáo dục và rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường. Chủ
trương này đã được hội nghị trung ương lần thứ VIII tháng 04/ 1963 phát triển
lên một bước mới phù hợp nguyên lý của chủ nghĩa Mác về phát triển con người
toàn diện. Nghị quyết Đại hội Đảng III viết: “... Công tác giáo dục phải được
phát triển theo quy mô lớn, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm
chủ nước nhà, có giác ngộ XHCN, có văn hố và có khoa học kỹ thuật, có sức
khoẻ nhằm phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ văn
hoá của nhận dân lao động ...”[5],[54].
- Đặc biệt về nội dung giáo dục toàn diện, Nghị quyết Đại hội Đảng VII,
1992 nêu rõ: “... Cần nâng cao chất lượng tồn diện của nội dung giáo dục, hiện
đại hố chương trình khoa học kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế, tăng
cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính sách của Đảng và đạo
đức Cách mạng, bồi dưỡng kỹ năng lao động và năng lực nghiên cứu khoa học
kỹ thuật, coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mỹ, TDTT và tập luyện quân sự ....

[8].
- Bước sang thời kỳ mới, khi đất nước hoàn tồn được giải phóng, Đại
hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Về TDTT, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề cập đến các
vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng trong các lĩnh vực: TDTT quần chúng,
thể thao thành tích cao, GDTC trong trường học và phát triển lực lượng VĐV
trẻ. Nghị quyết ghi rõ: “... Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT
quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thành thói quen hàng ngày của đơng
đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học ... [9]
- Nghị quyết VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, tháng
06/1991 đã khẳng định: “... Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao
14


cần thiết vào chương trình học tập của các trường học phổ thông, chuyên nghiệp
và các trường Đại học... [11]
- Giáo dục thể chất còn là nội dung bắt buộc đã được khẳng định trong
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 đã
ghi rõ: “... Việc dạy và học TDTT trong trường học là bắt buộc...” [8]
Gần đây, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm
1996 đã khẳng định: “... Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu ...” [11]
Để khẳng định vai trò tất yếu của TDTT đối với toàn xã hội, cũng như
nhằm thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa phong trào TDTT quần chúng và phong
trào GDTC học đường, Đảng ta ln có những chỉ thị, nghị quyết kịp thời đề ra
chủ trương đẩy mạnh tiến trình phát triển. Qua những giai đoạn cách mạng
tương ứng với những yêu cầu, tình hình và nhiệm vụ cụ thể, Đảng ta đã ban
hành các chỉ thị như:
- Chỉ thị 106/ CT – TW ngày 02/ 10/ 1958 của Ban Bí thư Trung ượng

Đảng về cơng tác TDTT và chỉ thị 180/ CT – TW ngày 26/ 08/ 1970 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng tăng cường công tác TDTT trong những năm tiếp theo là
một bước phát triển mới, xác định vị trí quan trọng của TDTT, coi TDTT là một
nhu cầu của quần chúng, là một mặt của xây dựng CNXH. Chủ trương trên được
cụ thể hoá tới sự phát triển phong trào TDTT trong học sinh, sinh viên ...[3]
- Chỉ thị 112/ CT ngày 09/ 05/ 1989 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác
TDTT trong những năm trước mắt ghi: “... Đối với học sinh, sinh viên, trước hết
nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học mơn TDTT theo chương
trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt
động thể thao tự nguyện ngoài giờ học... [28]
- Chỉ thị 36/ CT – TW ngày 24/ 03/ 1994 về công tác TDTT trong giai
đoạn mới đã nêu rõ: “Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần

15


thiết về cơ sở vật chất, để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường
học [6]
- Tại Hội nghị GDTC trong nhà trường phổ thơng tồn quốc tại Hải
Phịng, tháng 8/1996, ngun phó Thủ tướng Nguyễn Khánh đã nói: “Ước vọng
của chúng ta là mỗi thanh niên Việt Nam cả nam lẫn nữ, đều có cơ thể cường
tráng, cùng với tâm hồn trong sáng và trí tuệ phát triển”.
- Cũng trong năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị 133/TTg ngày
07/3/1996, về việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về GDTC
trường học ghi rõ: “... Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC
trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại khoá, quy
định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp học, có quy chế bắt buộc
đối với các trường ... [7]
Vì vậy, GDTC trường học là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục

đào tạo và thể dục ngành nghề là một mặt quan trọng trong hệ thống GDTC học
đường. Cùng với thể thao thành tích cao, GDTC trường học đã góp phần đảm
bảo cho nền TDTT nước nhà phát triển cân đối toàn diện, thực hiện mục tiêu
chiến lược củng cố, xây dựng và phát triển, đưa nền TDTT nước nhà hoà nhập
và tranh đua với các nước trong khu vực và thế giới.
Cùng với các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước, Bộ giáo dục và
Đào tạo đã thực hiện chủ trương, đường lối về cơng tác giáo dục thể thao nói
chung và GDTC học đường nói riêng, bằng rất nhiều các văn bản pháp quy, cụ
thể như:
- Thông tư liên tịch số 08/ LB – DN – TDTT ngày 24/ 12/ 1986 về công
tác TDTT trong các trường dạy nghề và sư phạm.
- Thông tư liên tịch số 04-93/ GĐ-ĐT-TDTT ngày 14/ 07/ 1993 về việc
xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải
tiến công tác tổ chức quản lý TDTT và GDTC trong trường học các cấp.
- Thông tư số 11/ TT – GDTT ngày 01/ 08/ 1994 về việc hướng dẫn chỉ
thị 36/ CT – TW.
16


- Thông tư số 2896/ GDTC ngày 04/05/1995 về việc hướng dẫn chỉ thị
133/ TTg của Thủ tương Chính phủ.
- Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo về đánh giá trình độ thể lực chung của học sinh và
sinh viên.
- Chương trình mục tiêu “cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục thể chất,
sức khoẻ, phát triển và bồi dưỡng tài năng trẻ thể thao học sinh và sinh viên
trong nhà trường các cấp”.
Giáo dục con người phát triển toàn diện phải “kết hợp hài hoà sự phong
phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về chất”. Sự cường
tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý tạo ra

sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo cho con người về thể
chất là trách nhiệm của tồn xã hội nói chung và ngành TDTT nói riêng. Đó
chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của nền giáo dục TDTT nước ta mà
Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm và nhắc nhở.
Đến nay, hệ thống tổ chức quản lý GDTC đã được hình thành và phát
triển trong nhà trường các cấp từ địa phương đến trung ương, khẳng định vị thế
quan trọng của công tác GDTC trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta.
Có thể thấy rằng lĩnh vực GDTC trong trường học nói chung và GDTC
trong các trường trung học cơ sở nói riêng, đã và đang thu hút sự chú ý quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các nhà giáo dục và chun mơn...
Nền văn hố truyền thống dân tộc, văn hố gia đình và văn hố nhà
trường, đã tạo nên những bậc thang phát triển tri thức đa dạng. Trong đó nền văn
hố nhà trường ln giữ vai trị chủ đạo. Đặc biệt, trong các sản phẩm, giá trị
văn hố đó, với học sinh trung học cơ ở, nhà trường cần phải đạt được mục đích
giáo dục và bồi dưỡng cho trẻ vốn tri thức và các giá trị khách quan của nền văn
hoá thể chất.

17


1.2. GDTC trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam
GDTC trong các trường cao đẳng có một vị trí và ý nghĩa vơ cùng quan
trọng trong việc đào tạo đội ngũ trí thức mới đáp ứng được những u cầu ngày
càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nước nhà để thực hiện
mục tiêu "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Giai đoạn học tập
trong các trường Cao đẳng của sinh viên là một giai đoạn quan trọng nhất trong
việc chuyển biến từ những bậc học mầm non đến phổ thông trong giai đoạn phát
triển ban đầu. Sau khi tốt nghiệp ra trường các sinh viên trở thành người cán bộ
khoa học có đầy đủ sức khoẻ, tri thức phẩm chất đạo đức và có thể hoạt động
một cách độc lập và sáng tạo trong chun ngành của mình. Trong tồn bộ hệ

thống giáo dục tồn diện đó GDTC đóng một vai trị rất to lớn. Thơng qua các
hoạt động TDTT sinh viên Cao đẳng có thể phát triển cơ thể một cách hài hoà,
cân đối, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, nâng cao năng lực làm việc chung và
chuyên môn, nhanh chóng thích nghi với những điều kiện học tập và sinh hoạt.
Bằng những hoạt động phong phú của mình, GDTC cịn góp phần quan trọng
trong việc rèn luyện và hình thành phát triển cho sinh viên những phẩm chất ý
chí như lịng dũng cảm, quyết đốn, tính kiên trì, ý thức tổ chức kỷ luật cũng
như việc giáo dục cho sinh viên lòng tự hào dân tộc, tinh thần tập thể, sự đoàn
kết và thẳng thắn, trung thực. Cùng với các hoạt động văn hố, văn nghệ, đồn
thể, ngoại khố khác thì cơng tác GDTC cũng góp một phần to lớn tạo nên nếp
sống lành mạnh, tươi vui, đẩy lùi và xoá bỏ những hành vi xấu và các tệ nạn tiêu
cực của xã hội.
Như vậy, mục tiêu của hệ thống GDTC trong các trường Cao đẳng là đào
tạo các cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hố xã hội có trình độ
cao, hồn thiện về thể chất, phát triển hài hoà về mọi mặt, có năng lực hoạt động
chun mơn độc lập, có tư tưởng và đạo đức tác phong xã hội chủ nghĩa, đáp
ứng được u cầu cơng nghiệp hố. hiện đại hố đất nước. Để thực hiện tốt mục
tiêu đó cơng tác GDTC trong các trường Cao đẳng phải giải quyết đồng thời 4
nhiệm vụ cơ bản là:
18


- Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ
chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác
học tập và rèn luyện thân thể, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ
quốc.
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và
phương pháp luyện tập TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản một số mơn
thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện
nói trên để tự rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ

chức các hoạt động TDTT ở cơ sở.
- Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của sinh viên, phát triển cơ thể một
cách hài hồ, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu
(uống rượu, hút thuốc) trong cuộc sống nhằm sử dụng thời gian vào cơng việc
có ích đạt hiệu quả tốt trong quá trình học tập và đạt những chỉ tiêu thể lực qui
định cho từng đối tượng và năm học trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
theo lứa tuổi.
- Giáo dục óc thẩm mỹ cho sinh viên và tạo điều kiện để nâng cao trình độ
thể thao của vận động viên sinh viên.
Hoạt động TDTT trong các trường Cao đẳng là một thành phần quan trọng
trong việc giáo dục toàn diện cho sinh viên. Để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục
của hoạt động TDTT cần quán triệt sự thống nhất của hai mặt:
+ Thứ nhất: GDTC trong trường Cao đẳng là một bộ phận hữu cơ của mục
tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, là phương tiện quan trọng và có hiệu quả
để phát triển hài hồ, cân đối cơ thể và các tố chất thể lực của sinh viên.
+ Thứ hai: GDTC trong trường Cao đẳng là một quá trình sư phạm, nó có
tác dụng tích cực đến phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong và thẩm
mỹ. Nó đóng một vai trị quan trong trong việc hình thành nhân cách cho người
cán bộ khoa học tương lai [7].
1.3. Các chỉ tiêu thể lực, một nội dung cơ bản đánh giá chất lượng GDTC
GDTC là một bộ phận quan trọng và cơ bản trong hệ thống giáo dục toàn
19


diện của Đảng nhà Nhà nước ta. Xuất phát từ mục tiêu và những hoạt động của
mình, cùng với những khái niệm cơ bản của các mặt giáo dục chung thì việc
đánh giá chất lượng GDTC cũng được xác định bởi khả năng thực hiện được
mục đích và nhiệm vụ chương trình. Ở Liên xơ cũ việc kiểm tra đánh giá chất
lượng GDTC được áp dụng theo các nội dung cơ bản sau:
- Thời gian tham gia học tập lý thuyết cũng như thực hành theo thời khoá

biểu của chương trình.
Kiểm tra trình độ thể lực, thực hiện được các yêu cầu tiêu chuẩn cấp 4 của
tổ hợp "Sẵn sàng và bảo vệ Tổ quốc" và nâng cao thành tích thể thao.
- Thực hiện được các bài tập và yêu cầu kiểm tra, kiểm tra lý luận GDTC
theo chương trình qui định.
1.3.1. Lý thuyết (kiến thức về GDTC)
Kiến thức GDTC có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiếp thu kỹ năng, kỹ
xảo vận động. Theo tác giả Nôvicốp và Mátvêép thì: "Kiến thức làm tiền đề cho
việc tiếp thu kỹ năng, kỹ xảo vận động và sử dụng một cách có hiệu quả các
năng lực thể chất trong cuộc sống. Kiến thức chỉ rõ ý nghĩa cá nhân và xã hội
của việc GDTC cũng như bản chất của việc giáo dục này, các kiến thức cho
phép sử dụng các giá trị của TDTT với mục đích tự giáo dục " [25].
Cũng theo 2 tác giả trên thì kiến thức về GDTC giúp cho việc lựa chọn và
sử dụng các bài thập thể chất "Cùng một loại bài tập, có thể mang lại hiệu quả
hoàn toàn khác nhau căn cứ vào phương pháp sử dụng bài tập đó" [25].
Theo tiến sỹ khoa học giáo dục Liên Xô Pomomarev- 1983 nhận xét: Kiến
thức GDTC được xác định bởi những tri thức chung, các hệ thống kỹ năng, kỹ
xảo phong phú để điều khiển mọi hoạt động của cơ thể trong không gian và thời
gian, biết sử dụng các kỹ năng, kỹ xảo vận động trong mọi điều kiện sống và các
hoạt động khác nhau của con người. Nhận thức bao hàm những kiến thức lý luận
khoa học, nội dung phương pháp tập luyện TDTT theo chương trình qui định
nhằm giáo dục cho sinh viên về đạo đức xã hội chủ nghĩa, tinh thần tập thể, tính
tự giác trong học tập, sử dụng các bài tập thể chất như là phương pháp GDTC
20


nhằm mục đích rèn luyện thân thể cũng như nâng cao sức khoẻ sẵn sàng lao
động và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cơng trình "nghiên cứu về khuynh hướng hiện đại của GDTC trong
các trường Cao đẳng và cách tiếp cận" tác giả Lê Văn Xem đã đề cập tới các vấn

đề "tăng cường chất lượng GDTC về văn hoá thể chất trong khâu dạy và học
TDTT bằng các giải pháp chú trọng hơn về khâu giáo dục nhận thức, hiểu biết
và năng lực vận dụng vào thực tiễn hoạt động tự chăm lo sức khoẻ, rèn luyện thể
chất hàng ngày".
Trên cơ sở những nhận định khoa học lý luận GDTC, chỉ rõ tầm quan
trọng của việc giáo dục. Các tác giả Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Lưu Quang
Hiệp, Nguyễn Xuân Sinh, Trương Anh Tuấn đã đề cập một cách có hệ thống
những tri thức cơ bản trong cuốn "Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất".
Sách dùng cho các trường Đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp năm
2006 [30]. Dựa trên chương trình GDTC đã được cải tiến nhằm giúp cho các
giáo viên và sinh viên trong việc dạy và học cũng như kiểm tra đánh giá chất
lượng GDTC.
1.3.2. Kỹ năng thực hành
Trong quá trình học tập, tập luyện các kỹ năng vận động cũng như kỹ xảo
vận động được hình thành, nó là kết quả của quá trình tiếp thu các động tác: kỹ
năng vận động thể hiện tiêu biểu bằng sự tiếp thu kỹ thuật động tác ở mức độ
phải tập trung chú ý cao độ vào các bộ phận tạo thành động tác và ở các cách
thức chưa ổn định khi giải quyết nhiệm vụ vận động" [29].
Trong quá trình tập luyện việc lặp đi lặp lại nhiều lần động tác thì các bộ
phận tạo thành động tác đó ngày càng trở nên quen thuộc, các cơ chế phối hợp
vận động dần dần được tự động hoá và kỹ năng vận động chuyển thành kỹ xảo.
Vì vậy có thể nói "kỹ xảo vận động thể hiện tiêu biểu bằng sự tiếp thu kỹ thuật
động tác ở mức độ sự điều khiển động tác xảy ra một cách tự động và động tác
tiến hành với độ vững chắc cao" [14] Như vậy khả năng thực hành được hiểu
như ở mức độ đánh giá nhất định (kỹ năng hoặc kỹ xảo). Việc thực hiện các
21


động tác kỹ thuật và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện học tập, trang
thiết bị dụng cụ, sân bãi, trình độ của sinh viên, chế độ học tập, nhận thức của

sinh viên trong việc chuyển hoá các bài tập thể chất là phương tiện để rèn luyện,
củng cố và nâng cao sức khoẻ, phát triển các tố chất thể lực phục vụ đắc lực cho
việc hoàn thành nhiệm vụ học tập và công tác sau này.
1.3.3. Các chỉ tiêu thể lực
Tại Liên Xô cũ ngay từ năm 1931 đã ban hành tiêu chuẩn tổ hợp các bài
tập "Sẵn sàng lao động và bảo vệ Tổ quốc". Nội dung và các yêu cầu đã được
điều chỉnh và thay đổi đã phản ánh sự thay đổi các điều kiện khách quan của
cuộc sống, phản ánh tiến trình nhanh chóng hồn thiện thể chất của các thế hệ
cơng dân và sự phát triển logic của hệ thống GDTC chất Xô viết. Các chỉ tiêu
thể lực được xác định dựa trên các nguyên tắc và cơ sở khoa học GDTC và mức
độ đánh giá cho các thành viên trong xã hội thực hiện, các tiêu chuẩn này được
xác định theo lứa tuổi, năm học và giới tính. Nội dung và yêu cầu tiêu chuẩn phụ
thuộc vào hệ thống GDTC của mỗi quốc gia.
Trong tổ hợp: "Sẵn sàng lao động và bảo vệ Tổ quốc" đã thể hiện rõ các
nguyên tắc cơ bản của hệ thống GDTC Xô Viết như nguyên tắc liên hệ với thực
tiễn lao động và quốc phòng, nguyên tắc phát triển cân đối toàn diện, nguyên tắc
nâng cao sức khoẻ. Các tiêu chuẩn trong tổ hợp đã là cơ sở cho mọi -tiêu chuẩn
thể hiện các chương trình GDTC ở Liên Xô cũ. Trong tổ hợp "Sẵn sàng lao động
và bảo vệ Tổ quốc" có 5 cấp: cấp 1, 2, 3 là các cấp dành cho thanh thiếu niên,
nhi đồng, cấp 4 là cấp "hoàn thiện thể chất dành cho các lứa tuổi 19 - 28 và 29 39 (nam) 19 - 28 tuổi và 29 - 34 tuổi (nữ).
Tổ hợp các bài tập này bao quát hầu hết các giai đoạn phát triển của
con người qua các lứa tuổi và sự chuyển biến từ cấp này sang cấp khác chỉ rõ
mức độ chuẩn bị thể lực theo lứa tuổi, sự tăng tiến theo yêu cầu và các tiêu
chuẩn đó tăng từ cấp này sang cấp khác cho tới khi các yếu tố tự nhiên và thoái
biến theo lứa tuổi bắt đầu tác động tới cơ thể. Trong các tiêu chuẩn và yêu cầu
của mỗi cấp còn xét đến các chỉ số phát triển và năng lực thể chất và các chỉ số
22


về thành tích, về mức độ tiếp thu kiến thức kỹ năng, kỹ xảo quan trọng trong

cuộc sống con người.
Nhiều nước trên thế giới dã thực hiện tiêu chuẩn về các chỉ tiêu thể lực tại
Mỹ những thập niên 70 đã sử dụng test Cooper để kiểm tra đánh giá thể lực
trong lực lượng Hải quân (chạy 12 phút tính quãng đường chạy). Tại Singapore
năm 1992 đã hoàn chỉnh 6 nội dung kiểm tra thể chất học sinh, sinh viên từ 12
đến 24 tuổi và cho các đối tượng nhân dân từ 24 - 55 tuổi. Tại Nhật Bản từ năm
1993 cũng đã xây dựng hoàn chỉnh các test kiểm tra thể chất cho mọi người với
các nội dung cho học sinh từ tuổi "mẫu giáo" (4 tuổi) đến sinh viên (24 tuổi) và
đối tượng nhân dân từ 24 - 65 tuổi. Các nội dung đó bao gồm: Bật xa không đà
(cm) ngồi gập thân (số lần trong 30s) nằm sấp co duỗi tay (số lần tối đa không
hạn chế thời gian) và chạy 5 phút quãng đường đạt được.
Nước ta trong thời kỳ 1955 -1965 đã ban hành Tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể tạm thời theo lứa tuổi trong sinh viên các trường Đại học và trung học
chuyên nghiệp. Ngày 24-6-1971 Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp ra chỉ
thị số 14/TD-QS về việc thực hiện Tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi,
giới tính và qui định sinh viên tốt nghiệp đại học phải đạt tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể cấp II.
Để đáp ứng được yêu cầu phát triển thể lực sinh viên phù hợp với giai
đoạn mới của đất nước. Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo
dục và đào tạo) đã ra quyết định số 203/QĐ-TDTT ngày 23/l/1989 và các văn
bản pháp qui khác ban hành về nội dung tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo năm
học, giới tính cho sinh viên. Nội dung của tiêu chuẩn đó bao gồm: Chạy 50m tốc
độ xuất phát cao, Chạy 1000m (nam) 500m (nữ), Bật xa không đà (cm), Nằm
sấp chống đẩy trên bục (nữ tính số lần đạt được), Co tay trên xà đơn (nam tính
số lần đạt được). Treo co tay và giữ trên xà đơn (nữ - giây) yêu- cầu sinh viên
phải đạt các nội dung tiêu chuẩn theo từng năm học.
Tuy nhiên, khơng dừng lại ở đó, ngày 18/9/2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT [24], quy định về việc đánh
23



giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên (Thay thế Tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể). Văn bản này áp dụng đối với học sinh, sinh viên của các học viện, trường
đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường tiểu học,
trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thơng và trường phổ thơng có
nhiều cấp học; Không áp dụng đối với học sinh, sinh viên khuyết tật, tàn tật; học
sinh, sinh viên mắc các loại bệnh không thể vận động với cường độ và khối lượng cao, được cơ sở y tế có thẩm quyền từ cấp huyện trở lên xác nhận.
Ở đây việc đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên được phân theo
lứa tuổi từ 6 tuổi đến 20 tuổi. Học sinh, sinh viên từ 21 tuổi trở lên sử dụng các
chỉ số đánh giá của lứa tuổi 20.
Khi đánh giá xếp loại thể lực học sinh, sinh viên cần dựa trên 6 nội dung,
cụ thể là: Gập dẻo thân (cm). Chạy 100m xuất phát cao (s). Chạy con thoi 4 
10m (s). Bật xa tại chỗ (cm)5. Chạy cự ly trung bình 800m (s).6. Nằm sấp chống
đẩy tay.
Mỗi học sinh, sinh viên được đánh giá tối thiểu 4 trong 6 nội dung.
Xếp loại thể lực theo 3 loại:
- Tốt: Kết quả kiểm tra các chỉ tiêu theo lứa tuổi có 3 chỉ tiêu Tốt và một
chỉ tiêu Đạt trở lên
- Đạt: Kết quả kiểm tra các chỉ tiêu theo lứa tuổi từ mức Đạt trở lên.
-

Chưa đạt: Kết quả kiểm tra các chỉ tiêu theo lứa tuổi có 1 chỉ tiêu dưới
mức Đạt.

Tóm lại, căn cứ vào mục đích, u cầu của chương trình GDTC theo quyết
định 203/QĐ-TDTT và những cơ sở lý luận đánh giá chất lượng giáo dục chung
trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Việc đánh giá chất lượng GDTC sinh
viên được tiến hành với các nội dung sau:
- Kiến thức lý luận về GDTC được qui định theo chương trình.
- Kỹ năng thực hiện kỹ thuật các môn thể thao

- Thực hiện các chỉ tiêu thể lực theo nội dung theo tiêu chuẩn đánh giá,
xếp loại thể lực của sinh viên theo năm học.
24


Trong đó nội dung thực hiện các chỉ tiêu thể lực là một yêu cầu bắt buộc
và rất quan trọng trong việc nâng cao thể lực và chất lượng GDTC trong các
trường Đại học.
1.4. Tổng quan các luận điểm cơ bản về giáo dục các tố chất thể lực chung trong
TDTT
Quá trình phát triển thể lực cho người tập là một q trình giáo dục
chun mơn, chủ yếu bằng hệ thống bài tập nhằm hoàn thiện các năng lực thể
chất, đảm bảo đạt thành tích cao nhất. Trong giáo dục thể lực gồm giáo dục thể
lực chung và giáo dục thể lực chuyên môn.
Giáo dục thể lực chung là một q trình nhằm phát triển tồn diện các tố
chất thể lực cũng như khả năng chức phận khác nhau không đặc trưng cho một
hoạt động riêng biệt nào đó và tạo điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của
q trình giáo dục thể lực chun mơn nhằm phát triển toàn diện năng lực thể
chất và làm phong phú vốn kỹ năng kỹ xảo của VĐV [26],[48],[50],[53].
Giáo dục thể lực chun mơn là q trình giáo dục nhằm phát triển và
hoàn thiện những năng lực thể chất tương ứng với đặc điểm của mơn thể thao
chun sâu, có nhiệm vụ phát triển đến mức tối đa những năng lực đó của người
tập. Giáo dục thể lực chun mơn hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng
làm việc của các cơ quan chức phận, các tố chất thể lực phù hợp với địi hỏi của
mơn thể thao chun sâu lựa chọn.
Các mơn thể thao đều địi hỏi phát triển toàn diện các tố chất thể lực, cùng
với những tố chất chuyên môn ưu thế phù hợp với đặc điểm từng môn thể thao,
quan hệ giữa các thành tố cơ bản cấu thành năng lực thể lực trong từng mơn thể
thao có những nét riêng. Khi đề cập đến giáo dục các tố chất vận động thấy rằng
trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và

có mối tương quan chặt chẽ với các tố chất thể lực cơ bản. Các tố chất luôn hiện
diện trong mối tương tác lẫn nhau (không có biểu thị riêng tuyệt đối). Việc
nghiên cứu quan hệ mang tính đặc trưng đó của tố chất thể lực trong các môn
thể thao được nhiều tác giả nghiên cứu như Pharphen.V.X; Daxiorxki.V.M;
25


×