Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.46 KB, 40 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ
TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về thị trường
Theo C.Mác ,hàng hoá là sản phẩmđược sản xuất ra không phải cho người sản
xuất tiêu dùng mà người sản xuất ra để bán . Thị trường xuất hiện đồng thời với sự
ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực
lưu thông .Người có hàng hoá hoặc dịch vụ đem ra trao đổi gọi là bên bán, người
mua có nhu cầu chưa thoả mãn và có khả năng thanh toán được gọi là bên mua .
Trong quá trình trao đổi giữa bên bán và bên mua đã hình thành những mối
quan hệ nhất định. Đó là quan hệ giữa người bán và người mua, quan hệ giữa
người bán với nhau và quan hệ giữa người mua với nhau.
Vì vậy, theo nghĩa đen, thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để
tiến hành hoạt động mua bán bằng tiền tệ giữa người bán và người mua. Tuy nhiên,
không thể coi thị trường là các cửa hàng, các chợ, mặc dù những nơi đó là nơi mua
bán hàng hoá.
Sự hình thành thị trường đòi hỏi phải có:
- Đối tượng trao đổi: sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ.
- Đối tượng tham gia trao đổi : bên bán và bên mua.
- Điều kiện thực hiện trao đổi : khả năng thanh toán
Như vậy, điều quan tâm nhất của doanh nghiệp là tìm ra nơi trao đổi,tìm nhu
cầu và khả năng thanh toán của các sản phẩm, dịch vụ mà nhà sản xuất dự định
cung ứng hay không. Còn đối với người tiêu dùng, họ lại quan tâm tới việc so sánh
những sản phẩm dịch vụ mà nhà sản xuất cung ứng thoả mãn đúng yêu cầu và
thích hợp với khả năng thanh toán của mình đến đâu.
Từ những nội dung trên thị trương được định nghĩa như sau:
Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định
của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ cũng như các quyết định của các
doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá.Đó chính là mối


quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu của từng loại hàng hoá cụ thể.
Tuy nhiên thị trường được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau. Hội quản
trị Hoa Kỳ cho rằng :“Thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong
đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ
từ người bán sang người mua ’’. Có nhiều quan niệm lại cho rằng “ thị trường là
lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định
gía cả hàng hoá dịch vụ ”, hoặc đơn giản hơn “ thị trường là tổng hợp các số cộng
của người mua về một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ ”.
Hiểu một cách tổng quát, thị trường là nơi mà người mua và người bán tự tìm
đến với nhau qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lời giải đáp mà mỗi bên cần
biết
Còn hiểu theo góc độ Marketing, thuật ngữ thị trường được dùng để ám chỉ
một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định. Bởi mặc dù tham gia
thị trường phải có cả người bán và người mua nhưng những người làm Marketing
lại coi người bán hợp thành ngành sản xuất cung ứng, còn người mua mới hợp
thành thị trường.
Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu
hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu
cầu và mong muốn đó.
Như vậy, theo quan niệm này quy mô thị trường sẽ tuỳ thuộc số người có nhu
cầu và mong muốn vào lượng thu nhập, lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để
mua hàng hoá thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ
thuộc vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu
và mong muốn khác nhau.
Tuy nhiên, dù hiểu thị trường theo cách nào thì mục tiêu lựa chọn duy nhất
của doanh nghiệp vẫn là lợi nhuận các doanh nghiệp đều thông qua thị trường mà
tìm cách giải quyết các vấn đề :
Phải phân loại hàng gì? Cho ai?
- Số lượng bao nhiêu ?
- Mẫu mã , kiểu cách , chất lượng như thế nào?

Và cũng qua đó người tiêu dùng biết được :
- Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình ?
- Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào ?
- Khả năng thanh toán ra sao?
Tất cả những câu trả lời trên chỉ có thể trả lời chính xác trên thị trường. Sự nhận
thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ
quan duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược
lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có trong thị trường và hậu quả sẽ làm cho nền
kinh tế khó phát triển.
1.2. Quy luật của thị trường
Trên thị trường có nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen nhau, và có quan hệ
mật thiết với nhau, sau đây là một số quy luật cơ bản :
1.2.1. Quy luật giá trị :
Yêu cầu của quy luật này là sản xuất và trao đổi hang hoá được tiến hành phù
hợp với hao phí lao động cần thiết tạo ra hàng hoá. Quy luật giá trị được thể hiện
như quy luật giá cả và giá cả thì luôn biến động xoay quanh giá trị.
Do quy luật giá trị ( biểu hiện thông qua giá cả, làm cho người bán hàng hoá
mở rộng hoặc thu hẹp bớt quy mô sản xuất loại hàng hoá mà giá cả thấp hơn giá
trị để dồn vào sản xuất loại hàng hoá nào có giá cả cao hơn giá trị )
1.2.2. Quy luật cung cầu giá cả :
Quy luật cung cầu nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng
trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển
động xích lại với nhau tạo thế cân bằng trên thị trường.
Cầu là một đại lượng tỷ lệ nghịch với giá, cung là một đại lượng tỷ lệ thuận
với giá. Khi cầu lớn hơn cung thì giá cả cao hơn giá trị và ngược lại
Cung hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn và có khả năng
sản xuất để bán theo mức giá nhất định. Như vậy, cung hàng hoá thể hiện mối quan
hệ trực tiếp trên thị trường của hai biến số : lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng và
giá cả trong một thời gian nhất định. Quy luật về cung nói : người ta sản xuất nhiều
hơn nếugiá tăng và ít hơn nếu giá giảm.

Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người mua muốn và có khả năng mua
theo mức giá nhất định. Giá thị trường của hàng hoá cần mua càng tăng thì cần
phải từ chối nhiều hơn các sản phẩm khác và ngược lại Giá cả càng cao thì chi phí
cơ hội càng cao và chi phí cơ hội quyết định khả năng người ta có thể mua được
những gì.
Quy luật về cung cho ta biết ở một mặt bằng giá nhất định có bao nhiêu sản
phẩm sẽ được người sản xuất đưa bán trên thị trường, quy luật về cầu lại cho biết
với giá như vậy thì có bao nhiêu sản phẩm sẽ được người tiêu dùng chấp nhận
mua.
1.2.3. Quy luật cạnh tranh :
Các chủ thể tham gia cạnh tranh phải dùng mọi biện pháp để độc chiếm hoặc
chiếm hữu ưu thế thị trường về sản phẩm cạnh tranh, nhờ đó thu lợi nhuận kinh tế
cao nhất trong phạm vi cho phép.
Các phương pháp cơ bản để cạnh tranh là:
• Thu nhỏ chi phí lao động cá biệt của doanh nghiệp dưới mức chi phí lao
động xã hội trung bình.
• Sử dụng tích cực các yếu tố về thị hiếu, tâm lý khách hàng để sớm đưa ra
các sản phẩm mà người tiêu dùng chấp nhận.
• Sử dụng sức ép phi kinh tế để độc chiếm hoặc chiếm ưu thế trên thị
trường.
1.2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ :
Quy luật này chỉ ra rằng số lượng (hay khối lượng ) tiền lưu thông phải phù
hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường. Số lượng tiền cho lưu
thông được tính bằng thương giữa tổng giá trị hàng hoá lưu thông với tốc độ vòng
quay của tiền.
Tiền tệ là phương tiện của trao đổi ( lưu thông), là thứ dầu mỡ bôi trơn cho
quá trình trao đổi. Nếu vi phạm quy luật này sẽ dẫn tới ách tắc trong lưu thông
hoặc lạm phát, gây khó khăn, dẫn đến mất ổn định nền kinh tế.
Ngoài ra thị trường còn có các quy luật khác như quy luật kinh tế, quy luật giá
trị thặng dư…

1.3. Vai trò của thị trường
1.3.1. Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của các nhà sản xuất hàng hoá là sản
xuất ra hàng hoá ra để bán, để thoả mãn nhu cầu của người khác. Vì thế các doanh
nghiệp không thể tồn tại một cách đơn lẻ mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải gắn với thị trường. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn
ra không ngừng theo chu kỳ mua nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị… trên thị trường
đầu vào, tiến hành sản xuất ra sản phẩm, sau đó bán chúng trên thị trường đầu ra.
Doanh nghiệp chịu sự chi phối của thị trường hay nói cách khác thị trường đã
tác động và có ảnh hưởng quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thị trường càng mở rộng và phát triển thì lượng hàng hoá
tiêu thụ được càng nhiều và khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại. Bởi thế còn thị trường thì còn sản xuất kinh doanh,
mất thị trường thì sản xuất kinh doanh bị đình trệ và các doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ bị phá sản. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, có thể khẳng định rằng thị
trường có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.3.2. Thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá :
Thị trường đóng vải trò hướng dẫn sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường. Các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào cung cầu, giá cả thị trường để
quyết định sản xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào ? và cho ai? Sản xuất kinh
doanh đều phải xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và tìm mọi cách thoả mãn
nhu cầu đó chứ không phải xuất phát từ ý kiến chủ quan của mình. Bởi vì ngày nay
nền sản xuất đã phát triển đạt tới trình độ cao, hàng hoá và dịch vụ được cung ứng
ngày càng nhiều và tiêu thụ trở nên khó khăn hơn trước. Do đó, khách hàng với
nhu cầu có khả năng thanh toán của họ, bộ phận chủ yếu trong thị trường của
doanh nghiệp, sẽ dẫn dắt toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường tồn tại một cách khách quan nên từng doang nghiệp chỉ có thể tìm
phương hướng hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải trên cơ
sở nhận biết nhu cầu của thị trường kết hợp với khả năng của mình để đề ra chiến

lược, kế hoạch và phương án kinh doanh hợp lý nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu
của thị trường và xã hội.
1.3.3. Thị trường phản ánh thế và lực của doanh nghiệp :
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thương trường đều có một vị thế cạnh tranh
nhất định. Thị phần ( phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được ) phản ánh
thế và lực của doanh nghiệp trên thương trường.
Thị trường mà doanh nghiệp chinh phục được càng lớn chứng tỏ khả năng thu
hút khách hàng càng mạnh, số lượng sản phẩm tiêu thụ được càng nhiều và do đó
mà vị thế của doanh nghiệp càng cao.
Thị trường rộng giúp cho việc tiêu thụ thuận lợi hơn dẫn tới doanh thu và lợi
nhuận nhanh hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái đầu tư hiện đại hoá sản xuất,
đa dạng hoá sản phẩm, tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Khi
đó thế và lực của doanh nghiệp cũng được củng cố và phát triển.
1.4. Chức năng của thị trường
1.4.1. Chức năng thực hiện :
Hoạt động mua bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường. Thực hiện
hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với việc thực hiện
các quan hệ và hoạt động khác.
Thị trường thực hiện : hành vi trao đổi hàng hoá ; thực hiện tổng số cung và
cầu trên thị trường ; thực hiện cân bằng cung cầu từng thứ hàng hoá ; thực hiện giá
trị ( thông qua giá cả ); thực hiện việc trao đổi giá trị …Thông qua chức năng của
mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng quan trọng để hình thành nên cơ cấu sản
phẩm, các quan hệ tỷ lệ về kinh tế trên thị trường.
1.4.2. Chức năng thừa nhận :
Hàng hoá được sản xuất ra, người sản xuất phải bán nó. Việc bán hàng được
thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận
chính là người mua chấp nhận thì cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình tái sản xuất
xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Bởi vì bản thân việc tiêu dùng sản phẩm và các
chi phí tiêu dùng cũng đã khẳng định trên thị trường khi hàng hoá được bán.
Thị trường thừa nhận : tổng khối lượng hàng hoá ( tổng giá trị sử dụng ) đưa

ra thị trường ; cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu với từng hàng hoá ; thừa
nhận giá thị sử dụng và giá cả hàng hoá, chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt
thành giá trị sử dụng và giá trị xã hội ; thừa nhận các hoạt động mua và bán vv…
Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá trình tái sản
xuất , quá trình mua bán mà thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế trên
thị trường mà thị trường còn kiểm tra, kiểm nghiệm quá trình tái sản xuất quá trình
mua bán đó.
1.4.3. Chức năng điều tiết, kích thích :
Nhu cầu thị trường là mục đích của quá trình sản xuất . Thị trường là tập hợp
các hoạt động của các quy luật kinh tế cả thị trường. Do đó, thị trường vừa là mục
tiêu vừa tạo động lực để thực hiện các mục tiêu đó. Đó là cơ sở quan trọng để
chức năng điều tiết và kích thích của thị trường phát huy vai trò của mình.
Chức năng điều tiết và kích thích thể hiện ở chỗ:
• Thông qua nhu cầu thị trường, người sản xuất chủ động di chuyển tư liệu
sản xuất, vốn và lao động từ ngành này qua ngành khác từ sản phẩm này
sang sản phẩm khác để có lợi nhuận cao.
• Thông qua các hoạt động của các quy luật kinh tế của thị trường, người
sản xuất có lợi thế trong cạnh tranh sẽ tận dụng khả năng của mình để
phát triển sản xuất ngược lại những người sản xuất chưa tạo ra được lợi
thế trên thị trường cũng phải vươn lên để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Đó
là những động lực mà thị trường tạo ra đối với sản xuất.
• Thông qua sự hoạt dộng của các quy luật kinh tế trên thị trường người
tiêu dùng buộc phải cân nhắc, tính toán quá trình tiêu dùng của mình.
Do đó thị trường có vai trò to lớn đối với việc hướng dẫn tiêu dùng.
• Trong quá trình tái sản xuất, không phải người sản xuất, lưu thông… chỉ
ra cách chi phí như thế nào cũng được xã hội thừa nhận. Thị trường chỉ
thừa nhận ở mức thấp hơn hoặc bằng mức xã hội cần thiết ( trung bình).
Do đó thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với kích thích tiết
kiệm chi phí, tiết kiệm lao động.
1.4.4. Chức năng thông tin :

Trong tất cả các khâu ( các giai đoạn ) của quá trình tái sản xuất hàng hoá,
chỉ có thị trường mới có chức năng thông tin.Trên thị trường có nhiều mối quan
hệ : kinh tế, chíng trị, xã hội …Song thông tin kinh tế là quan trọng nhất.
Thị trường thông tin về : tổng số cung và tổng số cầu ; cơ cấu của cung và
cầu ; quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá ; giá cả thị trường ; các yếu tố
ảnh hưởng tới thị trường, đến mua và bán, chất lượng sản phẩm, hướng vận động
của hàng hoá; các điều kiện dịch vụ cho mua và bán hàng hoá, các quan hệ tỷ lệ về
sản phẩm vv…
Thông tin thị trường có vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế .Trong
quản lý kinh tế, một trong những nội dung quan trọng nhất là ra quyết định .Ra
quyết định cần có thông tin.Các dữ liệu thông tin quan trọng nhất là thông tin từ thị
trường. Bởi vì các dữ kiện đó khách quan , được xã hội thừa nhận.
Bốn chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hiện
tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện bốn chức năng này. Vì là những
tác dụng vốn có bắt nguồn tư bản chất thị trường, do đó không nên đặt vấn đề chức
năng nào quan trọng nhất hoặc chức năng nào quan trọng hơn chức năng nào. Song
cũng cần thấy rằng chỉ khi chức năng thừa nhận được thực hiện thì các chức năng
khác mới phát huy tác dụng.
Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là
sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của thị trường. Nhận biết được đặc điểm và sự hoạt
động của từng loại thị trường, các yếu tố tham gia vào hoạt động của thị trường, từ
đó thấy rõ đặc điểm hình thành và vận động của giá cả thị trường do đó cần phải
nghiên cứu, phân loại các hình thái thị trường
1.5. Phân loại thị trường
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là
sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của từng hình thái thị trường. Phân định các hình thái
thị trường là chia thị trường theo góc độ khách quan khác nhau. Phân định hình
thái thị trường là cần thiết, khách quan để nhận thức cặn kẽ về thị trường.
Hiện nay trong kinh doanh người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để
phân định hình thái thị trường. Mỗi cách phân định có một hình thái thị trường

riêng đối với quá trình kinh doanh. Sau đây là một số cách phân định chủ yếu về
nội dung, tính chất của từng hình thái thị trường tương ứng với các phân định đó.
1.5.1. Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các quốc gia, thị trường chia
thành thị trường quốc nội và thị trường quốc tế:
Thị trường quốc nội là thị trường mà ở đó diễn ra hoạt động mua bán hàng
hoá của những người trong phạm vi hoạt động một quốc gia và các quan hệ kinh tế
diễn ra trong mua bán qua đồng tiền quốc gia, chỉ có liên quan đến các vấn đề kinh
tế, chính trị trong một nước.
Thị trường quốc tế là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá giữa các nước
với nhau thông qua tiền tệ quốc tế. Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế
giới ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Phân biệt thị trường quốc nội và thị trường qquốc tế không ở phạm vi biên
giới mỗi nước mà chủ yếu ở người mua và người bán với phương thức thanh toán
và loại giá áp dụng, các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường. Với sự phát triển
của kinh tế, của khoa học kỹ thuật và sự phân công lao động thế giới, kinh tế mỗi
nước trở thành một mắt xích của hệ thống kinh tế thế giới, do đó thị trường quốc
nội có quan hệ mật thiết với thị trường quốc tế. Việc dự báo đúng sự tác động của
thị trường quốc tế đối với thị trường quốc nội là sự cần thiết và cũng là những nhân
tố tạo ra sự thành công đối với mỗi nhà kinh doanh trên thương trường quốc nội.
1.5.2. Căn cứ vào vai trò và vị thế của người mua và người bán trên thị
trường , thị trường chia thành thị trường người bán và thị trường người mua :
Trên thị trường người bán, vai trò quyết định thuộc về người bán hàng, thường
xẩy ra trên hai tình thế cung cầu hoặc độc quyền bán. Các quan hệ kinh tế hình
thành trên thị trường ( quan hệ cung cầu, quan hệ giá cả tiền tệ, quan hệ cạnh
tranh ) hình thành không khách quan, giá giá thường bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ
tiêu hoặc không có điều kiên hoạt động, các kênh phân phối và lưu thông không
hợp lý …vai trò của người mua bị thủ tiêu. Việc hình thành thị trường của người
bán một măt là do sản phẩm hàng hoá chưa phát triển, mặt khác là do sự tác động
chi phối của cả hệ thống quản lý kinh tế hành chính bao cấp. Việc xoá bỏ cơ chế
hành chính bao cấp là yếu tố cực kỳ quan trọng để chuyển từ thị trường người bán

sang thị trường người mua.
Trên thị trường người mua, vai trò quyết định trong quan hệ mua bán thuộc về
người mua. Các quan hệ kinh tế trên thị trường ( quan hệ sản phẩm, quan hệ giá cả
và cung cầu …) được hình thành một cách khách quan. Với thị trường người mua,
vai trò của các quy luật kinh tế của thị trường được phát huy tác dụng và do đó vai
trò, chức năng của thị trường người mua không phải chỉ là công cụ điều tiết sản
xuất xã hội mà nó còn trở thành công cụ để bỏ sung cho kế hoạch. đối với thị
trường này thì thái độ khôn khéo của các nhà kinh doanh để đạt được thành công là
nhận thức, tiếp cận, xâm nhập và khai thác thị trường.
1.5.3. Căn cứ vào mối quan hệ cung cầu và khả năng biến nhu cầu
thành hiện thực, thị trường chia thành thị trường thực tế, thị trường tiềm năng
và thị trường lý thuyết :
Thị trường thực tế là một bộ phận của thị trường mà trong đó yêu cầu tiêu
dùng đã được đáp ứng thông qua việc cung ứng hàng hoá và dịch vụ.
Thị trường tiềm năng bao gồm thị trường thực tế và một bộ phận thị trường
mà trong đó khách hàng có yêu cầu tiêu dùng nhưng chưa được đáp ứng.
Thị trường lý thuyết bao gồm tất cả các nhóm dân cư trên thị trường kể cả
người chưa có yêu cầu tiêu dùng hoặc không có khả năng thanh toán.
1.5.4. Căn cứ vào hình thái vật chất của đối tượng trao đổi, thị trường
thành thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ :
Thị trường hàng hoá là thị trường trong đó đối tượng trao đổi là hàng hoá, vật
phẩm tiêu dùng với mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất. Thị trường hàng hoá bao
gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, điển hình là thị trường tư liệu sản xuất và
thị trường tư liệu tiêu dùng. Trên thị trường tư liệu sản xuất thường có các nhà kinh
doanh lớn, cạnh tranh diễn ra mạnh hơn, quy mô thị trường lớn hơn nhưng nhu cầu
thị trường không phong phú, đa dạng như nhu cầu thị trường hàng tiêu dùng, thị
trường tư liêu sản xuất bị phụ thuộc vào thị trường hàng tiêu dùng. Còn trên thị
trường hàng tiêu dùng số lượng người mua và người bán nhiều, mức độ cạnh tranh
của thị trường này không gay gắt như trên thị trường tư liệu sản xuất. Khả năng
hình thành các cửa hàng đường phố, siêu thị của thị trường tiêu dùng rất lớn, hình

thức mua bán trên thị trường cũng rất phong phú (bán buôn, bán lẻ , đại lý …). Thị
trường bán lẻ là thị trường chủ yếu của hàng tiêu dùng.
Thị trường dịch vụ là thị trường trao đổi các chủng loại dịch vụ như sửa chữa,
lắp đặt, bảo hành và các dịch vụ khác, không có sản phẩm tồn tại dưới hình thái vật
chất, không có các trung gian phân phối mà sử dụng kênh phân phối trực tiếp,
mạng lưới phân phối của doanh nghiệp dịch vụ thường tuỳ thuộc vào nhu cầu của
thị trường và từng hoạt động kinh doanh.
1.5.5. Căn cứ vào vai trò và số lượng người mua và người bán trên thị
trường, thị trường chia thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo và thị trường độc quyền :
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó số người tham gia vào
thị trường tương đối lớn không có ưu thế để cung ứng hay mua một số lượng sản
phẩm khả dĩ ảnh hưởng đến giá cả. Người mua và người bán không ai quyết định
giá và chỉ chấp nhận giá mà thôi. Các sản phẩm mua bán trên thị trường này là
đồng nhất. Đều kiện tham gia vào thị trường và rời khỏi thị trường nói chung dễ
dàng. Người bán chỉ có cách giảm thấp chi phí sản xuất và sản xuất một sản lượng
đến giới hạn mà chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường mà phần lớn các doanh
nghiệp đều ở hình thái thị trường vừa có cạnh tranh vừa có độc quyền. Ở hình thái
các doanh nghiệp vừa phải tuân theo các yêu cầu của quy luật cạnh tranh vừa phải
đi tìm các giải pháp hòng trở thành độc quyền chi phối thị trường.
Thị trường độc quyền có nghĩa là các nhà độc quyền có khả năng chi phối các quan
hệ kinh tế và giá cả thị trường. Trên thị trường độc quyền có thị trường độc quyền
bán và thị trường độc quyền mua. Thị trường độc quyền bán là trong đó vai trò
quyết định thuộc về người bán, các quan hệ kinh tế trên thị trường ( quan hệ cung
cầu ,giá cả ,..) hình thành không khách quan : giá cả bị áp đặt, bán với giá cao,
cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động trên các kênh phân
phối, vai trò của người mua bị thủ tiêu. Còn thị trường độc quyền mua thì vai trò
quyết định trong mua bán hàng hoá thuộc về người mua, các quan hệ kinh tế phát
huy tác dụng.


2. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Khái niệm mở rộng thị trường.
Trong kinh doanh tất cả chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm. Thực tế là
những sản phẩm và dịch vụ đã đạt được thành công và hiệu quả trên thị trường thì
giờ đây không có gì để đảm bảo rằng chúng ta sẽ tiếp tục đạt được thành công và
hiệu quả hơn nữa. Bởi không có một hệ thống thị trường nào tồn tại vĩnh viễn và
do đó việc tiến hành xem xét lại những chính sách, sản phẩm, hoạt động quảng
cáo, khuyếch trương là cần thiết. Thị trường thay đổi, nhu cầu của khách hàng biến
động và những hoạt động cạnh tranh sẽ đem lại những trở ngại lớn đối với những
tiến bộ mà doanh nghiệp đã đạt được. Sự phát triển không tự dưng mà có, nó bắt
nguồn từ việc tăng chất lượng sản phẩm và áp dụng những chiến lược bán hàng
một cách có hiệu quả trong cạnh tranh.
Mở rộng thị trường là hoạt động phát triển đến “ nhu cầu tối thiểu ” bằng
cách tấn công vào các khách hàng không đầy đủ, tức là những người không mua
tất cả sản phẩm của doanh nghiệp cũng như của người cạnh tranh
Biết được biến động của thị trường và chu kỳ sống có hạn của hầu hết các sản
phẩm là điều cốt tử đảm bảo cho sự phát triển trước mắt cũng như triển vọng lâu
dài. Kế hoạch mở rộng phải được vạch ra một cách thận trọng để tránh đầu tư quá
mức vào thiết bị và nhân lực, những yếu tố này sẽ đè nặng lên công ty khi thị
trường suy thoái. Và hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp là cần thiết
và thích hợp.
2.2. Vai trò của hoạt động mở rộng thị trường.
Hoạt động mở rộng thị trường là một trong những tác động Marketing nhằm
mở rộng phạm vi thị trường cũng như phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường giữ một vai trò quan trọng trong việc thiết
lập và mở rộng hệ thống sản xuất và tiêu thụ các chủng loại sản phẩm của doanh
nghiệp với mục tiêu lợi nhuận và duy trì ưu thế cạnh tranh.
2.2.1. Góp phần khai thác nội lực doanh nghiệp
Dưới giác độ kinh tế , nội lực được xem là sức mạnh nội tại, là động lực, là

toàn bộ nguồn lực bên trong của sự phát triển kinh tế. Trong phạm vi kinh doanh
của một doanh nghiệp, nội lực bao gồm :
• Các yếu tố thuộc về quá trình sản xuất như đối tượng lao động, tư liệu
lao động, sức lao động.
• Các yếu tố thuộc về tổ chức quản lý xã hội, tổ chức quản lý kinh tế.
Nội lực được chia thành hai dạng : loại đang được sử dụng và loại tiềm năng
hay sử dụng khi có điều kiện. Gắn với nội lực là việc khai thác, phát huy nội lực -
đó là quá trình vận dụng, sử dụng, làm chuyển hoá nó ; là việc duy trì và làm cho
nó ngày càng mở rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển. Biểu hiện của nó là sức sống,
khả năng thích nghi và tính cạnh tranh cao của nền kinh tế nói chung.
Việc khai thác, phát huy sử dụng, quản lý, phối hợp nội lực biểu hiện tập
trung nhất ở khả năng cạnh tranh. Trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay khả
năng cạnh tranh cao thấp cho biết sức mạnh của doanh nghiệp, nó sẽ bảo đảm cho
sự phát triển bền vững. Khai thác nội lực chỉ là động lực của phát triển, khi kinh
doanh không còn hiệu quả nghĩa là việc khơi dậy và phát huy nội lực không tốt.
Trong nội lực, sức lao động con người là quan trọng, con người có năng lực là
yếu tố động nhất, quan trọng nhất trong nội lực. Vì thế phát huy và sử dụng có hiệu
quả năng lực của con người là phần quan trọng trong khai thác và phát huy nội lực.
Quá trình khai thác và phát huy nội lực là quá trình chuyển hoá các yếu tố sức
lao động, tư liệu lao động thành sản phẩm hàng hoá thành thu nhập của doanh
nghiệp. Phát triển thị trường vừa là cầu nối, vừa là động lực để khai thác, phát huy
nội lực tạo thực lực kinh doanh cho doanh nghiệp .Thị trường tác động theo hướng
tích cực sẽ làm cho nội lực tăng trưởng mạnh mẽ, trái lại cũng sẽ hạn chế vai trò
của nó.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cạnh tranh mãnh liệt hơn
trước rất nhiều, các doanh nghiệp phải tập trung những nỗ lực của mình vào sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của thị trường. Trước đây nhiều công ty đã sản
xuất những sản phẩm mà họ tin rằng thị trường tiêu cực, mà ít hoặc không quan
tâm đến cái gì thực sự là nhu cầu. Kết quả là sự xâm nhập thị trường giảm xuống
tối thiểu. Chiến lược mở rộng thị trường đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị

trường. Do đó, nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt một cách chính xác về
nhu cầu thị trường để từ đó tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh thích hợp.
Chẳng hạn trong một chiến lược mở rộng thi trường, doanh nghiệp phải nắm bắt
được nhu cầu, tình hình và khả năng tiêu thụ của thi trường mới. Qua đó, doanh
nghiệp sẽ chủ động di chuyển tư liệu sản xuất, vốn và lao động từ ngành này sang
ngành khác, từ sản phẩm này qua sản phẩm khác để có lợi nhuận cao.
Sự tác động của hoạt động phát triển thị trường được thể hiện thông qua quá
trình thu hút, huy động các nguồn lực cho sản xuất đồng thời tìm thị trường, tổ
chức lưu thông nhằm tiêu thụ có hiệu quả sản phẩm được tạo ra trong quá trình sản
xuất. Nhờ đó doanh nghiệp có nhiều cơ hội kinh doanh mới trên các thị trường mới
và nắm bắt được số lượng khách hàng mới nhất định. Khả năng cạnh tranh cho sản
phẩm của doanh nghiệp cũng vì thế được nâng cao, uy tín doanh nghiệp và nhãn
hiệu sản phẩm được biết đến rộng rãi.
Có rất nhiều loại sản phẩm tiêu thụ thành công trên đoạn thị trường này nhưng
chưa chắc đã thành công trên các đoạn thị trường khác hay ngược lại. Do đó mở
rộng thị trường giúp các doanh nghiệp tìm được các đoạn thị trường tiêu thụ thích
hợp cho từng chủng loại sản phẩm đối với các nhóm khách hàng khác nhau. Điều
đó bắt buộc các doanh nghiệp phải đa dạng hoá các sản phẩm, thay đổi và sáng tạo
các sản phẩm mới, tạo ưu thế và tăng khả năng thích nghi cho sản phẩm trên thị
trường. Có thể nói mở rộng thị trường là công cụ cần thiết trong việc tìm kiếm thị
phần, khai thác cho cả sản phẩm đang có lẫn sản phẩm mới.
Nếu sản phẩm mới có thể đáp ứng được thị trường và sự đáp ứng này phù hợp
với sự nghiên cứu bước đầu về thị trường và với việc thẩm tra các khả năng có thể
gặp phải thì các nhà sản xuất phải xem xét nguồn tài chính và nhân lực để xác định
những chi phí kéo theo để bước vào thị trường mới.
Mở rộng thị trường còn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực,
kỹ năng và chất lượng của lực lượng lao động mà đặc biệt là đội ngũ nhân viên bán
hàng. Các nhân viên tiếp thị và bán hàng được coi như là đội ngũ thống nhất, năng
động và tháo vát. Những ý kiến, sức mạnh và đôi khi khả năng chịu đựng hay phản
ứng của họ sẽ là một yếu tố chủ đạo cho sự phát triển thành công và hữu ích của dự

án tiêu thụ hay mở rộng thị trường.
2.2.2. Bảo đảm sự thành công cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động mở rộng thị trường giúp cho các doanh nghiệp quan tâm đến các vấn đề:

×