Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHững vấn đề lý luận chung về Kế hoạch sản xuất kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.49 KB, 21 trang )

NHững vấn đề lý luận chung về Kế hoạch sản xuất kinh doanh.
I. Bản chất của công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
1. Định nghĩa kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Cũng như các phạm trù khác, kế hoạch kinh doanh cũng có những cách tiếp
cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều xem xét kế hoạch kinh doanh theo một góc
độ riêng và đều cố gắng lột tả bản chất của phạm trù quản lý này.
Theo Steiner: "Kế hoạch là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục
tiêu và quy định chiến lược, các chính sách và kế hoạch chi tiết để đạt được các
mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quy định và đưa ra thực thi, nó bao gồm một
chu kỳ mới của việc thiết lập các mục tiêu và quy định chiến lược được thực hiện
hoàn thiện hơn nữa".
Kinh doanh theo luật định là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kế hoạch hoá là một chức năng của quá trình quản lý và xét về mặt bản chất
thì kế hoạch hoá là một hoạt động chủ quan, có ý thức, có tổ chức của con người
nhằm xác định các mục tiêu, phương án, bước đi, trình tự và cách thức tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế hoạch hoá là quy trình ra quyết định, nó cho
phép xác định các trạng thái mong muốn của doanh nghiệp và cách thức thực hiện
mong muốn đó. Kế hoạch hoá còn là việc chuẩn bị các phương án khác nhau của
quyết định quản lý dưới dạng các chương trình, dự án và kế hoạch. Có khá nhiều
cách tiếp cận khác nhau về kế hoạch hoá do đứng trên những góc độ khác nhau:
Theo Diana Conyers và Peter Hills: "Kế hoạch hoá là quá trình quyết định,
lựa chọn liên tục các phương án khác nhau về sử dụng các nguồn lực có hạn chế để
thực hiện được các mục tiêu đề ra cho một thời kỳ nhất định trong tương lai".
Theo Steiner: "Kế hoạch hoá là một quá trình ra bắt đầu bởi việc thiết lập
các mục tiêu và quy định chiến lược, các chính sách và các kế hoạch chi tiết để đạt
được các mục tiêu."
Có thể hiểu đơn giản nhất quá trình kế hoạch kể từ khi xây dựng, tổ chức
thực hiện đến khi kiểm tra, điều chỉnh kế hoạch được thực hiện liên tục, lặp đi lặp
lại. Kế hoạch hoá là quá trình lặp lại có tính chất chu kỳ của các hoạt động chuẩn


bị xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình xây dựng
và thực hiện kế hoạch. Khi đó kế hoạch hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là một quá trình liên tục, kể từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho tới lúc tổ chức
thực hiện kế hoạch nhằm đưa ra hoạt động của doanh nghiệp phát triển theo những
mục tiêu đã định.
2. Những yếu tố cơ bản của việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh cần phải xem xét tới bốn yếu tố
cơ bản sau đây:
a.Tính lựa chọn.
Xây dựng kế hoạch SXKD là việc ra quyết định về lựa chọn một trong số
nhiều phương thức hành động. Có hai loại lựa chọn chính liên quan đến xây dựng
kế hoạch sản xuất kinh doanh:
+Thứ nhất: Lựa chọn các mục tiêu ưu tiên, bởi vì nguồn lực có hạn nên
không thể đáp ứng được cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển. Bởi vậy, cần
phải xem xét tất cả các mục tiêu nào được ưu tiên hàng đầu và tập trung nguồn lực
vào đó và sẽ có hiệu quả cao.
+Thứ hai: Kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng liên quan đến sự lựa chọn
trong số các phương thức hành động khác nhau, giữa các phương thức khác nhau
để nhằm đạt được cùng một mục tiêu.
Mặc dù hai cách lựa chọn này khác nhau, nhưng chúng đều liên quan đến
quá trình ra quyết định giống nhau nhằm mục đích chung là sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực có hạn của doanh nghiệp.
b.Tính phân bổ nguồn lực.
Đây là một nhân tố quan trọng khác của KHSXKD. Bởi vì, việc sử dụng
tối ưu bất cứ một tập hợp cụ thể các nguồn lực nào phụ thuộc không nhỏ đến mục
tiêu cần đạt đến. Nói cách khác, xây dựng KHSXKD liên quan đến việc ra quyết
định về các cách thức khác nhau để đạt được những mục tiêu cụ thể mà sử dụng
tốt nhất các nguồn lực hiện có.
Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên (đất, nước,
khoáng sản... ), mà còn bao gồm cả nhân lực - hay nguồn lực con người nói chung,

tài sản (như nhà xưởng, máy móc thiết bị...) và tài chính. Việc phân biệt những gì
không được coi là nguồn lực tuỳ thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của người sử
dụng cũng như nhận thức về giá trị sử dụng và khả năng sử dụng cụ thể trong từng
trường hợp.
c.Tính mục đích.
Quan niệm về xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh như là một cách để
đạt được mục tiêu đặt ra những vấn đề về bản chất của các mục tiêu và quy trình
xây dựng mục tiêu. Một trong những vấn đề mà các chuyên viên lập kế hoạch
thường gặp phải là những mục tiêu của họ không được xác định rõ ràng mà
thường rất mập mờ. Trong một số trường hợp khác, mục tiêu lại không thực tế
trong điều kiện cung ứng nguồn lực lại bị hạn chế. Trong nhiều trường hợp khác,
các nhà kế hoạch cũng gặp phải những vấn đề như phải cố đạt được nhiều các mục
tiêu và đôi khi các mục tiêu đó lại mâu thuẫn với nhau.
c.Tính tương lai.
Có một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch được thể hiện trong hầu hết
các định nghĩa, đó là yếu tố thời gian. Các mục tiêu mà kế hoạch muốn đạt tới rõ
ràng là ở tương lai, kế hoạch tất nhiên sẽ gắn với tương lai. Sự quan tâm đến
tương lai tự nó thể hiện theo hai cách chính. Cách thể hiện thứ nhất là một phần
quan trọng của kế hoạch liên quan đến dự báo, hoặc đưa ra các các dự báo về điều
gì đó có thể xảy ra trong tương lai, và cụ thể hơn là dự báo về kết quả của các
phương thức hoạt động khác nhau để xác định cần lựa chọn phương pháp nào. Tất
nhiên không thể biết chính xác được điều gì sẽ xẩy ra trong tương lai vì thế kế
hoạch không tránh khỏi việc chấp nhận ở mức độ nhất định sự rủi ro. Tuy nhiên,
có nhiều kỹ thuật khác nhau mà người lập kế hoạch có thể sử dụng nâng cao tính
chính xác của các dự báo của họ và xử lý những vấn đề rủi ro và bất ổn. Khoảng
thời gian tương lai của kế hoạch là bao lâu?. Điều này hoàn toàn phục thuộc vào
nội dung cụ thể của kế hoạch. Một thái cực có một số hoạt động các cá nhân và tổ
chức có thể phải lập kế hoạch trên cơ sở thời gian là ngày, thậm chí là giờ. Trong
khi ở thái cực khác, một số kế hoạch liên quan đến việc đưa ra những dự báo về
bức tranh thế giới vài thập kỷ sau.

Kế hoạch không chỉ liên quan đến quyết định cần phải làm gì để đạt tới
mục tiêu cụ thể, mà còn liên quan đến quyết định trình thực thực hiện các hoạt
động một cách logic, có thứ tự từng bước đạt tiến tới đạt được mục tiêu.
Phân tích mức độ thời gian dài ngắn khác nhau của việc chuẩn bị kế hoạch
hoá có thể gây cảm tưởng rằng kế hoạch hoá là hoạt động định kỳ. Người ta
thường nghĩ rằng kế hoạch được lập ra cho khoảng thời gian ấn định (ví dụ cho 5
năm tiếp theo), và khi kế hoạch đã được lập xong thì kế hoạch coi như kết thúc,
cho đến khi kết thúc 5 năm, tức là lúc bắt đầu lập kế hoạch cho thời kỳ 5 năm tiếp
theo. Trong các thập kỷ 50 và 60 nhiều nhà kế hoạch đã có quan điểm như vậy về
kế hoạch, nhưng gần đây người ta đã nhận thức rằng kế hoạch nên được coi là một
hoạt động liên tục. Điều này có ý nghĩa là mặc dù có thể kế hoạch cần phải được
lập cho khoảng thời gian xác định, nhưng nó nên được liên tục theo dõi và xem
xét lại trong giai đoạn đó và nếu cần thì có thể được kéo dài sang giai đoạn kế
hoạch khác.
Tóm lại, mặc dù kế hoạch nhất định phải liên quan đến tương lai; nhưng
điều đó không hạn chế các nhà lập kế hoạch dành nhiều sự chú ý của họ nghiên
cứu tình hình quá khứ và hiện tại. Trong thực tế, các nhà nghiên cứu hiện tại là rất
quan trọng để đưa ra thông tin và nhu cầu và điều kiện hiện tại cũng như các
nguồn lực hiện có cho phát triển, trong khi đó nghiên cứu lịch sử có thể tạo cơ sở
tốt cho dự báo các xu hướng tương lai.
3. Nội dung của công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh:
a. Mục đích, yêu cầu của công tác xây dựng kế hoạch và sản xuất kinh
doanh.
Trong giai đoạn hiện nay công tác xây dựng kế hoạch trước hết phải đựa vào
thị trường, nhiệm vụ nhà nước giao, yếu tố cơ bản chính là thị trường sẽ chi phối
kế hoạch, nói cách khác là sản phẩm của chúng ta có tiêu thụ được hay không và
có được thị trường chấp nhận hay không, cũng có nghĩa là kết quả sản xuất kinh
doanh chính là phụ thuộc vào yếu tố này. Do vậy, kế hoạch đưa ra là phụ thuộc vào
định hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Để phát triển doanh nghiệp một cách bền vững thì công tác kế hoạch có một

vị trí hết sức quan trọng, nó đề ra cho các doanh nghiệp một hướng đi một chiến
lược kinh tế đúng đắn, trên cơ sở kế hoạch định hướng này các doanh nghiệp xây
dựng kế hoạch cụ thể cho từng năm, từng quý, để thực hiện bước đi của mình.

Công tác kế hoạch phải thực sự là một công cụ, để quản lý mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh, do vậy cần phải xây dựng đầy đủ các nội dung của công tác
kế hoạch bao gồm: kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư, kế hoạch tài
chính, lao động... với mục đích là doanh nghiệp có lợi nhuận để tích luỹ phát triển
đồng thời không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân
viên. Lợi nhuận là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Cùng với việc xây dựng kế hoạch cần có các biện pháp đánh giá, chỉ đạo,
điều hành việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch nhằm xử lý và giải quyết kịp thời
những vướng mắc trong quá trình thực hiện.
b. Những căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Xây dựng kế hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt được các mục tiêu
kinh doanh. Quá trình thực hiện các kế hoạch lại diễn ra trong tương lai dưới sự tác
động qua lại của các yếu tố: mục tiêu, thời gian và các tiền đề, căn cứ xây dựng và
thực hiện kế hoạch đó. Tương lai thường là yếu tố bất định nếu thời gian của bản
kế hoạch càng dài thì các tiền đề, căn cứ có thể không rõ ràng, các mục tiêu càng
khó xác lập và những vấn đề khác của việc xây dựng kế hoạch có thể tăng lên. Do
đó, trong công tác xây dựng kế hoạch, ngoài việc xác định hợp lý thời gian của kế
hoạch còn phải xác lập các tiền đề và căn cứ vững chắc. Bởi vậy việc xác lập các
tiền đề và căn cứ sẽ được trình bày như sau:
* Thứ nhất: các định hướng phát triển, các chính sách, chế độ của Nhà
nước.
Tuy doanh nghiệp hoàn toàn chủ động và tự chủ trong việc xây dựng kế
hoạch nhưng lại bị giới hạn và bị động đối với chế độ chính sách của Nhà nước. Vì
vậy, doanh nghiệp phải luôn chủ động trong cập nhật thông tin và phải bám sát các
chính sách của Nhà nước cũng như áp dụng vào trong việc xây dựng kế hoạch.

Chính các căn cứ này sẽ góp phần làm cho bản kế hoạch được hợp pháp và đúng
hướng.
* Thứ 2: Các kết quả nghiên cứu, phân tích và dự báo về nhu cầu thị
trường và các hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Đây là căn cứ quan trọng để làm cho kế hoạch đưa ra đảm bảo nguyên tắc
thị trường, không xa rời thực tế và mang lại tính khả thi cao. Yêu cầu của việc xây
dựng kế hoạch là phải xác định quy mô, cơ cấu, nhu cầu đối với từng loại sản
phẩm và dịch vụ khác nhau của doanh nghiệp, có tính đến sự tác động của các
nhân tố làm tăng hoặc giảm nhu cầu.
* Thứ 3: Kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất - kinh doanh
về các khả năng và nguồn lực có thể khai thác.
Kết quả phân tích hoạt động kinh doanh thời kỳ trước và dự báo khả năng
tương lai ứng với các nguồn lực có thể sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các
phương án kế hoạch. Trọng tâm phân tích sẽ cần tập trung vào các chỉ tiêu chất
lượng, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Thứ 4: Hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật:
Đây là cơ sở quan trọng kỹ thuật của công tác xây dựng kế hoạch trong
doanh nghiệp. Hệ thống định mức của doanh nghiệp phải gắn bó và phù hợp với hệ
thống tiêu chuẩn và định mức của ngành và nền kinh tế quốc dân và luôn phù hợp
với chu kỳ kinh doanh.
* Thứ 5: Kết quả nghiên cứu và ứng dụng thành tựu của tiến bộ kỹ thuật -
Công nghệ, hợp lý hoá sản xuất.
Đây là căn cứ hàng đầu cho xây dựng phương án sản xuất, kế hoạch dự trữ...
để tránh khỏi sự lạc hậu và bị bất lợi trong cạnh tranh. Căn cứ này thường gắn với
kế hoạch đầu tư, phát triển sản xuất đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường về số lượng
cũng như chất lượng các sản phẩm và dịch vụ.
c. Các bước xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
* Bước1: Nhận thức cơ hội kinh doanh.
Đây là bước quan trọng và thuộc khâu chuẩn bị trong công tác xây dựng kế
hoạch. Trong bước này, doanh nghiệp phải thực hiện một loạt các phân tích và dự

báo nhằm nhận biết các cơ hội dựa trên sự hiểu biết và những thông tin về thị
trường, sự cạnh tranh, quy mô và cơ cấu nhu cầu của khách hàng, điểm mạnh và
điểm yếu và các khả năng, nguồn lực của doanh nghiệp.
* Bước 2: Xác định các mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát này tuỳ thuộc vào từng thời kỳ kế hoạch: Trong thời kỳ
dài hạn, đó là các mục tiêu định hướng chiến lược, trong ngắn hạn, đó là các mục
tiêu cụ thể hơn. Nhưng các mục tiêu này có điểm chung là có tính hướng đích, có
trật tự ưu tiên, gắn với thời điểm tiến hành....
* Bước 3: Xác định các căn cứ
Đây là bước quan trọng trong quá trình xây dựng kế hoạch, nó liên quan trực
tiếp đến kết quả phân tích và dự báo về môi trường, điều kiện kinh doanh và nội bộ
doanh nghiệp. Các dự báo quan trọng có liên quan đến: loại thị trường, số lượng và
cơ cấu sản phẩm, các triển khai kỹ thuật - công nghệ, chính sách tài chính, môi
trường chính trị pháp luật, xã hội.... Do tương lai là yếu tố bất định nên các giả
thiết, căn cứ môi trường liên quan đến môi trường trong khi xây dựng kế hoạch có
thể phù hợp hoặc khong phù hợp. Vì vậy các căn cứ sử dụng trong bản kế hoạch
cũng phải được giới hạn theo các giả thiết có tính chất chiến lược hoặc ngắn hạn.
* Bước 4: Xây dựng các phương án kinh doanh
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, chúng ta có nhiều phương án lựa chọn.
Nhưng vấn đề quan tâm ở đây là phải xác định được những phương án có nhiều
triển vọng nhất chứ không phải là xây dựng thật nhiều các phương án lựa chọn.
* Bước 5: Đánh giá, so sánh các phương án
Trong bước này, thông qua việc sử dụng các kết quả có được trong bước 2
và bước 3 để tiến hành so sánh, đối chiếu các phương án.
* Bước 6: Lựa chọn phương án
Sau khi đã thực hiện xong bước 4 và bước 5, số phương án khả thi không
phải là một. Tuy nhiên, do nguồn lực của doanh nghiệp là có hạn nên không thể
tiến hành thực hiện tất cả các phương án đã xây dựng. Lựa chọn phương án dựa
trên kết quả đánh giá so sánh các phương án. Phương án được lựa chọn sẽ là

×