Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tập san Thơ văn xứ Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 77 trang )


 Tiểu sử
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9-9-1937 tại thành phố Huế
Quê gốc: xã Triệu Long, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, hiện sống ở Huế
Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
(1978)
Hoàng Phủ Ngọc Tường từng dạy học, tham gia tích
cực phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống
Mỹ - ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ quốc từ những
năm 50. Viết văn, viết báo từ khi còn rất trẻ, từng là
Trưởng ty VHTT Quảng Trị, Tổng thư ký Liên Minh
các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố
Huế. Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên
tập tạp chí Sông Hương, Cửa Việt.
 Tác phẩm chọn lọc :

- Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn lâu (bút ký, 1971).
- Những dấu chân qua thành phố (thơ, 1976).
- Rất nhiều ánh lửa (ký, 1979).
- Ai đã đặt tên cho dòng sông (bút ký, 1985).
- Bản di chúc cỏ lau (1991).
- Người hái phù dung (thơ).
Ông đã được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980 với tác phẩm “Rất
nhiều ánh lửa”.
 Tác Phẩm tiêu biểu:
Dạ Khúc

Có một buổi chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa


Có một buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
Cho tôi chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọt ngào như trái nho tươi
Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi
Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như là cái bóng
Hoa tàn một mình em không haỵ
Bồng bềnh cho tới mai sau
Có con thuyền trong sương trắng
Bồng bềnh như một cánh chim
Có em chèo thuyền áo trắng
Xôn xao như trốn, như tìm
Có vầng mặt trời rực sáng
Bồi hồi như một trái tim
Em chèo thuyền về phía hướng đông
Thu Bồn
 Tiểu sử

Nhà thơ Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1935 tại Quảng
Nam, mất ngày 17 tháng 6 năm 2003), là một nhà thơ, nhà văn Việt nam
Thu Bồn sinh tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào bộ đội năm
mười một tuổi và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu. Trong thời gian chiến
tranh Việt nam, ông làm phóng viên chiến trường Liên khu V sau đó về làm việc tại Tạp
chí Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thu Bồn là
ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội
Nhà văn Việt Nam khóa IV. Ngoài bút danh đặt theo tên dòng sông Thu Bồn quê hương,
ông còn có các bút danh khác là Hà Ðức Trọng, Bờ Lốc.
Ngoài thơ, Thu Bồn còn viết tiểu thuyết, nhưng ông được biết đến nhiều với những bài
trường ca, trong đó Bài ca chim Chơ Rao vẫn được coi là thành công có tính định hướng
cho phong cách tiêu biểu của ông và “không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá
sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng”
[1]
. Đây là khúc ca ca ngợi
lòng yêu tự do, ý chí bất khuất của những con người Tây Nguyên trong khung cảnh thiên
nhiên hùng vĩ được giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông của Việt nam.
 Các tác phẩm chính
• Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962),
• Tre xanh (thơ, 1965),
• Mặt đất không quên (thơ, 1970),
• Những đám mây mầu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập,
1975);
• Oran 76 ngọn (trường ca, 1979),
• Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985)
• Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985)
• Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992)...
• Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999)
• Trường ca tuyển tập (1999)
 Các giải thưởng

• Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu
• Giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973)
• Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969)
• Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001
 Các tác phẩm viết về Huế
Tạm biệt Huế
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu
Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ hư vô
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế mà đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh đi mãi chẳng về đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.

Qua sông Thu Bồn
Cầu vồng lũ trẻ chơi màu sắc
Ta thích làm mây mang bão giông

Rạch chéo đất trời tia kiếm chớp
Thức reo làm thác ngủ làm sông
Dòng sông rộng quá nên lai láng
Nhịp cầu thường tiễn ta đi xa
Hỡi con ngựa chiến tuôn về biển
Bất kham dừng lại hóa phù sa
Ta yêu cỏ thẹn bên cồn mả
Hoa tím em thường giả bông tai
Cọng chiếu bao giờ thành xuyến ngọc?
Lối cỏ anh về vẫn lắm gai
Mẹ ngủ ven trời sau cỏ mật
Mây giăng Trà Kiệu chớp Sơn Trà
Sau màn mưa ấy hai con mắt
Xanh hơn cỏ dại ngước nhìn ta
Sâu lắng lòng sông ra Cửa Đợi
Nửa đêm ta thức nhịp Nam Bình
Con thuyền đã gõ xua đàn cá
Sóng vẫn trào lên đẫm phận mình
Trọn đời em muốn làm con sóng
Sông lặng mà em lắc mạn thuyền
Đàn cá khiếp hồn tuôn nháo nhác
Làm mắc vầng trăng giữa lưới vàng
Ta cũng là trăng luôn mắc lưới
Vớt lên ướt hết nửa cuộc đời
Đêm đêm hong gió trên triền núi
Gọi nắng mai lên vá lại trời.
Sông Thu Bồn 1987
Tôi nhớ mưa nguồn
Tôi ngỡ ngàng và tưởng không bao giờ gặp Huế
Đèo Hải Vân cao vút lỗ châu mai

Ô cốt giặc đen ngòm bốn phía.
Biển và mây sóng vỡ vụn chân gành.
Quê hương mẹ tôi chưa về được
huống chi em xa cách mấy thôi đường.
Huế mờ trong khói thuốc
Huế mờ trong đạn bom
Huế chìm trong mưa lụt.
Cầu Trường Tiền bắc giữa giấc mơ tôi
Tìm tôi tìm Huế
Tôi ở đâu rơi về góc Huế
Mười năm có lẻ buồn vui
Một vợ hai con có bìa hộ khẩu
Có một làng quê mong ngóng phía mặt trời
Mà sao tôi chẳng là tôi
Khi hèn mọn đánh rơi mình vào quên lãng
Tôi tìm tôi lang thang
Đêm nào lã chã trăng như nước mắt
Trầm ngâm tôi với Ngự Bình
Trước mộ đứa con trai sinh thiếu tháng
Cháu là người ngoài cuộc đời
Chỉ được nhìn Huế năm ngày qua lồng kính!
Tôi tìm tôi khuya khoắt
Lập loè lửa nhang gốc phượng sương mờ
Nhấp nháy hoài như mắt cây mắt gió
Bên những người xe thồ, xích lô gác chân lên
trời nằm đợi khách
Khẽ hát về đêm tàn Bến Ngự
Vâng, cho đến tàn đêm tôi mới gặp được lời của phố
Nỉ non vệ cỏ bên đường
Tôi tìm tôi lửa đốt

Mỏi rời chân đêm đứng chờ vợ đẻ
Cửa hạnh phúc đầy tiếng rên la
Bắt chước ai tôi cắm nén nhang bên gốc xà cừ
Cầu bình an cho con
Bình an cho mẹ
Sao lại không nguyện cầu cho bình an
Huế trăm năm lớp lớp oan hồn
Chính tôi một oan hồn còn sống
Tôi tìm tôi bè bạn
Góc nghĩa địa lều tranh Dương Thành Vũ
Trăng như nước đá mùa đông
Ướp lạnh những giấc mơ diều giấy
Bạn như người ngoài cuộc đời
Uống bóng mình xạm đen râu ria đáy chén
Câu thơ không đủ ấm
Kể chuyện tiếu lâm nghe tiếng mình cười!
Tôi tìm tôi lạnh toát
Đường Phan Bội Châu số nhà ba mốt
Đỉnh dốc là Sào Nam tôi ở lưng chừng
Nơi có mệ già ngồi bên đường chìa mê nón
xin đời bố thí
Bốn mùa mệ không đổi dáng ngồi
Như tượng đài thời gian rách nát
Mệ cũng là người ngoài cuộc đời
Tuổi trẻ ồn ào đi qua lướt qua không thèm để ý
Dân xe cúp xe con rú máy vèo qua
xả khói vào mê nón
Rơi vào mê nón nắng mưa nhiều hơn đồng hào
Chuông chùa rơi từng giọt lắng trầm
“Anh chị cho tui xin một đồng”!

Tiếng cầu xin bám đuổi hồn tôi
Ôi, khổ đau cũng cầu mong thêm được vài phút sống!
Tôi tìm tôi hờ hững
Giữa chúng ta láo nháo nói cười
Vỗ tay mừng công cụng ly thành tích
Rồi trở về tìm lá xông vợ cúm
Rồi trở về góc Huế với mình
Bước đi như hẫng hụt
Lục túi tìm mười đồng bỏ vào mê nón mệ bên đường
Mà túi rỗng
Thơ không bán được mệ ơi!
Tthơ cũng ở ngoài cuộc đời, thưa mệ!
Tôi tìm tôi tìm Huế
Góc chợ rau dưa hè phố gánh hàng
Bên dòng sông nắng đục mưa trong
Câu ca như cầu bắc
Tôi đi tìm mà nhiều khi chẳng gặp
Gương mặt mình đích thực
Bạn bè ơi...
Tố Hữu
 Tiểu Sử:
Tố Hữu (tên thật là Nguyễn Kim Thành; 1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng
thơ cách mạng Việt Nam.
Ông sinh tại Hội An, tỉnh Quảng Nam. Nhiều tài liệu, sách báo thường ghi ông sinh tại
làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông đã
nói rõ điều này trong cuốn Một thời nhớ lại, NXB Hội Nhà văn, 2000: "Nhưng thực ra tôi
sinh ở Hội An, tỉnh Quảng Nam, năm 1920, và ở đó đến năm chín tuổi mới theo cha ra
Huế" (trang 8).
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại
đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich

Lenin, Maxim Gorki... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim
Thành sớm tiếp cận với ý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp
vào Đảng Cộng sản năm 1938.
Tháng 4 năm 1939, ông bị bắt, bị tra tấn và giam tại nhiều nhà tù miền Trung như Lao
Bảo, Huế, Ban Mê Thuột...
Cuối năm 1941, ông vượt ngục về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi Cách
mạng tháng Tám bùng nổ, ông là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế. Năm
1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn
nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn
nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; 1963:
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt
Nam;
Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết
Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành
Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng
cho tới năm 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Năm 1958, ông tham gia dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm đòi dân chủ của các văn
nghệ sĩ miền Bắc.
Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc,
Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban
Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín vì vai trò "nhà thơ đi làm kinh tế" qua những vụ
khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một

chức nghiên cứu hình thức.
Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.
• Ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn-Giai phẩm với tư cách là
người thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách văn nghệ. Nhiều ý kiến coi ông
tà tác giả chính của vụ án văn nghệ-chính trị này.
• Ông cũng được đánh giá là con người khá bảo thủ, khi bị phê bình về các tác phẩm
của mình thì thường có phản ứng rất quyết liệt (Theo nhận định của Văn Cao thì
chính lí do này khiến ông bị nghi hoặc là có liên quan đến việc đẩy mạnh dập tắt
phong trào Nhân văn-Giai phẩm và không được nhiều cảm tình từ phía các nghệ sĩ
khác).
• Ngoài ra, ông còn là nhà thơ chính trị, có nhiều bài ca ngợi các lãnh tụ cộng sản
quốc tế như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin...
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hải đăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!

 Các tác phẩm tiêu biểu
Từ ấy
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chiếu qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Tháng 7 năm 1938

Khi con tu hú
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Một làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Huế, tháng 7 năm 1939
 Các tác phẩm về Huế
Tiếng hát sông Hương
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Trên dòng Hương Giang
Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát

Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!
-Trời ơi em biết khi mô
Thân em hết nhục giày vò năm canh.
Tình ôi gian dối là tình
Thuyền em rách nát còn lành được không?
-Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng.
Trên dòng Hương Giang...
Tháng 8 năm 1938
Quê mẹ
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lẳng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi...
Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường!

Ôi những đêm mưa, tối mịt mùng
Con nằm bên mẹ, ấm tròn lưng
Ngoài hiên nghe tiếng giầy đi rỏn
Mẹ bấm con im: chúng nó lùng
Con hỏi vì sao, chúng nó tìm
Tìm ai, con hỏi, mẹ rằng: im!
Mẹ ơi, đời mẹ buồn lo mãi
Thắt ruột mòn gan, héo cả tim!
Mẹ không còn nữa, còn đây Huế
Con lớn lên con biết lẽ rồi:
Nước mất nhà tan, đời khổ thế
Không làm nô lệ, đứng lên thôi!
Con lớn lên con tìm Cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt khi con chửa biết gì.
Huế không buồn nữa, Huế ta ơi
Mắt ướt trăm năm đã hé cười
Nghìn mảnh tương lai về phấp phới
Truyền đơn cờ đỏ gió tung trời
Roi điện cùm xai tóe máu tươi
Xà lim không thể khóa hồn ngời
Bừng bừng tiếng hát rung song sắt
Tiếng hát ta bay lộng giữa đời...
Tháng Tám vùng lên Huế của ta
Quảng Phong ơi Hương Thủy, Hương Trà
Phú Vang, Phú Lộc đò lên Huế
Đò ngập dòng sông rộn tiếng ca.
Từ ấy xa quê mẹ đến rày
Lắng nghe từng buổi, nhớ từng ngày

Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây
Cắn răng gian khổ tám năm trời
Huế của ta không một bước lùi
Huế của ta đây cầm vững súng
Chúng bay không thể có đường vui
Chúng bay không thể có ngày mai
Chết dưới chân bay vạn bẫy gài
Chết dưới đầu bay từng hốc núi
Hải Vân thăm thẳm huyệt đêm ngày!
Làng ta giặc đốt mấy lần qua
Mà đất Phù Lai vẫn tốt cà
Mà quýt Hương Cần ta vẫn ngọt
Nhớ anh du kích trấn Dương Hòa
Chí ta như núi Thiên Thai ấy
Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương Giang ấy
Xanh biết lòng sông những bóng thông...
Lửa chiến tranh nay đã tắt rồi
Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi
Mẹ ơi dưới đất còn chua xót
Những tiếng giầy đinh đạp núi đồi!
Ôi Huế ngàn năm, Huế của ta
Đường vào sẽ nối lại đường ra
Như con của mẹ về quê mẹ
Huế lại về vui giữa Cộng hòa.
6.2.1955
Huế Tháng Tám
Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác
Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau

Chân nôn nao như khách đợi mong tàu
Bước dò bước, không biết sau hay trước?
Tim hồi hộp, vì sao? Ai hen ước;
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt sáng ngời, như lửa hay như sao?
Người hay mộng? Ngoài vào hay trong tới?
Giáng từ trên hay là vươn từ dưới?
Huế xôn xao lo lắng, những đêm mơ
Khát khao hoài, như cô gái mong chờ
Sau cửa hé, người yêu chưa biết mặt...
Trên hương giang mênh mang đò lạnh ngắt
Tiếng đàn im Ca kỹ nép phương nào?
Trăng thì thầm chi với sóng lao xao...
Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lầu, trông lên cao xao xuyến
Muôn vì sao... Lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
Nổi cô độc giữa gió triều biến động,
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới chân chầu
Người đứng đây. Trăm họ đang về đâu?
Đình thần đó, rầu rầu thân lá trắng
Quá khứ nặng đè xuống đầu cúi lặng...
Một gai vàng không thể thắng cả giang sơn!
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã sôi dòng nhân loại!
Người phải xuống, đến nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thắng giữ ngôi son!
Người phải lui, cho Dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa!

Hãy mở mắt: Quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào
Một dân tộc đã ào ào đúng dậy!
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
Nước mắt ta trào, búp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc
Hả hê chưa, ai bịt được mồm ta?
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta say, say thần thánh?
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ
Gió gió ơi! hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tơi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi
Ta ngã vật trong dòng người vuộn thác
Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc
Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!
1945

Tiểu sử
Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949), là một nhà thơ nữ Việt nam, Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Lâm Thị Mỹ Dạ sinh tại quê: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình,
cha là người gốc Hoa, mẹ người Huế. Bà làm việc tại Ty văn

hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn
Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập viên tạp chí
Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên
- Huế). Lâm Thị Mỹ Dạ là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học
Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành
Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.
Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ có tiếng ở Việt nam.
Tác phẩm chính
Trái tim sinh nở (thơ, 1974)
Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983)
Danh ca của đất (truyện thiếu nhi, 1984)
Nai con và dòng suối (truyện thiếu nhi, 1987)
Phần thưởng muôn đời (truyện thiếu nhi, 1987)
Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989)
Mẹ và con (thơ, 1994)
Đề tặng một giấc mơ (thơ, 1998)
Hồn đầy hoa cúc dại (thơ, 2007)
Một tập thơ gồm 56 bài do bà tự tuyển chọn trong những tập thơ đã xuất bản của mình
được Nhà xuất bản Curbstone dịch sang tiếng Anh và phát hành năm 2005.
Đánh giá
Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Hồ Thế Hà đã viết: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ
thơ bao giờ cũng là bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự
tưởng.". Nhà thơ Ngô Văn Phú cũng nhận định: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hay ở những chỗ
bất thần, ngơ ngác và những rung cảm đầy nữ tính."
[2]
. Những bài thơ Truyện cổ nước
mình, Khoảng trời - hố bom của bà được giảng dạy trong chương trình tiếng Việt, văn học
phổ thông của Việt nam.
Tác Phẩm tiêu biểu

Tôi về với tôi
Thả mây cho gió
Thả xanh cho cỏ
Thả trăng cho trời
Tôi về với tôi.
Thả người thục nữ
Hồn nhiên nói cười
Thả người tục lụy
Danh vọng đua đòi
Thả hết, thả hết
Tôi về với tôi.
Thả thời thiếu nữ
Khuất vào xa xăm
Thả chùm tóc bạc
Trắng cả ngàn năm.
Ai đem nụ cười
Chạm vào nước mắt
Niềm vui có màu
Nỗi buồn trong vắt
Tôi về với tôi.
Thơ như máu thắm
Tan vào hư vô
Ðời bao phúc họa
Gieo gặt bất ngờ
Mỏi không thể nghỉ
Ðau không còn kêu
Người im như bóng
Tôi về với tôi.
May có đứa bé
Còn ở trong hồn

Cái nhìn xanh biếc
Lung linh cội nguồn
Trái tim thơ dại
Tôi về với tôi.
Khoảng trời - hố bom
Chuyện kể rằng: Em, cô gái mở đường
Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Ðánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom...
Ðơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
Một nấm mồ, nắng ngời bao sắc đá,
Tình yêu thương bồi đắp cao lên...
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Ðất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau.
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Ðêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh.
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Ðã hóa thành những làn mây trắng ?
Và ban ngày khoảng trời ngập nắng
Ði qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời, hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp quãng đường dài ?
Tên con đường là tên em gửi lại

Cái chết em xanh khoảng trời con gái
Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em
Gương mặt em, bạn bè tôi không biết
Nên mỗi người có gương mặt em riêng.
(1972)
Khoảng thời gian xanh biếc

Tôi bâng quơ hát một lời ca
Trước trời đất đầy hoa và gió
Và câu hát tơ non ngọn cỏ
Nhú lên mùa xuân
Ai biết lời ca tôi bay về đâu
Trong nắng vàng tươi hay cánh đàn chim trắng
Xôn xao thời gian tình đời như lá thắm
Lời ca có ở trong màu cây?
Mùa xuân tôi lại đến nơi đây
Bỗng chợt nhớ khoảng đời thuở trước
Trên bước chân tình yêu câu ca xưa trở lại
Ngân lên từ sâu thẳm trái tim tôi
Mảnh tâm hồn ánh ỏi thắm tươi
Theo đàn bướm chợt về trên hoa cỏ
Nghe xa vọng một điều gì không rõ
Những tiếng thầm như men rượu bừng lên...
Tôi đã trải bao vui buồn, sướng khổ
Trước cuộc đời vất vả gian lao
Năm tháng dày thêm xa dần tuổi nhỏ
Giai điệu xưa chẳng quên được đâu nào
Theo bài ca tôi về tìm lại
Khoảng thời gian xanh biếc dưới cỏ mềm
Cái quãng đời vô tư trong sáng

Lại rộn ràng từ hoa cỏ mọc lên!
Nam Trân
 Tiểu Sử
Nhà thơ Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh ngày 15/2/1907, mất ngày 21/12/1967
là người quê Đại Lộc, Quảng Nam, nhưng tên tuổi ông gắn bó với Huế hơn nửa thế kỷ nay
không chỉ vì ông từng là học sinh Trường Quốc học Huế và sau khi đỗ tú tài làm tham tá
tòa Khâm sứ Huế, mà chủ yếu vì tập thơ đầu tay "Huế Đẹp và Thơ" đã được các tác giả
"Thi nhân Việt Nam" trân trọng đánh giá: "...tả cảnh Huế chưa ai bằng được Nam Trân."
 Tác phẩm về Huế
Cô gái Kim Luông
Kim Luông nhiều ả mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo.
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo.
Thuyền qua đến bến; cô lui lại,
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo.
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo
Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng.
Biết không? Cô hỡi, biết không?
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn sao!
(Huế, Đẹp và Thơ, 1939)
Mùa đông, cánh đồng An Cựu
Lá bàng
Như lá vàng
Rụng.
Ôi! đìu hiu
Cảnh chiều
Đông!

Ruộng ngập: mênh mông
Nước phẳng.
Cò bay, yên lặng,
Quanh đồng.
Thi tứ viễn vông:
Thần Tưởng tượng
Như đàn có đói lượn
Đồng không.
(Huế, Đẹp và Thơ, 1939)
Giận khúc Nam ai

Đừng kể nữa những mảnh tình tan tác.
Hãy đứng lên, Nhạc sỹ, với tôi, đi!
Tôi ghét anh mê giọng hát sầu bi
Và tung mãi tâm hồn thừa trụy lạc.
Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm ảo não!
Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng
-Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân-
Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão.
Ôi nhạc sĩ, thật anh người thậm tệ:
Quan hoài chi những lối hát mê ly,
Những câu ca không Đẹp lại không Thi
Của kỹ nữ vọc cuộc đời ê chệ?
Hãy cung kính nhượng các ngài tuổi tác
Những bản đờn, dịp hát thiếu tinh thần.
Hãy ra nghe sóng vỗ, ngắm mây vần
Rồi sáng chế cho tôi vài điệu khác
Huế, Đẹp và Thơ - 1939
Huế, đêm hè
Trời nóng dăm bốn độ.

Đèn, sao khắp đế đô,
Mặt trăng vàng, trỏn trẻn
Nấp sau nhánh phượng khô.
Ba dịp cầu Trường Tiền
Đứng dày người hóng mát;
Ngọn gió Thuận An lên,
Áo quần kêu sột sạt.
Đủng đỉnh chiếc thuyền nan
Qua, lại bến sông Hương...
Tiếng đờn chen tiếng hát,
Thánh thót điệu Nam Bường.
Hai tay xách hai vịm,
Một vài mụ le te,
Tiếng non rao lảnh lói:
Chốc chốc: "Ai ăn chè?"
(Huế, Đẹp và Thơ)
Núi Ngự, sông Hương
Anh đã đến Huế rồi,
Anh đã biết Huế chưa?
Ví đã biết Huế rồi
Thì đã hiểu Huế chưa?
Hiểu rồi cũng ngỡ là chưa,
Mà chưa nào biết rằng chưa hay rồi.
Ra đi lòng những bồi hồi,
Biết chăng? Chẳng biết rằng rồi hay chưa.
Huế tôi, cảnh đẹp như mơ.
Đế đô là một bài thơ muôn vần.
Tay tiên dù nắn bút thần
Cũng đành bỏ lắm những phần thanh tao.
Ngự Bình như thấp, như cao,

Nhạt màu mây móc, đượm màu cỏ hoa.
Gió đờn, thông dịp, chim ca,
Hoạ vần thoang thoảng một vài khúc tiêu.
Hương Giang: cô gái mỹ miều,
Tấm thân bay bướm láy chìu nhởn nhơ,
Trời xuân rải bóng dương tà:
Dưới hoa óng ả một vài tiểu thơ.
Đêm thu trăng tỏ nước mờ,
Chiếc thuyền bé tí bên bờ cỏ hoen;
Điệu đờn vút tận cung tiên,
Ung dung tỏa nhẹ xuống miền nhân gian
Ru hồn một giấc mang mang
Êm như mặt nước mơ màng biếng trôi.
Anh tìm cảnh lịch đến chơi
Thì anh đã hiểu Huế rồi hay chưa?
Huế, Đẹp và Thơ - 1939
Vườn cau Nam Phổ
Trung thu: cô độc quả trăng tròn...
Chỉ có sân Trời vắng trẻ con.
Ánh lướt da cau phơi vẻ trắng:
Thoạt trông còn ngỡ chiếc đùi non.
Huế, Đẹp và Thơ - 1939

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×