GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẤT
ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
I. Quan điểm của việc quản lý
Thực tiễn của hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy quan điểm
đúng đắn của Đảng về giải phóng mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất đã tạo ra
những động lực to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Đường lối kinh tế, các giải
pháp đúng đắn đã nâng cao năng lực sản xuất, phát huy cao độ tiềm lực của nhân
dân, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ra sức làm ăn để làm
giàu cho mình và cho đất nước. Những năm qua, đường lối, cơ chế chính sách
pháp luật của Đảng và nhà nước ta về vấn đề đất đai là đúng đắn sáng tạo. Việc
giao đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình cá nhân đã giải quyết được vấn đề lương
thực và dành một phần cho xuất khẩu. Các nguồn thu từ đất như giao đất có thu
tiền, cho thuê đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất… đã tạo ra một nguồn thu ổn
định cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, quan hệ đất đai luôn luôn biến đổi và để
cho đất đai trở thành một hàng hoá đặc biệt hình thành nên thị trường bất động sản
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi phải có những
quan điểm quản lý đúng đắn phù hợp với sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế của
nhà nước ta hiện nay.
1. Quan điểm kết hợp giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng và đảm bảo sự quản lý
tập trung thống nhất của nhà nước
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, quan điểm này
đã được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng và được ghi nhận trong hiến
pháp 1992. Đây là quan điểm cực kì quan trọng và đúng đắn của Đảng ta bởi vì đất
đai của nước ta ngày nay là kết quả của quá trình chế ngự thiên nhiên và chống
giặc ngoại xâm của dân tộc với hàng nghìn năm dựng và giữ nước, trải qua nhiều
thế hệ nhân dân ta đã đổ nhiều sức lực và xương máu để giữ gìn từng tấc đất.
Chính vì vậy đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước là người thay mặt nhân
dân đứng lên quản lý toàn bộ đất đai, nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai, có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt số phận pháp lý của đất đai. Sự kết hợp
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng chính là sự gắn bó thống nhất giữâ hai quyền
này. Từ đó trách nhiệm của chủ sở hữu cũng như hiệu quả sử dụng đất của các đối
tượng sử dụng được nâng cao. Sự kết hợp giữa hai quyền này đảm bảo cho quyền
sở hữu vẫn không hề thay đổi còn quyền sử dụng được thực hiện bằng hình thức
nhà nước giao đất cho các hộ gia đình cũng như tổ chức kinh tế sử dụng lâu đài ổn
định, ngoài ra nhà nước còn cho thuê đất, có quyền thu hồi đất khi cần thiết. Việc
sử dụng đất của các đối tượng được nhà nước bảo đảm bằng pháp luật và từ đó mở
rộng các quyền của người sử dụng đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Từ đó cho thấy nhà nước quan tâm
đến lợi ích của những người sử dụng đất và nhà nước công nhận quyền và nghĩa
vụ của họ nhất là các hộ gia đình, cá nhân đã tạo ra động lực thúc đẩy quá trình sử
dụng đất đai hợp lý hơn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển.
Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quan trọng và quý giá của mỗi dân tộc.
Không có một tổ chức hay một tập đoàn nào có thể đứng ra quản lý đất đai. Chỉ có
nhà nước, người đại diện hợp pháp của mọi tầng nhân dân mới có quyền tối cao để
quản lý đất đai. Và cũng chỉ có nhà nước mới có khả năng biến mọi đường lối chủ
trương của Đảng thành kế hoạch để có thể quản lý đất đai. Nhà nước phải nắm giữ
quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản trong tay mà đại diện là các cơ
quan như chính phủ, các bộ, đồng thời nhà nước giao quyền cho các địa phương,
các ngành tức là thực hiện phân cấp quản lý, nhà nước giao quyền được sáng tạo
và linh hoạt trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện luật và các văn bản pháp
quy của trung ương cho các cấp, các ngành. Quyền quản lý tập trung thống nhất
của nhà nước được quy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải
phục tùng trung ương, thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp,
đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa các hoạt động trong quá trình quản lý
sử dụng đất. Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật đất đai, làm cho pháp luật đất đai được thực hiện nghiêm minh. Quyền
quản lý tập trung thống nhất được thực hiện ở việc nhà nước thông qua công tác
quy hoạch kế hoạch để điều chỉnh các hoạt động sử dụng đất và cũng dựa vào đó
nhà nước giao đất cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng đất. Thông qua hệ
thống văn bản pháp lý về quyền quản lý mà văn bản có tính chất pháp lý cao nhất
là Luật đất đai để thực hiện quyền thống nhất quản lý. Để đảm bảo quyền này, nhà
nước phải sử dụng các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp. Nếu sử
dụng tốt các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thì quyền quản lý tập trung
thống nhất của nhà nước sẽ được duy trì và vai trò quản lý nhà nước về đất đai sẽ
được phát huy đầy đủ. Ngược lại, nếu công cụ quản lý sử dụng không tốt, không có
sự kết hợp một cách hiệu quả giữa công cụ và phương pháp quản lý đặc biệt là
trong cơ chế thị trường thì quyền quản lý tập trung thống nhất bị giảm đi, đất đai
sử dụng không hiệu quả và vi phạm luật đất đai ngày càng tăng.
2. Quan điểm kết hợp quản lý đất đai với vấn đề bảo vệ môi trường và các vấn đề xã
hội..
Vấn đề rất lớn đặt ra trong quản lý đất đai khi đẩy mạnh công ngiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sử dụng đất đai, các tài nguyên thiên nhiên từ
lòng đất có hiệu quả và phải bảo vệ môi trường. Đây là vấn đề thách thức đối với
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Mỗi hoạt động của con người đều làm
biến đổi môi truờng một cách mạnh mẽ. Vấn đề ô nhiễm đất, lạm dụng các chất
hoá học, xác sinh vật, động vật, các chất thải công nghiệp … sẽ làm giảm năng
suất chất lượng cây trồng, huỷ diệt sự sống của một số sinh vật khác và đe doạ dến
sức khoẻ con người. Sự ô nhiễm không khí do sử dụng các phương tiện vận tải,
của các nhà máy công nghiệp cùng quá trình đô thị hoá làm cho môi trường sinh
thái bị mất cân bằng. Nguồn nước sạch đang ngày càng khan hiếm, các tài nguyên
thiên nhiên cũng đang trong quá trình cạn kiệt dần. Đặc biệt là tài nguyên đất bị
khai thác tuỳ tiện. Sự mất cân bằng sinh thái làm biến đổi khí hậu và làm tăng các
thiên tai dồn dập gây hậu quả to lớn. Tất cả những thách thức về môi trường đó đòi
hỏi chúng ta phải khai thác giư gìn đất đai, phát huy tiềm năng của rừng, mặt khác
phải chăm sóc bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, phủ xanh đất trống, đồi trọc, bảo
vệ các di tích lịch sử, các công trình văn hoá… Vì vậy phải có kế hoạch sử dụng
đất một cách hợp lý, khoa học và trong quá trình sử dụng phải kết hợp với các vấn
đề xã hội, bảo vệ môi trường. Đó là sự đảm bảo hạnh phúc lâu dài cho các thế hệ.
Do đó phải thực hiện quan điểm này trong quá trình quản lý đất đai.
3. Quan điểm quản lý đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ.
Có thể nói, đất đai là tài nguyên quý giá của đất nước và vấn đề quản lý, sử
dụng đất đai đã được nhà nước ta phân cấp cụ thể cho các cơ quan quản lý từ trung
ương cho đến địa phương. Việc quản lý đất đai bao gồm 7 nội dung mà các nội
dung quản lý đều có liên quan đến nhau, thực hiện quản lý theo 7 nội dung này
phải đảm bảo tính hệ thống từ nội dung thứ 1 cho đến nội dung thứ 7, từ việc xác
định ranh giới diện tích đất để xác định chủ sử dụng cụ thể của mảnh đất đó, đến
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và đăng kí cập nhật biến động
đất đai … Công tác quản lý này liên quan đến nhiều cơ quan quản lý : quản lý
chuyên môn và quản lý hành chính. Cụ thể về đất đai liên quan đến UBND thành
phố, Sở địa chính nhà đất, UBND quận- Phòng ĐC-NĐ quận, UBND phường- cán
bộ địa chính nhà đất phường.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai cũng được quy định trong các văn bản nghị
định, quy định, quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn …của nhà nước và các cơ
quan liên quan. Để thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, bảo vệ chế độ sở hữu đất
đai thì quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, đảm bảo tính hệ thống trong
suốt quá trình thực hiện nội dung, trong việc ra quyết định của các cơ quan quản lý
cấp trên cho đến các cơ quan cấp dưới, giữa các cơ quan liên ngành với nhau. Tính
đồng bộ được thể hiện ở việc ban hành các văn bản, văn bản được ban hành phải
đảm bảo cho việc áp dụng dễ dàng, không chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Nội
dung quy định về quản lý hay hướng dẫn thực hiện các quy định, quyết định … do
các cơ quan quản lý chuyên môn và quản lý hành chính phải nhất quán với nhau.
Trong trường hợp một số các quy định do cơ quan quản lý ban hành không phù
hợp với thực tế cần phải rà soát và bổ sung, sửa đổi để đảm bảo cho nội dung được
ban hành không bị lạc hậu giúp cho công tác quản lý được thực hiện tốt.
4. Chủ động xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ : “ Tổ chức quản lý tốt thi trường
bất động sản. “. Trong bộ luật dân sự cũng đã quy định :” Đất đai là một yếu tố bất
động sản “. Như vậy chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của nhà nước về
thị trường bất động sản đã được hình thành. Tuy vậy trong thực tế vẫn còn có
những ý kiến khác nhau về vấn đề đất đai có phải là hàng hoá không, đất đai tham
gia thị trường bất động sản như thế nào. Mặt khác chủ trương về thị trường bất
động sản của Đảng và nhà nước đã được thể hiện nhưng các quy định cụ thể của
pháp luật đất đai đối với vấn đề này còn chưa rõ. Thực tế cho thấy, kể cả từ trước
khi pháp luật đất đai cho phép, thị trường bất động sản ngầm đã từng tồn tại và
hoạt động. Việc buông lỏng quản lý thị trường, để thị trường ngầm phát triển vừa
làm mất đất, mất tiền và sự công bằng trong xã hội không được thực hiện tốt,
khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Trong thời gian vừa qua, thị trường bất
động sản ở Hà Nội đã trở nên sôi động, đã xảy ra những cơn sốt đất nằm ngoài sự
kiểm soát của nhà nước, gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này mà nguyên nhân cơ bản là các quy định của
pháp luật về bất động sản còn thiếu và không kịp thời với yêu cầu thực tế. Chính vì
vậy để có thể xây dựng một thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả và lành
mạnh thì phải coi đất đai là một tư liệu hàng hoá đặc biệt, là yếu tố quan trọng để
phát triển sản xuất và phải chủ động xây dựng thị trường bất động sản, tiến tới xoá
bỏ thị trường phi chính thức trên địa bàn thành phố.
II. Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai
trên địa bàn Hà Nội:
Việc đảm bảo cho đất đai được sử dụng theo đúng pháp luật, nhằm tạo được
trật tự kỉ cương trong quản lý sử dụng, thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ đất
đai, hình thành thị trường bất động sản trên phạm vi cả nước nhất là ở các đô thị
lớn trong đó có Hà Nội là vấn đề hết sức bức xúc hịên nay. Từ thực trạng của công
tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn trong thời gian qua và các quan điểm
quản lý, căn cứ vào pháp luật đất đai hiện hành, em xin đề xuất một số giải pháp
sau:
1. Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính:
-Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao trình độ năng lực của người làm công tác địa
chính. Bởi vì cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân cho nên cần phải đào
tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ địa chính là yêu cầu cấp bách.
+ Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác địa chính, trong đó chú trọng
cả hai phẩm chất đạo đức chính trị và trình độ năng lực chuyên môn. Việc xây
dựng và tiêu chuẩn hoá cán bộ có ý nghĩa lớn đối với việc đào tạo bồi dưỡng, lựa
chọn và sử dụng có hiệu quả cán bộ công chức địa chính trong quản lý nhà nước
về đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý.