Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.05 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP KHU
CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM.
Ở Việt Nam mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất được quan tâm,chú ý từ
khi chúng ta thực hiện đường lối phát triển đổi mới mở cửa. Ngày 24/4/1997 Chính
Phủ đã có nghị định 36/CP ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu công nghệ cao thay thế quy chế khu chế xuất ban hành kèm
theo nghị đinh số 322-HĐBT ngày 18/10/1991và quy chế khu công nghiệp
ban hành theo nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính Phủ.
I. CÁC LOẠI HÌNH KHU CÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA:
Qua một thời gian thử ngiệm và phát triển, đến nay ở nước ta đã có 2 loại
hình khu công nghiệp sau: khu công nghiệp-khu công nghệ cao được thành lập
theo quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất do Chính phủ ban hành và khu cửa
khẩu biên giới do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho hưởng thí điểm một số
chính sách để phát triển. Trong các khu công nghiệp hiện có của cả nước có thể
phân chia thành các loại hình sau:
1, Các khu công nghiệp được thành lập trên khuôn viên đã có một doanh
nghiệp công nghiệp đang hoạt động:
Chẳng hạn như cụm công nghiệp Hoà Khánh thuộc khu công nghiệp Hoà
Khánh-Liên Chiểu (Đà Nẵng), khu công nghiệp Việt Hương (Bình Dương), khu
công nghiệp Tân Tạo, Bình Chiểu Thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Sài
Đồng (Hà Nội) và một số khu công nghiệp tại Đồng Nai nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển khu công nghiệp theo hướng quy định mới đồng thời tạo hạ tầng kĩ thuật
phục vụ tốt khu công nghiệp có điều kiện xử lý chất thải công nghiệp, đồng thời
đảm bảo tính quy hoạch trong xây dựng của các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ
thuật thuận tiện cho các doanh nghiệp sử dụng
2, Các khu công nghiệp được hình thành đáp ứng yêu cầu cho việc di dời
các nhà máy xí nghiệp, đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh
trang đô thi và bảo vệ môi trường, môi sinh mà phải di chuyển một số nhà máy,
xí nghiệp vào khu công nghiệp:
Hiện nay do các thành phố phát triển nhanh và quy mô lớn dân cư tập trung
đông hơn nên các cơ sở công nghiệp đã xây dựng trong nội thành chẳng những mất


mỹ quan cho thành phố mà còn gây ô nhiễm cho môi trường sống cho dân cư đô
thị. Việc mở rộng các cơ sở này, đổi mới công nghệ khi thực hiện do không còn
diện tích đất, xử lý hạ tầng và bảo vệ môi trường tốn kém. Do đó việc hình thành
các khu công nghiệp phục vụ nhu cầu di dời là nhu cầu khách quan. Thực hiện
càng sớm càng tốt, đã có hàng chục khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh
được thành lập trong thời gian gần đây thuộc nhóm này. ở các thành phố lớn khác
như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ... cũng đã tập trung giải quyết vấn đề
này.
3, Các khu công nghiệp quy mô nhỏ gắn liền nguồn nhiên liệu nông, lâm
thuỷ sản được hình thành ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng
trung du Bắc bộ và duyên hải miền Trung:
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, các tỉnh đều có nhu cầu hình thành các khu công nghiệp nhằm tạo điều
kiện phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản và các nguồn tài nguyên
mà địa phương có sẵn thế mạnh
4, Các khu công nghiệp hiện đại có quy mô lớn xây dựng mới hoàn toàn,
thuộc loại này hiện có 20 khu công nghiệp, trong đó có 13 khu công nghiệp (kể
cả 3 khu chế xuất) do công ty nước ngoài đầu tư và phát triển hạ tầng theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Như khu công nghiệp Hải Phòng Nomura, khu công nghiệp Việt Nam-
Singapore, khu công nghiệp Long Bình Amata, khu công nghiệp Bắc Thăng
Long... các khu công nghiệp này có tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối nhanh
và chất lượng hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có hệ thống xử lý nước thải tiên tiến,
đồng bộ, có một số khu có nhà máy phát điện riêng tạo điều kiện hấp dẫn đầu tư
đổi mới các công ty nước ngoài có công nghệ tiên tiến, có khả năng tài chính và có
ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Khả năng vận động xúc tiến đầu tư có điều
kiện hơn cho bên ngoài tham gia liên doanh, có mạng lưới kinh doanh rộng khắp,
có kinh nghiệp tiếp thị.
Theo đánh giá nhận xét của ban quản lý các khu công nghiệp, nếu xếp theo
thứ tự trong việc xem xét, quyết định việc hình thành khu công nghiệp thì loại hình

khu công nghiệp này cần được quan tâm, cân nhắc thận trọng nhất. Bởi vì đây là
những khu công nghiệp được hình thành từ đầu, hoàn toàn mới cả việc phát triển
hạ tầng và thu hút vốn đầu tư, nhu cầu đất và vốn đầu tư lớn, nếu loại hình này thất
bại thì tác hại của nó rất lớn. Cần phải xác định việc xây dựng hạ tầng phải đồng
bộ và đạt tiêu chuẩn quốc tế việc thu hút đầu tư nên tập trung vào những khu vực
có công nghệ tiên tiến, nguồn sản phẩm xuất khẩu có tính cạnh tranh cao. Do vậy
việc thu hút đầu tư cần lưu ý 2 mặt tiến độ nhanh và chất lượng doanh nghiệp khu
công nghiệp.
II. TÌNH HÌNH CHUNG:
Theo báo cáo của Ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam đến tháng 9/1999,
cả nước có 66 khu công nghiệp (trong đó có 3 KCX) với diện tích trên 1 vạn ha, đã
thu hút 24 quốc gia đến đầu tư, gồm có 543 doanh nghiệp nước ngoài, vốn đăng ký
là 6,1 tỷ USD và 307 doanh nghiệp trong nước. Số khu công nghiệp, khu chế xuất
được phê duyệt quy hoạch với tổng vốn đầu tư hạ tầng là 1839,4 triệu USD. Trong
đó:
- Năm 1996 Chính Phủ phê duyệt 33 khu
- Năm 1997 Chính Phủ phê duyệt 17 khu
- Năm 1998 Chính Phủ phê duyệt 6 khu
10 khu còn lai được chấp nhận về chủ trương theo các quyết định riêng.
Các khu công nghiệp này tập trung chủ yếu ở miền Nam, còn lại ở miền Bắc và
miền Trung.
Tổng số vốn xây dựng cơ sở hạ tầng : 1839,4 triệu USD
Khu vực Số lượng KCN Tỷ lệ (%)
Miền Bắc 13 19,69
Miền Trung 13 19,7
Miền Nam 40 60,61
Kể từ khi thành lập và phát triển đến nay khu công nghiệp, khu chế xuất đã có
những đóng góp to lớn. Năm 1999, các khu công nghiệp chiếm trên 25% tổng giá
trị sản lượng công nghiệp và 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần
chủ yếu tạo nên sự đột biến về xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài với giá trị

4595 triệu USD.tăng 42,4% so với năm1998
Một vài số liệu về kết quả hoạt động
của các khu công nghiệp
Năm Tổng giá trị sản lượng
(tr. USD)
Tổng kim ngạch xuất khẩu
(tr. USD)
1997 1155 848
1998 1871 1300
1999 2982 1761
Các khu công nghiệp đã thu hút được 300.000 lao động và tạo ra hàng vạn
công ăn việc làm gián tiếp liên quan đến xây dựng và dịch vụ khu công nghiệp. Kết
quả hoạt động của các khu công nghiệp đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất rất
quan trọng, trước hết là vốn và khoa học công nghệ để thúc đẩy nhịp độ tăng
trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Các
khu công nghiệp còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển với nhịp
độ khá cao và tương đối ổn định trong những năm qua và so với các nước trong
khu vực, đồng thời tạo ra tiền đề và điều kiện để dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này thể hiện rất rõ ở các tỉnh Đông
Nam Bộ, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, trong đó đã xuất hiện những mô
hình khu công nghiệp, khu chế xuất hoạt động có hiệu quả như khu công nghiệp
Biên Hoà 2 (Đồng Nai), 2 khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung (Thành phố Hồ
Chí Minh).
Cơ cấu vốn đầu tư của các khu công nghiệp hiện nay cũng đã thay đổi so với
các năm trước. Trong giai đoạn đầu, đầu tư nước ngoài chiếm trên 50% vốn đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, gần 90% số dự án và 93% tổng số vốn
đầu tư của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Đến nay tỷ lệ tương ứng là
40%, 64% và 83%. Sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà đầu tư trong nước
vào khu công nghiệp đã và đang tạo ra những nhân tố mới để phát triển mô hình
này theo hướng đa dạng, nhiều chế độ sở hữu từ đó tạo ra sức cạnh tranh lành

mạnh, nhất là trong xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút dự án đầu tư cả trong và
ngoài nước.
Các khu công nghiệp còn đóng góp những lợi ích vô hình khác cho sự phát
triển của kinh tế Việt Nam như: góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, tham gia vào quá trình hợp lý hoá quy hoạch phát triển
đô thị, biến những vùng đất chậm phát triển, đời sống thấp thành những vùng đô
thị có hạ tầng cơ sở tốt, người đân có công ăn việc làm có tay nghề.
Thực tế phát triển các khu công nghiệp những năm qua cho thấy, chủ trương
của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Có thể nói đến nay các khu công
nghiệp đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ câu8s kinh tế Việt Nam,
hoạt động của nó đã và đang đem lại những kết quả đáng khích lệ cả về kinh tế và
xã hội.
III. VỀ PHÂN BỐ KHU CÔNG NGHIỆP:
Khu công nghiệp chỉ mới phát triển ở những vùng phát triển kinh tế thuận lợi
có cơ sở hạ tầng tốt gần những trung tâm công nghiệp của Việt Nam. Chủ yếu các
khu công nghiệp tập trung ở miền Nam, còn lại ở miền Bắc và miền Trung.
Và sự phân bố trong nội bộ các miền như sau:
-Đà Nẵng :3 khu
- Đồng Nai :15 khu
- Bà Rịa- Vũng Tầu : 4 khu
- Bình Dương : 7 khu
- Cần Thơ : 1 khu
- Hà Bắc : 1 khu
- Hà Nội : 5 khu
- Hải Phòng : 3 khu
- Khánh Hoà : 1 khu
- Long An : 2 khu
- Quảng Nam : 1 khu
- Quảng Ngãi : 1 khu
- Quảng Ninh : 1 khu

- Tiền Giang : 1 khu
- TP.Hồ Chí Minh : 12 khu
- Phú Thọ : 1 khu
- Vĩnh Phúc : 1 khu
- Đồng Tháp : 1 khu
- Bình Thuận : 1 khu
- Phú Yên : 1 khu
- Thanh Hoá : 1 khu
Như vậy đã có 27 tỉnh, thành phố có khu công nghiệp, đây là những vùng có
giá đất cao nhất ở Việt Nam. Điều này cho thấy giá thuê đất không ảnh hưởng đến
lựa chọn của các nhà đầu tư, đầu tư để phát triển loại hình này.
IV. VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ KINH DOANH CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
ĐẦU TƯ SẢN XUẤT KINH DOANH:
Trong các khu công nghiệp trên, chỉ có duy nhất khu công nghiệp Đài TƯ (Hà
Nội) được đầu tư 100% vốn nươc ngoài (Đài Loan) 12 KCN theo hình thức liên
doanh (Nội Bài, An Đồn với Malaixia; Deawoo Hà Nội với Hàn Quốc; Bắc Thăng
Long, Hải Phòng Nomura Loteco với Nhật, HP96 với Hồng Công, Amata với Thái
Lan, Đình Vũ với Thái Lan, Bỉ, Mỹ; khu chế xuất Tân Thuận với Đài Loan, khu
chế xuất Linh Trung với Trung Quốc; Việt Nam- Singapore với Singapore). Các
khu công nghiệp còn lại do các doanh nghiệp trong nước tự đầu tư (trong đó có cả
doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH và công ty liên doanh giữa doanh nghiệp
nhà nước và các thành phần kinh tế khác)
Các khu công nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư vốn lớn để phát triển cơ sở hạ
tầng hiện đại, các nhà đầu tư nội địa có số vốn ít hơn thường đầu tư vao các khu
công nghiệp trên các khuôn viên đã có sẵn các doanh nghiệp đang hoạt động, để
nâng cấp hạ tầng cơ sở đáp ứng yêu cầu quy hoạch mới đô thị, di dời các xí nghiệp
gây ô nhiễm ra khỏi thành phố và đầu tư vào các khu công nghiệp có quy mô nhỏ
gắn với nguồn nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản.
Còn về hình thức đầu tư sản xuất kinh doanh thì rất đa dạng bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước liên doanh với các thành phần

kinh tế khác, công ty TNHH bao gồm cả doanh nghiệp hoạt động sản xuất, doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ...
V. TỐC ĐỘ TRIỂN KHAI:
Trừ ba khu chế xuất Tân Thuận, Linh Trung, Cần Thơ được cấp giấy phép từ
năm 1991-1992 còn các khu công nghiệp khác được cấp từ năm 94 trở lại đây,
trong số này có 50% khu công nghiệp được cấp giấy phép năm 1996-1997. Nhưng
đã có 50% khu công nghiệp của cả nước đã giải phóng mặt bằng, đang triển khai
xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong một khoảng thời gian ngắn, đến năm nay, cả nước đã có 66 khu công
nghiệp nằm trên địa bàn 27 tỉnh, thành phố. Theo một số ý kiến, số lượng các khu
công nghiệp của ta chưa phải là nhiều so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên,
tốc độ phát triển của khu công nghiệp Việt Nam phải cân xứng với tốc độ phát
triển công nghiệp đất nước, vấn đề là không phải số lượng khu công nghiệp được
cấp giấy phép mà là khả năng lấp đầy khu công nghiệp bằng các dự án.
Còn về tốc độ đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tới nay cả nước
có khoảng 200 ha, bằng 32% diện tích đất thuộc khu công nghiệp, khu chế xuất
được thuê sử dụng.
Biểu đồ biểu diễn tốc độ phát triển Khu công nghiệp Việt Nam


Dưới đây là tình hình cụ thể tại một số khu công nghiệp tại vùng kinh tế trọng
điểm.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển 2 khu chế xuất và 10 khu công
nghiệp diện tích hơn 200 ha, bước đầu cho thuê được gần 270 ha đất với hơn 300
dự án, trong số đó có gần 100 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn đầu tư và điều
chỉnh tăng vốn trên 1 tỷ USD và 1400 tỷ đồng, chiếm 14,5%(tính bằng USD) so
với tổng số vốn đầu tư vào 66 khu công nghiệp trong cả nước. khu chế xuất Tân
Thuận được coi là thành công nhất Việt Nam và đã được tạp chí Corporate
Location (Anh) xếp hạng nhất Châu á năm 1999. Đã có 130 xí nghiệp đi vào hoạt
động sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất của Thành phố Hồ Chí Minh,

thu hút 45.000 lao động trực tiếp, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 2,5 tỷ
USD.
Trong khi đó các khu công nghiệp Đồng Nai đã thu hút được nguồn vốn lớn
gấp 4 lần so với Thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, tỉnh Đồng Nai đã quy hoạch
xong mạng lưới 15 khu công nghiệp, với tổng diện tích 8.100 ha, trong đó có 9 khu
công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập với tổng diện tích
là 2.346 ha, gồm các khu công nghiệp Biên Hoà 2, Amata, Loteco, Gò Giầu, Nhơn
Trạch, 1,2,3, Hố Nai, Sông Mây.
Nằm sát Thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Biên Hoà 1 tỉnh Đồng Nai
được xây dựng từ năm 1963 trên diện tích 382 ha, hiện có 76 xí nghiệp hoạt động,
trong đó 75% doanh nghiệp nhà nước. Toàn bộ khu công nghiệp này chưa có hệ
thống sử lý nước thải.
Đối diện với khu công nghiệp Biên Hoà 1 qua trục đường quốc lộ 1A là khu
công nghiệp Biên Hoà 2 rộng 376 ha do công ty xây dựng kinh doanh hạ tầng
Sonadezi của tỉnh Đồng Nai quản lý. Sonadezi đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để san
lấp mặt bằng, làm trên 200 km đường bê tông nhựa nội bộ, hệ thống cơ sở gần như

×