Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

nội dung của công tác cssk thai sản Và TRẻ SƠ SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.63 KB, 9 trang )

nội dung của công tác cssk thai sản Và TRẻ SƠ SINH:
1.1.1. Một số nội dung CSSK thai sản:
Thai nghén với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang nhiều tính chất
đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý vì thế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trong quá
trình thai nghén là một công việc quan trọng. Qúa trình này, theo quy định của
Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản [3], gồm 3
thời kỳ :
1.1.1.1. Trước sinh : thời kỳ trước sinh được tính từ khi bắt đầu có thai đến trước
khi có dấu hiệu chuyển dạ, trung bình kéo dài 38-40 tuần.
Thời kỳ này, về chăm sóc y tế, bà mẹ cần được khám thai ít nhất 3 lần vào 3
quí của thai kỳ, được tiêm vắc xin phòng uốn ván, uống bổ sung viên sắt phòng
thiếu máu.
Việc khám và quản lý thai nghén là rất cần thiết để phát hiện kịp thời các
nguy cơ như thể trạng mẹ không đảm bảo, các bệnh lý của người mẹ có sẵn cũng
như mới xuất hiện do thai nghén lần này như thiếu máu, nhiễm độc thai nghén.
Về nội dung uống bổ sung viên sắt phòng thiếu máu:
- Bà mẹ mang thai cần uống 1 viên/ ngày trong suốt thời gian có thai đến hết
6 tuần sau đẻ. Tối thiểu phải uống ít nhất trước đẻ 90 ngày.
- Việc cung cấp viên sắt cần được thực hiện ngay từ lần khám thai đầu.
Để phòng uốn ván cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, có 2 nội dung phải làm :
- Tiêm vắc xin phòng uốn ván: mũi thứ nhất từ tháng thứ tư trở đi, mũi thứ
hai cách mũi đầu ít nhất 1 tháng và chậm nhất là trước khi đẻ 1 tháng.
- Làm rốn vô khuẩn.
Ngoài những lần khám thai theo quy định, các bà mẹ mang thai cần đi khám
ngay khi có những dấu hiệu bất thường như đau đầu dữ dội; nhìn mờ; rối loạn thị
lực; phù mặt, tay chân; co giật; thai cử động không bình thường; ra máu âm đạo;
sốt cao; đau bụng...[6]
Về chề độ lao động, sinh hoạt, dinh dưỡng, bà mẹ cần được:
+ Ăn tăng cả về lượng và chất.
+ Làm việc theo khả năng, xen kẽ nghỉ ngơi, tránh làm việc nặng, nghỉ ngơi
hoàn toàn trong tháng cuối.


1.1.1.2. Thời kỳ chuyển dạ: Chuyển dạ đẻ là quá trình từ khi có dấu hiệu chuyển
dạ như ra nhầy hồng, đau bụng, ra nước ối đến khi thai và rau thai được đưa ra
khỏi đường sinh dục của người mẹ.
Một cuộc chuyển dạ đẻ kéo dài trung bình 12 giờ.
Cuộc đẻ cần được thực hiện ở cơ sở y tế có nhân viên y tế có chuyên môn
( bác sỹ, y sỹ sản nhi, nữ hộ sinh ), đảm bảo đỡ đẻ sạch, an toàn.
Có rất nhiều nguy cơ cho cả bà mẹ và trẻ được sinh trong khi chuyển dạ đẻ.
Bên cạnh là đó các nguy cơ do bệnh có sẵn trong khi mang thai đã nêu ở trên. Chuyển
dạ kéo dài (trên 12 giờ); nhiễm khuẩn ối (nước ối xanh,nâu,vàng bẩn); ra máu âm đạo
nhiều; sốt cao, ngôi thai bất thường, không sổ rau trên 30 phút, co giật là những dấu
hiệu nguy hiểm trong thời kỳ chuyển dạ cần được phát hiện và xử trí kịp thời để tránh
tử vong mẹ và thai nhi [14].
Tử vong mẹ trong thời kỳ này phần lớn do các tai biến sản khoa: băng huyết;
nhiễm trùng, đặc biệt nguy hiểm là uốn ván, nhiễm trùng nước ối; vỡ tử cung; sản
giật...[9] .
1.1.1.3. Thời kỳ hậu sản được tính từ khi thai nhi được đẻ ra cho đến 6 tuần sau đẻ,
và quan trọng nhất là 2 tuần đầu. Thời kỳ này các nguy cơ cho mẹ, liên quan đến
cuộc đẻ vẫn tồn tại như nhiễm khuẩn hậu sản; băng huyết; nhiễm độc thai nghén.
Thêm vào đó xuất hiện những vấn đề mới liên quan tới dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ
sinh [14].Thời kỳ này bà mẹ cần được nghỉ ngơi và ăn uống bồi dưỡng để phục hồi
sức khoẻ và có nhiều sữa cho con bú.
1.2.2. Một số vấn đề chăm sóc trẻ sơ sinh :
Thời kỳ sơ sinh được tính từ khi trẻ ra đời cho tới hết tuần thứ 4 sau đẻ.
Ngay sau khi sinh, trẻ cần được ủ ấm, cho bú sớm và bú sữa non. Sữa non
được tiết ra trong ba ngầy đầu sau đẻ, có hàm lượng các chất dinh dưỡng phù hợp
với nhu cầu của trẻ sơ sinh. Việc cho trẻ bú sớm sẽ kích thích tiết sữa và xuống sữa
[7].
Trong thời kỳ sơ sinh, những đặc điểm bệnh lý của trẻ khó nhận biết, dễ bị bỏ
qua, bệnh lại dễ chuyển thành nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Các dấu hiệu bệnh tật
thường gặp là các dấu hiệu khó thở, thở nhanh, yếu, không cử động, màu da bất

thường, hạ thân nhiệt hoặc sốt, nhiễm khuẩn mắt (mắt có gỉ).
Đảm bảo thân nhiệt và dinh dưỡng là những nguyên tắc cơ bản trong xử trí
ban đầu những bệnh thưồng gặp ở trẻ sơ sinh.
Các nguyên nhân gây tử vong chủ yếu ở trẻ sơ sinh là nhiễm khuẩn, đặc biệt
nhiễm khuẩn rốn; ngạt khi đẻ; chấn thương khi đẻ; đẻ non tháng; nhẹ cân; suy dinh
dưỡng; viêm ruột hoại tử; ỉa chảy; xuất huyết não, màng não ... [15]

1.2. công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ- trẻ sơ sinh ở Việt Nam hiện nay:
1.2.1. Thực trạng chăm sóc thai sản và chăm sóc trẻ sơ sinh:
Việt Nam là nước có số dân lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam á, kết cấu
dân số trẻ với tỷ lệ tăng dân cao, khoảng 1,7% mỗi năm, tỷ suất sinh thô 21,5%, số
con trung bình của một phụ nữ là 2,33 con. Điều đó có nghĩa là số phụ nữ ở độ
tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao mà phần lớn trong số đó sống ở nông thôn, miền núi
với những khó khăn trong đời sống cũng như trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế
[2].
Nhà nước đã đặt nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em luôn luôn
là một trong những ưu tiên hàng đầu. Với chủ trương đó, công tác CSSKBMTE
đã được triển khai rộng khắp trong cả nước. Tại tuyến cơ sở, công tác này được
thực hiện bởi cán bộ trạm y tế xã và đội ngũ y tế thôn bản [8].
Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện CSSKBĐ ở Việt Nam năm 1999 cho
biết 55% bà mẹ đươc khám thai, 26,5%được khám đủ 3 lần, 83,3% bà mẹ được
tiêm phòng uốn ván, 73% bà mẹ đẻ tại trạm y tế xã, phường, bệnh viện [5]. Tuy
nhiên tỷ lệ sử dụng các dịch vụ chăm sóc thai sản nhìn chung chưa cao và không
đồng đều trong cả nước, cụ thể là những nghiên cứu ở một số vùng đồng bằng cho
thấy tỷ lệ bà mẹ được khám thai khá cao. Tại Sóc Sơn, theo nghiên cứu của tác giả
Trịnh Thanh Thuỷ năm 1998: 82,4% bà mẹ đươc khám thai, 89,2% bà mẹ được
tiêm phòng uốn ván [18]. Một nghiên cứu tại Kim Bảng, Hà Nam năm 1999 của
Nguyễn Thế Vỹ và Hoàng Văn Thái cho biết tỷ lệ khám thai của các bà mẹ là
82,1%, tỷ lệ tiêm phòng uốn ván là 65,8% [19]. Điều cần lưu ý là Sóc Sơn và Kim
Bảng là địa bàn thực địa của Trường Đại học Y Hà Nội nên được hỗ trợ nhiều

chương trình chăm sóc y tế. Cũng như vậy, năm 2000, tại Quảng Xương –Thanh
Hoá, nơi triển khai dự án Lam của tổ chức Nhi Đồng Mĩ, theo báo cáo 2 năm sau
dự án của tác giả Trần Hùng Minh có đến 95% thai phụ được khám thai, 73,7%
được khám từ 3 lần trở lên, 95,8% được tiêm phòng uốn ván và 77,2% được tiêm
đủ hai mũi. Tuy nhiên báo cáo này cũng ghi nhận 21,6% ca đẻ tại nhà và tỷ lệ bà
mẹ được khám sau đẻ chỉ là 39,5% đồng thời nêu nên thực trạng kiến thức của phụ
nữ về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, trong chuyển dạ và sau sinh còn rất
hạn chế. Có khoảng 25% đến 50% trường hợp được hỏi không kể được bất cứ một
dấu hiệu hay triệu chứng nguy hiểm nào [13].
Như vậy có thể thấy nơi nào y tế được quan tâm thì chất lượng chăm sóc
SKSS được nâng cao rõ rệt, các chương trình can thiệp về SKSS đã có hiệu quả
cao và cần được đẩy mạnh và triển khai trên diện rộng. Tuy nhiên, vấn đề còn tồn
tại là tình trạng đẻ tại nhà và chăm sóc sau sinh cũng như sự thiếu hụt kiến thức
của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai.

1.2.2. Những tồn tại, nguyên nhân:
- Tỉ lệ tử vong mẹ liên quan đến thai sản còn cao.
ở nước ta tỷ lệ tử vong bà mẹ và các bệnh liên quan đến sinh đẻ tuy đã giảm
nhưng vẫn còn ở mức cao, khoảng 110- 137/100000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ chết mẹ
cũng thay đổi theo từng vùng 107/100000 ở khu vực đồng bằng sông Hồng,
200/100000 ở vùng miền núi phía Bắc, 418/100000 ở Gia Lai. Theo ước tính hàng
năm có từ 22000 –28000 bà mẹ tử vong tức là mỗi ngày có 7 bà mẹ chết do các
nguyên nhân có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Suy dinh dưỡng, thiếu máu và
các tai biến sản khoa là những nguyên nhân nổi trội trong tử vong mẹ. Theo Báo cáo
hội thảo quốc gia về chính sách chăm sóc sản khoa thiết yếu của Bộ Y tế và Quỹ
dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) năm 1999, 35% tổng số các trường hợp chết mẹ
hoàn toàn có thể phòng ngừa được và 53% có thể phòng ngừa được nếu có được sự
chăm sóc thai sản đầy đủ [5].
- Các dịch vụ chăm sóc mẹ ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sức khỏe
của người dân. Khoảng 66% phụ nữ có thai nhận được chăm sóc trước đẻ nhưng chỉ

1/3 được khám thai đủ 3 lần. Số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiêm vắc xin
dao động từ 26% ở nông thôn đến 73% ở thành thị. Tỉ lệ thai phụ được khám thai đủ 3
lần và được nhân viên y tế có chuyên môn đỡ đẻ còn thấp. Các tồn tại nói trên chủ yếu
ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Hệ quả của nó là khoảng 80% tử vong mẹ
xảy ra ở các vùng nông thôn, miền núi [17].
-Hệ thống cung cấp các dịch vụ bảo vệ sức khoẻ bà mẹ tuy đã được xây
dựng tương đối hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Cơ sở vật
chất trang thiết bị dụng cụ còn hạn chế. Phương tiện vận chuyển các cấp cứu sản
khoa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thuốc, thiếu thông tin giáo dục sức khỏe và các
phương tiện truyền thông, yếu kém trong xử lý thông tin và thiếu các chính sách
phù hợp và các hướng dẫn chi tiết cho chăm sóc trước, trong và sau đẻ. Kinh phí
của nhà nước cung cấp cho lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ thai sản rất hạn hẹp, phần
lớn dựa vào ngân sách của địa phương. Như vậy, các địa phương có điều kiện kinh

×