Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

So sánh việc đào tạo giáo viên tiếng trung tiếng việt cho người nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

XU RUI TING

SO SÁNH VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIẾNG TRUNG,
TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

XU RUI TING

SO SÁNH VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIẾNG TRUNG,
TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 8310630.01

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thiện Nam

HÀ NỘI - 2020



LỜI CẢM ƠN
Sau hơn nửa năm, từ việc lựa chọn chủ đề, tìm kiếm và sắp xếp thơng
tin, thống kê, phân tích, sau đó là chỉnh sửa và hồn thiện, quá trình viết bài
đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn của các thầy cô và các bạn, đến nay
bài luận văn đã cơ bản hồn thành. Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã giúp đỡ.
Hai năm trôi qua vội vã, điều đáng nhớ nhất là sự giúp đỡ và chỉ dạy
tận tình của PGS.TS. Nguyễn Thiện Nam. Bất cứ khi nào tôi hỏi thầy Nam
về những ý tưởng mới, thầy luôn dạy tôi cẩn thận. Trong nửa năm qua, mặc
dù gặp phải nhiều khó khăn khách quan, nhưng tôi vẫn liên tục trao đổi với
thầy Nam. Trong mọi cuộc trao đổi, thầy Nam đều đưa ra những gợi ý thích
hợp cho tơi. Trong q trình viết luận văn, thầy Nam ln chỉ ra những
điểm cịn thiếu sót của bài viết một cách sâu sắc và đưa ra những gợi ý chi
tiết và khả thi. Trong bước đường sắp tới tác phong học tập nghiêm túc và
sự siêng năng theo đuổi học thuật của thầy sẽ giúp tôi trở nên vững vàng
hơn.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trực tiếp
tham gia giảng dạy cho tơi, chính nhờ sự dạy dỗ nghiêm khắc, qn mình
và chất lượng của thầy cơ đã giúp tơi tiếp thu một cách đầy đủ và nhanh
chóng kiến thức chun mơn trong suốt 2 năm học.
Ngồi ra, tôi xin cảm ơn các bạn cùng lớp, mỗi bạn có những điểm
sáng khác nhau, tơi rất thật vinh dự khi được sống và học tập tích cực trong
một tập thể như vậy.


Cuối cùng tôi xin cảm ơn tất cả các thầy cô đã tham gia phản biện và
bảo vệ luận văn của tôi, các thầy cô đã cho tôi điểm lại kết quả 2 năm học,
cho tôi hiểu được hướng phát triển trong tương lai. Tôi sẽ nỗ lực bền bỉ để
khơng ngừng sửa đổi và hồn thiện bản thân. Xin cảm ơn tất cả!



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản Luận văn So sánh việc đào tạo giáo viên
tiếng Trung, tiếng Việt cho người nước ngồi là phần nghiên cứu của riêng
tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thiện Nam mà trước đó chưa
có bất kỳ tác giả nào cơng bố.
Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn có tính xác
thực và nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả
XU RUI TING


MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................1
2 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................2
3 . Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ...................3
3.1.Phương pháp nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu...........................3
3.2.Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................3
3.3.Nhiệm vụ của đề tài ..........................................................................4
4 . Đóng góp của luận văn ........................................................................4
5 . Bố cục của luận văn .............................................................................5
Chƣơng 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LÝ THUYẾT VỀ DẠY TIẾNG VÈ
LỊCH SỬ VẤN ĐỂ ....................................................................................6
1.1 Khái Niệm ............................................................................................6
1.1.1. Dạy tiếng là gì ..................................................................................6

1.1.2.

Về khái niệm đào tạo giáo viên dạy tiếng ..................................6

1.1.3.

Thế nào là ngôn ngữ thứ 2 .........................................................8

1.1.4.

Thế nào là dạy ngôn ngữ thứ hai...............................................8

1.1.5.

Sự khác nhau giữa ngôn ngữ thứ 2 (ngoại ngữ) với tiếng mẹ đẻ


......................................................................................................9
1.1.6.

Việc học hai ngôn ngữ này (tiếng mẹ đẻ và Ngôn ngữ thứ 2

giống khác thế nào) .................................................................................10
1.2

Lịch sử đào tạo giáo viên dạy tiếng trên thế giới .................. 11

1.2.1.

Các ví dụ như đào tạo giáo viên dạy tiếng Anh ....................... 11


1.2.2.

Lịch sử đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Trung ở Trung Quốc
....................................................................................................13

1.2.3.

Lịch sử đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Việt ở Việt Nam ....16

1.2.4.

Lịch sử các phương pháp dạy tiếng .........................................20

Chƣơng 2: TÌNH HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY
TIẾNG TRUNG CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI .................................27
2.1. Bối cảnh.............................................................................................27
2.2. Hiện trạng .........................................................................................29
2.2.1.Yêu cầu về đào tạo giáo viên ..........................................................29
2.2.2.Khóa học chuyên ngành .................................................................32
2.2.3. Cách Phương pháp đào tạo cho giáo viên tiếng Trung ...............36
2.2.4. Thời gian đào tạo ...........................................................................40
2.2.5. Hiện trạng đào tạo giáo viên .........................................................41
2.2.6. Chứng chỉ .......................................................................................45
Chƣơng 3 : TÌNH HÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY
TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI ......................................48
3.1. Bối cảnh.............................................................................................48


3.2. Hiện trạng .........................................................................................52

3.2.1.Yêu cầu về đào tạo giáo viên ..........................................................52
3.2.2.Khóa học chuyên ngành .................................................................57
3.2.3.Cách thức đào tạo giáo viên ...........................................................64
3.2.4. Thời gian đào tạo ...........................................................................65
3.2.5. Hiện trạng đào tạo giáo viên .........................................................66
3.2.6. Chứng chỉ .......................................................................................67
Chƣơng 4: SO SÁNH VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY
TIẾNG CỦA HAI NƢỚC ......................................................................69
4.1. Kết quả so sánh, tổng kết. ...............................................................69
4.2. Những thách thức cả hai quốc gia phải đối mặt ...........................75
4.2.1. Chú trọng đào tạo tổng hợp tố chất và năng lực ..........................76
4.2.2. Hình thức đào tạo năng lực chun mơn .....................................79
4.3. Các vấn đề luận văn đang bỏ ngỏ ...................................................82
KẾT LUẬN ..............................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................86
PHỤ LỤC .................................................................................................86



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kể từ khi thực hiện cải cách và chính sách mở cửa, nền kinh tế
Trung Quốc đã phát triển một cách nhanh chóng, kéo theo đó nhu cầu của
các chuyên gia và học giả tìm hiểu về Trung Quốc cũng tăng lên. Trong
bối cảnh nhu cầu này, số lượng người học tiếng Trung đã tăng lên đáng
kể, tạo ra sự bùng nổ xu hướng học tiếng Trung trên toàn thế giới. Cũng
vào thời điểm này, chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu thúc đẩy việc quảng
bá tiếng Trung như một ngôn ngữ quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu quảng bá
tiếng Trung như một môn ngoại ngữ, bắt đầu từ năm 2007, Trung Quốc
đã thí điểm thạc sĩ Giáo dục Quốc tế Hán ngữ tại 24 trường đại học trọng

điểm.”
Khi nhu cầu về giáo viên Hán ngữ (tiếng Trung) tăng lên, số lượng
các cơ sở đào tạo giáo viên cũng tăng theo. Nhưng chúng ta cần đảm bảo
rằng khi số lượng tăng chất lượng cũng phải tăng. Bằng cách bồi dưỡng
các giáo viên tiếng Trung có năng lực, phát triển tư chất và năng lực của
giáo viên một cách tốt hơn, chúng ta mới có thể đảm bảo giáo dục Hán
ngữ đạt chất lượng cao, chúng ta mới có thể đào tạo giáo viên tiếng Trung
một cách hệ thống hóa, thực tế hóa và chun nghiệp hóa. Bởi vì giáo
viên Hán ngữ dự bị là chủ thể để cung cấp cho giáo dục tiếng Trung có
thể đào tạo ra những học sinh chất lượng cao, nên chúng ta cần tập trung

1


vào các chương trình đào tạo các giáo viên dự bị được xây dựng bởi các
tổ chức giáo dục đào tạo.
Chúng tôi chọn đề tài《So sánh việc đào tạo giáo viên tiếng Trung,
tiếng Việt cho người nước ngồi》, vì việc đào tạo giáo viên tiếng Trung
như một ngoại ngữ và việc đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Việt cho
người nước ngồi là hai việc có nhiều điểm giống nhau nhưng cũng có
một số sự khác biệt. Vì vậy chúng tôi muốn làm đề tài này để so sánh hai
nội dung vừa đề cập ở trên.
Ngoài ra, trước đây ở Trung Quốc tôi cũng đã học chuyên ngành
giáo dục Hán ngữ quốc tế (giảng dạy tiếng Trung cho người nước ngoài),
sau khi tốt nghiệp đại học tại Trung Quốc sang Việt Nam học tiếng Việt
và Việt Nam học. Một quá trình kép đã cho phép tác giả tìm hiểu một
cách bài bản và chuyên sâu về phương pháp đào tạo giáo viên giảng dạy
tiếng Trung cho người có ngơn ngữ mẹ đẻ không phải là tiếng Trung và
đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Việt cho người có ngơn ngữ mẹ đẻ
khơng phải là tiếng Việt. Do đó, chúng tơi sẽ có những lợi thế nhất định

khi nghiên cứu lĩnh vực này. Chúng tôi cũng hy vọng rằng đề tài nghiên
cứu này có thể đóng góp một phần nào đó để nâng cao chất lượng giáo
viên chuyên nghiệp dạy tiếng của hai nước.
2 . LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về các cơ sở giáo dục và đào
tạo giáo viên nói chung. Cũng có nhiều bài viết về giáo dục Hán ngữ
quốc tế tại Trung Quốc và giảng dạy tiếng Việt đối ngoại tại Việt Nam.
2


Tuy nhiên, có rất ít bài viết về đào tạo giáo viên tiếng Việt như một giáo
viên dạy ngoại ngữ ở Việt Nam, và bằng cách so sánh đào tạo giáo viên
giảng dạy nước ngoài giữa Trung Quốc và Việt Nam để thảo luận về vấn
đề này là đặc biệt hiếm.
3 . ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ
CỦA ĐỀ TÀI
3.1.Phƣơng pháp nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích chương trình
giảng dạy ngơn ngữ của hai quốc gia, tổng hợp các tài liệu nghiên cứu
của việc giảng dạy tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Trung, so sánh đối chiếu
các số liệu liên quan đến lĩnh vực này. Ngoài ra luận văn còn sử dụng
phương pháp thống kê, lập bảng biểu để trình bày một cách rõ ràng hơn
về chương trình đào tạo.
Chủ yếu nghiên cứu quy trình và phương pháp đào tạo giáo viên
giảng dạy tiếng Trung cho người nước ngoài và việc đào tạo giáo viên
giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này chủ yếu chọn giáo viên giảng dạy tiếng Trung cho
người nước ngoài và việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài làm
đối tượng so sánh nghiên cứu; khảo sát về bối cảnh, hiện trạng và thiết

lập chương trình giảng dạy, mục tiêu đào tạo, v.v…, và tóm tắt sự khác
biệt giữa hai bên.

3


3.3.Nhiệm vụ của đề tài
Trước hết, luận văn tập hợp các tư liệu có hệ thống, để có một nhận
thức sâu sắc hơn trong quá trình về việc đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng
Việt và tiếng Trung cho người nước ngồi. Thứ hai, luận văn đối chiếu so
sánh tình hình về việc đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng cho người nước
ngồi. Phân tích các chương trình giáo dục về việc giảng dạy tiếng có thể
cung cấp một cái nhìn tổng quan về mơi trường giáo dục trong hai lĩnh
vực chuyên nghiệp này ở Trung Quốc và Việt Nam, và giúp tìm ra
phương pháp để việc đào tạo nhân tài trở lên hiện đại hóa và hợp lý hóa
hơn .
4 . ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Trung Quốc và Việt Nam có những cách độc đáo để quảng bá ngơn
ngữ của mình trên khắp thế giới. Hai nước cần trao đổi kinh nghiệm và
thành tựu đã được tích lũy về mặt này, nhưng cả hai bên đều có những
vấn đề và thiếu sót chưa được giải quyết. Chỉ có so sánh và phân tích hai
bên mới có thể học hỏi lẫn nhau và cùng cải thiện, ngành nghề này mới
có thể theo kịp xu hướng của thời đại trong sự phát triển của tương lai và
đóng vai trị lớn hơn.
Nghiên cứu này so sánh và phân tích việc đào tạo giáo viên Hán
ngữ quốc tế (giảng dạy Hán ngữ cho người nước ngoài) và việc giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngồi. Mục đích cung cấp thêm một tài liệu
tham khảo về hướng đi này, đưa ra một cái nhìn tổng quan về công việc
đào tạo giáo viên tiếng Việt và tiếng Trung, nhằm thúc đẩy việc học tập
4



lẫn nhau, gợi mở sự hợp tác, hy vọng góp phần đưa đến sự phát triển hơn
của hai ngành này.
5 . BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ
lục luận có nội dung gồm 4 chương:
Chương 1 Một số khái niệm lý thuyết về dạy tiếng và lịch sử vấn đề
Chương 2 Tình hình đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Trung cho
người nước ngồi
Chương 3 Tình hình đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài
Chương 4 So sánh việc đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng của hai nước

5


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LÝ THUYẾT VỀ DẠY
TIẾNG VÀ LỊCH SỬ VẤN ĐỂ
1.1 Khái Niệm
1.1.1. Dạy tiếng là gì
Dạy tiếng (language teaching) là một phương pháp hoạt động dạy
học có mục đích, có kế hoạch cụ thể, là một bộ phận quan trọng của giáo
dục. Dạy tiếng được coi là một hoạt động dạy học nhằm trau dồi và nâng
cao năng lực ngôn ngữ của người được giáo dục về các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết.
Mục tiêu chính của việc dạy tiếng là đào tạo và nâng cao năng lực
ngôn ngữ của người được giáo dục. Khái niệm "năng lực ngôn ngữ" được
hiểu là năng lực sử dụng ngơn ngữ để nghe, nói, đọc và viết, hoặc khả
năng sử dụng tiếng nói, lời văn để giao tiếp.

1.1.2. Về khái niệm đào tạo giáo viên dạy tiếng
Một đặc trưng của nghề dạy tiếng là chúng ta phải tiếp xúc với hàng
loạt đối tượng người học khác nhau, với những điều kiện học, mục đích,
lứa tuổi, quốc tịch, tiếng mẹ đẻ... khác nhau. Nói cách khác, chúng ta phải
chú ý đến từng cá nhân một với những bối cảnh khác nhau. Như vậy, về
khía cạnh lý thuyết, chúng ta phải chú ý đến toàn bộ đối tượng học nhưng
đồng thời cũng phải chú ý đến từng cá nhân.
Thực tế là trên thế giới đã có hẳn ngành dạy tiếng (language
teaching) thuộc ngôn ngữ học ứng dụng (applied linguistics) và rất nhiều

6


nhà ngôn ngữ học ứng dụng đã xây dựng lý thuyết về giảng dạy và học
tập ngôn ngữ thứ hai.
Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng và dạy tiếng của nhóm Richard, J.
nhà xuất bản Longman cho rằng: “Đào tạo giáo viên (teacher education)
là một lĩnh vực nghiên cứu đề cập tới sự chuẩn bị và phát triển nghề
nghiệp của các giáo viên [41, tr.374]”. Trong lĩnh vực teachear education,
thỉnh thoảng người ta phân biệt hai khái niệm: teachear training
development - phát triển giáo viên và teacher training - đào tạo giáo viên.
Teacher training đề cập tới những kỹ năng giảng dạy cơ bản trong
chương trình tiền giảng dạy (preservice education), đặc biệt là đối với
những giáo viên mới bước vào nghề (novice teachers). Những kỹ năng
này bao gồm những bình diện của việc giảng dạy như việc chuẩn bị kế
hoạch bài giảng, việc quản lý lớp học, việc dạy 4 kỹ năng (nghe, nói đọc,
viết), các kỹ thuật giới thiệu và rèn luyện các đơn vị ngữ liệu, kỹ thuật
chữa lỗi...
Teacher development chú ý đến giai đoạn sau khi đã qua giai đoạn
đào tạo đầu tiên và đề cập tới sự phát triển nghề nghiệp của các giáo viên,

đặc biệt là các chương trình tập huấn dành cho các giáo viên đang giảng
dạy (Inservice Education)”. Chương trình này tập trung vào việc tự đánh
giá của giáo viên, việc các giáo viên khảo sát về những bình diện khác
nhau của tiến trình giảng dạy và việc kiểm tra cách tiếp cận đối với tiến
trình giảng dạy của giáo viên. Chương trình Inservice programmes dành
cho các giáo viên dạy tiếng cũng có thể được gọi là “Continuing
7


Education for Language Teachers (CELT) - Đào tạo tiếp tục đối với giáo
viên dạy tiếng.
1.1.3. Thế nào là ngôn ngữ thứ 2
Trước khi thảo luận về tên của các môn học, đầu tiên chúng ta phải
tìm ra một vài khái niệm cơ bản về ngôn ngữ liên quan đến dạy tiếng.
Ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ thứ nhất và ngôn
ngữ thứ hai là hai khái niệm được phân biệt theo thứ tự mà con người tiếp
thu ngôn ngữ, đồng thời chúng cũng là một cặp thuật ngữ được sử dụng
nhiều nhất trong lý thuyết giảng dạy ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thứ nhất/ngôn ngữ đầu tiên (trong một mức độ nào đó là
tiếng mẹ đẻ) chính là ngôn ngữ mà một người tiếp xúc và tiếp thu lần đầu
tiên sau khi sinh ra; ngôn ngữ thứ hai đề cập đến một ngôn ngữ khác mà
mọi người học và sử dụng sau khi có được ngơn ngữ đầu tiên. Ngôn ngữ
thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai được phân biệt hồn tồn ngay từ khi người
học học ngơn ngữ, ngôn ngữ thứ hai không giống với ngôn ngữ thứ nhất
hoặc ngơn ngữ chính thức được pháp luật quy định ở một số quốc gia đa
ngơn ngữ.
Tóm lại, "ngơn ngữ thứ hai" có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng
của "ngôn ngữ thứ hai" đề cập đến bất kỳ ngơn ngữ nào được học và sử
dụng sau khi có được ngôn ngữ đầu tiên, bao gồm cả ngoại ngữ; nghĩa
hẹp của "ngôn ngữ thứ hai" được lý giải bằng hai cách: một là đề cập đến

ngôn ngữ mẹ đẻ khác với ngôn ngữ đầu tiên hoặc ngôn ngữ của các dân
tộc khác trong nước không bao gồm ngoại ngữ; cịn lại là đề cập đến
ngơn ngữ đích được học trong mơi trường sử dụng ngơn ngữ đó, bao gồm
một số ngoại ngữ.
1.1.4. Thế nào là dạy ngôn ngữ thứ hai
Dạy tiếng có hai hình thức: dạy ngơn ngữ thứ nhất hoặc dạy tiếng
8


mẹ đẻ (first language teaching/mother tongue teaching) và dạy ngôn ngữ
thứ hai (second language teaching). Trong luận văn này, chúng tôi tập
trung vào việc dạy ngôn ngữ thứ hai.
Dạy ngôn ngữ thứ hai (second language teaching) là dạy cho người
được giáo dục nắm vững kiến thức và cách sử dụng ngôn ngữ thứ hai trên
cơ sở đối tượng đã tiếp nhận giáo dục hoặc đã có nền tảng ngơn ngữ mẹ
đẻ. Đây là cách dạy loại ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ. Cũng được
gọi là dạy ngôn ngữ thứ hai. Mục tiêu của dạy ngôn ngữ thứ hai là đào tạo
học sinh sử dụng ngôn ngữ thứ hai để giao tiếp bằng ngơn ngữ nói và
viết.
1.1.5. Sự khác nhau giữa ngôn ngữ thứ 2 (ngoại ngữ) với tiếng
mẹ đẻ
Tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được phân
biệt theo ranh giới quốc gia. Tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ của đất nước, dân
tộc. Ngoại ngữ là tiếng nước ngồi. Trong hồn cảnh bình thường, tiếng
mẹ đẻ là ngôn ngữ đầu tiên của con người, nhưng đối với một số trẻ em
di cư, ngôn ngữ đầu tiên họ tiếp xúc và tiếp thu sau khi sinh ra có thể
khơng phải là tiếng mẹ đẻ mà là ngơn ngữ của quốc gia cư trú. Vì vậy,
khơng thể hồn tồn đánh đồng hai khái niệm ngơn ngữ thứ nhất và tiếng
mẹ đẻ. Ngược lại, ngôn ngữ thứ hai không nhất thiết phải là ngoại ngữ.


9


1.1.6. Việc học hai ngôn ngữ này (tiếng mẹ đẻ và Ngôn ngữ thứ 2
giống khác thế nào)
Nhiều người tin rằng nếu chúng ta có thể học ngoại ngữ, chúng ta sẽ
có nhiều cơ hội cạnh tranh hơn. Vậy, chúng ta học ngôn ngữ như thế nào?
Đối tượng nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này là thụ đắc ngôn ngữ.
Thụ đắc ngôn ngữ thứ nhất (First Language Acquis-tion, FLA) nghiên
cứu vấn đề trẻ em học tiếng mẹ đẻ, còn được gọi là "tiếp thu tiếng mẹ đẻ".
Theo truyền thống, thụ đắc ngôn ngữ thứ hai (Second Language
Acquisition, SLA) là việc tiếp thu tất cả các ngôn ngữ khác với ngôn ngữ
mẹ đẻ, đối tượng nghiên cứu thông thường là người lớn.
Trong việc thụ đắc ngôn ngữ thứ nhất, có một thời kỳ quan trọng (từ
sơ sinh đến tuổi vị thành niên) do các yếu tố sinh lý quyết định, sau thời
kỳ quan trọng này, việc thụ đắc ngôn ngữ khó đạt đến mức bình thường.
Trong việc thụ đắc ngơn ngữ thứ hai, đối với câu hỏi có tồn tại giai đoạn
quan trọng hay không, các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau.
Các học giả đồng ý với giả thuyết thời kỳ quan trọng có những ý kiến
khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời kỳ quan trọng cũng
như các phương diện khác ảnh hưởng đến lĩnh vực ngơn ngữ.
Ngồi ra, trong luận văn này, chúng tôi sử dụng "thu nhận"
(acquisition) và "học tập"(learning) như các thuật ngữ có thể thay thế
cho nhau, tất nhiên, trong lý thuyết của một số nhà nghiên cứu, có sự
phân biệt chặt chẽ giữa hai thuật ngữ này.

10


1.2 Lịch sử đào tạo giáo viên dạy tiếng trên thế giới

1.2.1. Các ví dụ như đào tạo giáo viên dạy tiếng Anh
Nghiên cứu của nước ngoài về giáo dục giáo viên ngôn ngữ thứ hai
chủ yếu tập trung ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Các học giả nước ngồi
có tương đối ít nghiên cứu có hệ thống về giáo viên ngôn ngữ thứ hai,
nhưng nội dung tương đối phức tạp, chủ yếu tập trung vào việc học tập và
phát triển của giáo viên, nhận thức của giáo viên và các vấn đề giáo dục
và đào tạo.
Vào những năm 1960, với sự mở rộng nhanh chóng của tiếng Anh,
mơn học giáo dục ngôn ngữ thứ hai bắt đầu được thành lập. Trong suốt
những năm 1970, thế giới giảng dạy ngôn ngữ thứ hai đã trải qua sự mất
định hướng và bối rối trong suy nghĩ. Trong việc thảo luận về phương
pháp giảng dạy, mọi người không đạt được sự đồng thuận nào. Rõ ràng,
nghiên cứu dạy học lúc bấy giờ đã bỏ qua vai trò quan trọng của nhận
thức giáo viên trong hoạt động dạy học, không coi nhận thức của giáo
viên là yếu tố hàng đầu trong quá trình dạy học. Nhận thức của giáo viên
là một quá trình rất phức tạp, miêu tả kinh nghiệm tích lũy của giáo viên
thơng qua q trình học tập và phát triển là chưa đủ.
Vào những năm 1980, người ta cuối cùng đã nhận ra rằng trong q
trình giảng dạy ngơn ngữ thứ hai, yếu tố giáo viên vốn dĩ là vô cùng quan
trọng này thường bị bỏ qua. Người ta chuyển sang một góc nhìn rộng hơn,
sử dụng diễn giải và sinh thái học để hiểu sự phức tạp về mặt nhận thức
của việc giảng dạy, nhấn mạnh rằng giảng dạy là một loại hiểu biết, cách
11


lí giải của cá nhân giáo viên về các sự kiện giảng dạy dựa trên nền tảng là
môi trường trải nghiệm của họ, vì thế sự hiểu biết, sự tinh tế và phức tạp
của mỗi người là khác nhau.
Các quan niệm giáo dục của giáo viên nước ngoài cũng đã trải qua
một loạt thay đổi dưới sự ảnh hưởng của cách nhìn nhận về ngoại ngữ và

giảng dạy ngoại ngữ. Trong các tài liệu về giáo dục ngôn ngữ thứ hai ở
nước ngoài, khái niệm giáo dục giáo viên đã trải qua ba giai đoạn phát
triển: "đào tạo giáo viên", "giáo dục giáo viên" và "phát triển giáo viên".
Đây không chỉ là sự thay đổi về mặt chuyên môn, mà còn là sự thay đổi
và làm sâu sắc thêm cách hiểu của mọi người về khái niệm nghề giáo.
Với sự thay đổi về nhận thức, cộng đồng giáo dục ngoại ngữ hiện
nay đã chuyển từ tập trung vào cách đào tạo và giảng dạy giáo viên, dần
chuyển sang tập trung vào cách giáo viên học và phát triển, từ đó, họ đã
tổng kết lý thuyết mơ hình học tập của giáo viên ngoại ngữ: (1) Dựa trên
chủ nghĩa hành vi học bắt chước: con người với tư cách là một hệ thống
đầu vào - đầu ra; (2) Học tập không theo định hướng của con người: con
người với tư cách là tác nhân tự chủ; (3) Học tập mang tính xây dựng dựa
trên lý thuyết nhận thức: con người là chủ thể xây dựng tri thức; (4) Dựa
trên học tập xây dựng lý thuyết văn hóa xã hội: con người với tư cách là
thành viên của xã hội.

12


1.2.2. Lịch sử đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Trung ở Trung
Quốc
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về các cơ sở giáo dục và đào
tạo giáo viên. Các tạp chí học thuật cũng đã xuất bản nhiều bài viết về
đào tạo giáo viên tiếng Trung cho người nước ngoài và việc đào tạo giáo
viên giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, nhưng ở Trung Quốc và
Việt Nam, vấn đề này vẫn là một nội dung mới đối với các luận văn thạc
sĩ và luận án tiến sĩ. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhu cầu giáo viên
tiếng Trung và tình hình đào tạo hiện nay. Trong "Phân tích sơ bộ tình
trạng chun mơn tiến thối lưỡng nan và bồi dưỡng nhân tài của việc
giảng dạy tiếng Trung cho người nước ngoài [51, tr.40]", Li Yuanyuan đã

chỉ ra những vấn đề và tình huống khó xử hiện nay khi dạy tiếng Trung
như một ngôn ngữ nước ngồi thơng qua phân tích so sánh.
Zhang Jue tin rằng việc cấp bằng thạc sĩ giáo dục quốc tế Hán ngữ là
một biện pháp kịp thời và sáng tạo để giải quyết tình trạng thiếu giáo viên
dạy tiếng Trung. Tác giả cũng đề xuất thêm các biện pháp cải cách cho hệ
thống giảng dạy của sinh viên nước ngoài và đào tạo sinh viên nước
ngoài trong các trường đại học. Chen Shen và Xue Xinhua đã giới thiệu
sự phát triển việc đào tạo giáo viên dạy tiếng Trung trong bài viết "Cấu
trúc khái niệm đào tạo giáo viên ngôn ngữ quốc tế Trung Quốc [43,
tr.28]", tiến hành các cuộc thảo luận quan trọng về chương trình đào tạo
truyền thống của giáo viên tiếng Trung, ủng hộ việc "giải cấu trúc" mơ
hình truyền thống vượt qua phạm vi quốc gia.
13


Nghiên cứu về việc đào tạo bằng thạc sĩ giáo dục Hán ngữ quốc tế.
Trong phần "Thảo luận về các mục tiêu đào tạo và ý tưởng giảng dạy cho
Thạc sĩ giáo dục Hán ngữ quốc tế [50, tr.1]”, Bài "Thảo luận về các
nguyên tắc và thực hành của thạc sĩ giáo dục Hán ngữ quốc tế"của Li
Quan đã phân tích phương án bồi dưỡng nhân tài của chương trình đào
tạo thạc sĩ Hán ngữ và nền tảng kiến thức của thí sinh trong những năm
gần đây, tác giả đã ủng hộ sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành trong
quá trình đào tạo thạc sĩ Hán ngữ giáo dục quốc tế. Nguyên tắc nhấn
mạnh như nhau về chuyển giao kiến thức và đào tạo kỹ năng. Cần nhấn
mạnh rằng trong quá trình thực hiện chương trình hướng dẫn, trong việc
giảng dạy các khóa học cụ thể, việc dạy chữ Hán và văn hóa Trung Quốc
cần được tăng cường đặc biệt, và cần cố gắng phát triển khả năng giảng
dạy đa văn hóa. Feng LiPing đưa ra những hiểu biết sâu sắc về bốn khía
cạnh cấu trúc năng lực của học sinh, nền tảng kiến thức, tiêu chuẩn đánh
giá và thực tập ở nước ngoài [46, tr.114].

"Nghiên cứu về chất lượng giáo viên Hán ngữ đối ngoại" của Wang
Xiaoyin nghiên cứu tình hình hiện tại và các vấn đề mà giáo viên tiếng
Trung phải gặp và chỉ ra những phẩm chất đạo đức và tố chất nghề
nghiệp mà giáo viên tiếng Trung cần phải có một cách tồn diện và cụ
thể.
Sự phát triển của việc giảng dạy tiếng Trung như một ngoại ngữ
thực sự bắt đầu sau khi thành lập Trung Quốc Mới. Kể từ khi tiếp nhận
lứa sinh viên nước ngoài đầu tiên vào năm 1950, việc giảng dạy tiếng
14


Trung như một ngoại ngữ của Trung Quốc đã trải qua hơn nửa thế kỷ.
“Năm 1965, Chính phủ Việt Nam cử 2.000 lưu học sinh sang Trung Quốc.
Bộ Giáo dục Đại học Trung Quốc đã giao cho Học viện Ngôn ngữ Bắc
Kinh cung cấp 22 đơn vị đảm nhận nhiệm vụ đào tạo tiếng Trung dự bị
cho nhóm lưu học sinh này vào mùa hè năm 1965, trừ nhiều cơ sở chưa
có kinh nghiệm dạy ngoại ngữ tiếng Trung. Các giáo viên của trường đã
tổ chức tập huấn dạy tiếng Trung như một ngoại ngữ. Điều này đã đóng
một vai trò rất tốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của việc giảng dạy
tiếng Trung như một ngoại ngữ” [42, tr. 39].
Hiện cả nước có hơn 400 trường cao đẳng và đại học giảng dạy tiếng
Trung như một ngoại ngữ đến cuối năm 2002 đã có hơn 63.000 sinh viên
nước ngoài. Ngoài ra, nhiều trường đã thành lập các trường cao đẳng
trung học độc lập, đảm bảo tổ chức thực tế cho việc giảng dạy và nghiên
cứu khoa học. Chuyên ngành "Ngôn ngữ Trung Quốc" kéo dài 4 năm với
mục đích giảng dạy ngơn ngữ thứ hai được triển khai thí điểm tại Học
viện Ngơn ngữ Bắc Kinh vào năm 1975. Đối tượng đào tạo là giáo viên
tiếng Trung, dịch giả và các tài năng nghiên cứu ngôn ngữ Trung Quốc.
Sau đó, Đại học Nam Đài, Đại học Nam Kinh, Đại học Phúc Đán và các
trường cao đẳng, đại học khác cũng đã thành lập chuyên ngành này, hiện

đã có hơn 30 trường cao đẳng và đại học trên cả nước mở chuyên ngành
đào tạo cử nhân tiếng Trung.
Việc cử giáo viên trong nước và đào tạo giáo viên nước ngoài tăng
lên. Với sự phát triển mạnh của việc giảng dạy tiếng Trung ở nước ngoài,
15


ngày càng có nhiều trường cao đẳng và đại học ở nước ngoài yêu cầu cử
giáo viên dạy tiếng Trung, và ngày càng có nhiều giáo viên dạy tiếng
Trung được cử ra nước ngoài bằng Hanban hoặc trao đổi giữa các trường.
Ngày càng có nhiều giáo viên tiếng Trung mang quốc tịch nước ngoài
được đào tạo trong và ngoài đất nước Trung Quốc.
1.2.3. Lịch sử đào tạo giáo viên giảng dạy tiếng Việt ở Việt Nam
Năm 1955, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (ĐHTHHN) bắt đầu
dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam. Sau đó, ngày 18 tháng 12 năm 1968,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHKHXH & NV) có
quyết định thành lập Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt.
Như vậy, quá trình “giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam cho
người nước ngồi tại các trường đại học Việt Nam đã có 63 năm lịch sử.
Trong q trình đó , đã có nhiều thay đổi lớn về nhiều phương diện. Đến
nay, chúng ta đã có một q trình đa dạng và bền vững về đào tạo tiếng
Việt và Việt Nam học cho người nước ngồi khơng chỉ tại Trường
ĐHKHXH & NV và trên tồn lãnh thổ Việt Nam mà cịn mở rộng ra trên
tồn thế giới”.
So với q trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ thì việc
đào tạo giáo viên tiếng Việt như một ngoại ngữ hầu như chưa có lịch sử
và chưa được chú ý đúng với tầm mức của vị trí tiếng Việt như một ngoại
ngữ. Hơn lúc nào hết, công việc này cần được xem xét một cách nghiêm
túc và cần có những giải pháp thỏa đáng. Giảng dạy Tiếng Việt như một
ngoại ngữ là một công việc hết sức có ý nghĩa và cần thiết trong thời đại

16


×