Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện đồng phú, tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.99 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HẢI LINH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐỒNG PHÚ,
TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HẢI LINH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐỒNG PHÚ,
TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chun ngành : Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Đinh Thế Định

NGHỆ AN,2017



2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tơi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Lãnh đạo nhà trường, Phịng đào tạo Sau đại học, Khoa Chính trị
trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tơi được học tập,
nghiên cứu nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác
giáo dục chính trị trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình
giảng dạy, giúp đỡ chúng tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, nhà giáo PGS. TS Đinh Thế Định - người hướng dẫn khoa học đã
tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
Chân thành cảm ơn lãnh đạo, chuyên viên Ban Tổ chức Huyện ủy; lãnh
đạo Huyện ủy, UBND huyện, các ban Đảng thuộc Huyện ủy, Trung tâm
Chính trị huyện, Phịng Nội vụ, Văn phịng HĐND – UBND huyện Đồng
Phú, tỉnh Bình phước; Đảng ủy, UBND các xã, thị trấn thuộc huyện Đồng
Phú, tỉnh Bình phước đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc động viên,
khuyến khích tơi trong q trình học tập cũng như nhiệt tình cung cấp số
liệu và tư vấn khoa học cho tơi trong q trình hồn thiện đề tài.
Mặc dù bản thân đã nổ lực cố gắng, nhưng luận văn khơng thể tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy,
cơ giáo và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Long An, tháng năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải Linh



3
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA

01

LỜI CẢM ƠN

02

MỤC LỤC

03

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

04

DANH MỤC BẢNG

05

MỞ ĐẦU

06

NỘI DUNG

13


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ

13

CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

13

1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay

30

Chương 2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

38

VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1. Những nhân tố tác động đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ 38
chốt cơ sở ở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước
2.2. Thực trạng về cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở 55
huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN 65
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ (XÃ, THỊ TRẤN) Ở HUYỆN ĐỒNG PHÚ,
TỈNH BÌNH PHƯỚC
3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, thị trấn) ở huyện 65
Đồng Phú, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay
3.2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở


71

ở huyện Đồng phú, tỉnh Bình phước
KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


4
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1

CBCC

:

Cán bộ chủ chốt

2

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


7

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

8

HTCT

:

Hệ thống chính trị

13

LLCT

:

Lý luận chính trị

14

Mặt trận tổ quốc

:


Mặt trận tổ quốc

15

Ủy ban nhân dân

:

Ủy ban nhân dân


5
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Trang

1.

Bảng 2.1 Đơn vị hành chính huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước

2.

Bảng 2.2 Cơ cấu CBCC cấp cơ sở ở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình
Phước, năm 2015

3.

Bảng 2.3 Tuổi đời CBCC cấp cơ sở ở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình
Phước, năm 2015


4.

Bảng 2.4 Trình độ văn hóa, chun mơn CBCC cấp cơ sở ở huyện
Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, năm 2015

5.

Bảng 2.5 Trình độ văn hóa, chun mơn CBCC cấp cơ sở ở huyện
Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, năm 2015

41
44

45

47

50


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ và công tác cán bộ luôn là “khâu then chốt trong vấn đề then
chốt” của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Do vậy, xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng vững mạnh
là cơng việc hết sức quan trọng nhất trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đảng ta cũng đã khẳng định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị, có phẩm
chất cách mạng, có năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn là việc làm vừa cơ

bản, vừa cấp bách và là công tác thường xun và lâu dài” Chính quyền
vững mạnh, có hiệu lực phải là một Chính quyền làm cho mọi công dân đều
biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, Chính quyền đó “phải
dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và chịu sự kiểm soát
của nhân dân”. Sinh thời một trong những mối quan tâm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ phù
hợp, thấm nhuần tinh thần “dân là chủ, cán bộ là đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một khi đã có đường lối cách
mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết: “Muốn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi
cơng việc”.
Thấm nhuần tư tưởng đó trong sự nghiệp cách mạng hơn 85 năm qua,
Đảng ta luôn đề ra chiến lược, nghị quyết để xây dựng, đào tạo cán bộ. Cán
bộ là nguồn nhân lực nòng cốt trong quản lý và tổ chức thực hiện công việc
của Nhà nước. Hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả hay khơng phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Do
đó, “xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ
năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, vừa có tinh thần trách
nhiệm, tận tụy cơng tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thừa hành công vụ”


7
là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cấp cơ sở là một cấp trong hệ thống chính trị 4 cấp của hệ thống
chính trị ở Việt Nam. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trị hết sức
quan trọng trong việc quyết định hiệu quả của hệ thống chính trị cấp cơ sở
nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. Vai trị của đội ngũ cán bộ chủ
chốt góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương, đường lối, nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước. Khơng có đội ngũ cán bộ chủ chốt để chỉ

đạo, lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động thì dù đường lối, chủ trương chính
trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vừa là người trực tiếp chỉ đạo đem các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành, vừa là người
phản ánh nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước
để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp
Thực tiễn cho thấy, nơi đâu có đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội
ngũ cán bộ công chức cấp xã, thị trấn vững mạnh thì nới đó tình hình chính
trị- xã hội ổn định, kinh tế văn hóa phát triển, quốc phòng – an ninh được
giữ vững.
Huyện Đồng phú, tỉnh Bình Phước sau nhiều lần điều chỉnh, thay đổi
đơn vị hành chính, hệ thống chính trị, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội có
nhiều biến động, đặc biệt là cơng tác cán bộ. Do đó, để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị và ổn định phát triển kinh tế, xã hội thì vai trị của đội
ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở hết sức quan trọng. Với lý do đó, địi hỏi
huyện Đồng Phú phải có đội ngũ cán bộ cơng chức của hệ thống chính trị
cấp cơ sở vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách
công tác tốt, nhạy bén, năng động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
tình hình mới. Theo đó đội ngũ cán bộ chủ chốt của cấp cơ sở phải được xây
dựng trên nền tảng phát triển cả về chất lượng và cơ cấu nhằm góp phần trực


8
tiếp thúc đầy q trình hồn thiện hệ thống chính trị và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ở địa phương.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn huyện Đồng Phú,
tỉnh Bình Phước” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chun ngành chính trị học
Về cơng tác cán bộ, xây dựng đội ngũ nói chung và đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở đã có nhiều cơng trình nghiên cứu:

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Phước (khóa X), Nghị quyết số 15NQ/TU ngày 30/10/2009 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới” giai đoạn 2009 - 2014.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới ở nước ta,
những vấn đề lý luận và phương pháp luận (đề tài KX 05-11), Hà Nội.
Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) (2008), Luận cứ khoa học và một số
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1994), Cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Đề tài KX.05.11, Hà Nội.
Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01
năm 2004 “Về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ xã,
phường, thị trấn”
Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1994), “Cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”, Đề tài KX.05.11, Hà Nội.
Hồ Bá Thâm (1994), “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Bùi Đình Phong (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ”, Nxb Lao động, Hà Nội.


9
Trần Đình Hoan (chủ biên) (2009), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ, lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước,
Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2001) của tác giả Nguyễn Phú Trọng (chủ biên);

Trong những năm gần đây, có khơng ít cơng trình nghiên cứu về chất
lượng cơng tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đó có nghiên cứu sâu về
năng lực lãnh đạo của CBCC. Các nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở
CBCC các cấp, các ngành, các không gian và ở các thời điểm khác nhau;
nhiều cơng trình, bài viết đã có những đóng góp, những lý giải, những kiến
nghị hết sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao. Tiêu biểu như:
Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện Nguyễn
Ái Quốc: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính
trị chủ chốt cấp cơ sở", 1992; Tiến sĩ Phan Văn Tích (chủ biên): "Xác định
cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, xã, thị trấn)",
Nhánh đề tài KT-XH. 05-11-06, 1993; Bùi Đình Phong: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trị của đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài",
Tạp chí LLCT, số 1/2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người
cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp chí LLCT, số 5/2003....
Các đề tài trên đã làm rõ những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ nói
chung, cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Đặc biệt xây
dựng được mẫu hình và cụ thể hóa các tiêu chuẩn cơ bản của người cán bộ
trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó nhấn mạnh yếu tố đức và tài trong
quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh và địi hỏi của thực tế hiện nay.
Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ
CBCC: Trần Duy Hưng: "Xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp huyện ở
tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Lịch sử, 2002; Bùi
Khắc Hằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao


10
năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2004; Phan Thị Thúy Vân: "Xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực
trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005... Ngồi ra,

cịn nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí khoa
học về vấn đề cán bộ và nâng cao năng lực cán bộ trong HTCT.
Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác cán bộ: “C.Mác - F.Ăngghen V.I.Lênin - J.Stalin về vấn đề cán bộ” NXB Sự thật, Hà Nội - 1974; “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ” PGS.TS Bùi Đình
Phong, NXB Lao động, Hà Nội; “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại
hoá đất nước” PGS.TS Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội - 2001; “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền
cấp xã ở nước ta hiện nay” TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thơng (chủ
biên) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội - 2003; Nguyễn Phương Hồng (2004), “Quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở trong giai đoạn mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 16. Võ Công Khôi
(2005), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trong
giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3. Vũ Vọng (2006),
“Nâng cao kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở”, Tạp
chí Tổ chức Nhà nước, số 3...Bùi Thị Hồng Tiến, "Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở từ 1975-1993", Luận án Phó tiến sỹ khoa học lịch sử, 1994;
Nguyễn Mậu Dựng, “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng
bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận án Phó tiến sỹ khoa học Lịch sử,
1996; Nguyễn Phương Hải, “Đảng bộ huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở từ năm 1996 đến năm 2006”,


11
Các tác giả đã bàn và xác định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội
ngũ cán bộ chủ chốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung
và cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng, đặc biệt là công tác cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

Tuy nhiên, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, thị trấn ở
huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước thì chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống và chưa được nghiên cứu khảo sát, đánh giá một
cách khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tốt công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về đối tượng, chất lượng, năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn huyện Đồng Phú,
tỉnh Bình Phước, gồm các chức danh cán bộ như: Bí thư, Phó Bí thư Đảng
uỷ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc, Trưởng các đồn thể cấp cơ sở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước


12
Luận văn nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước nhưng chỉ giới hạn thời gian từ

năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực thiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về cán bộ
và công tác cán bộ.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp,
điều tra, khảo sát và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Đánh giá đúng thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kinh nghiệm
trong thời gian qua về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
và đề xuất các giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở huyện Đồng Phú, tỉnh
Bình Phước trong thời gian tới.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở; trong chỉ đạo thực tiễn công tác cán
bộ cấp cơ sở.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho công tác tào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cơng tác quy hoạch, bố trí
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn huyện Đồng Phú nói riêng,
các địa phương khác trong và ngồi tỉnh nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết


13
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Khái niệm "cán bộ"
Theo Từ điển Tiếng Việt 2011 của Trung tâm từ điển học, cán bộ có
nghĩa là: “người làm việc trong cơ quan, đoàn thể, đảm nhiệm một công tác
lãnh đạo, quản lý, hoặc một công tác nhiệm vụ chun mơn nhất định” [53,
tr.148]. Cịn cơng chức là: “người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một
công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước” [53, tr.280]. Trong thực tế, khái niệm cán bộ, công chức thường
được hiểu theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt là khái niệm cán bộ thường
được dùng để chỉ những người làm việc trong các cơ quan Đảng, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhà nước. Từ năm 2008, khái niệm cán bộ, công
chức được quy định rõ trong luật. Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức quy
định cán bộ, công chức:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,


14
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,

qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau
đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Từ quy định trên có thể hiểu cán bộ và công chức là:
+ Công dân Việt Nam;
+ Được bầu cử hoặc tuyển dụng vào các vị trí cơng tác ở các cấp;
+ Trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn
Theo điểm 3 điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 nêu trên: “Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, Ủy ban
nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu các tổ chức chính trị
xã hội cấp xã; cơng chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [58, tr.11].
Điều 61, Luật Cán bộ, công chức quy định rõ đối tượng nào là cán bộ
và đối tượng nào là công chức. Cụ thể,
1. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;


15

đ) Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường,
thị trấn có hoạt động nơng, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội
Nơng dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
2. Công chức cấp xã có các danh sau đây:
a) Trưởng Cơng an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đơ thị và mơi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
đ) Tài chính - kế tốn;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội.” [58, tr.45].
Bên cạnh đó Luật Cán bộ, cơng chức cịn nói rõ cán bộ, cơng chức
cấp xã, bao gồm cả cán bộ, công chức được luân chuyển, điều động, biệt
phái về cấp xã.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển Tiếng Việt – 2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, từ "chủ
chốt" là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt. Cán bộ chủ chốt của
phong trào" [54, tr.174].
Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu Cán bộ chủ chốt là
chỉ những người có chức vụ, vai trị và cương vị nịng cốt, đóng vai trị lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành trong bộ máy tổ chức, có tác động ảnh
hưởng đến hoạt động của tổ chức góp phần định hướng sự phát triển của tổ
chức.
Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:



16
+ Là người có “chức trách”, được giao đảm đương các nhiệm vụ quan
trọng để lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu trách nhiệm
trước nhân dân, tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được phân cơng.
+ Là người có trách nhiệm tiếp nhận các chủ trương, chính sách về
một sự lãnh đạo tồn diện từ cấp trên.
+ Là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hóa đường lối, chính
sách của Đảng, chính quyền cấp trên vào điều kiện ở cơ sở; chủ trì việc hoạch
định chiến lược phát triển, xác định mục tiêu, phương hướng, đề ra chủ
trương, chính sách; động viên, tổ chức nhân dân thực hiện tất cả nhiệm vụ đề
ra ở cấp xã và nhiệm vụ cấp trên giao; kiểm tra, giám sát, kịp thời sửa chữa
những hiện tượng lệch lạc, bổ sung, điều chỉnh những chủ trương, giải pháp
nếu thấy cần thiết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, khái quát thành lý
luận hoặc xác định mục tiêu, giải pháp tốt hơn phù hợp với từng thời kỳ phát
triển ở địa phương, cơ sở.
+ Có thẩm quyền giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội
trong phạm vi tồn xã hội bằng những hình thức khác nhau. Có khả năng
làm việc với con người, là trung tâm đoàn kết của tổ chức.
Như vậy, Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người đứng đầu quan
trọng nhất trong hệ thống chính trị cơ sở, có ảnh hưởng quyết định đến việc
chấp hành chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn phụ trách.
Từ khái niệm cán bộ chủ chốt có thể hiểu cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cơ sở là những người giữ các vị trí quyết định trong các cơ
quan Đảng, chính quyền, đồn thể trong hệ thống chính trị cơ sở.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Trên cơ sở khái niệm cán bộ, cán bộ cấp cơ sở có thể xem, cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở là những người có chức vụ trọng yếu ở cơ sở, thực hiện lãnh
đạo, tổ chức điều hành, triển khai các nhiệm vụ ở địa phương và phải chịu



17
trách nhiệm về việc làm của mình trước tập thể, trước nhân dân và trước
cấp trên của mình.
Từ khái niệm đó và căn cứ vào Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ban
hành ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, cơng chức xã, phường, thị
trấn và Thông tư số 03/2004/TT - BNV ban hành ngày 16/1/2004 của Bộ nội
vụ về hướng dẫn thực hiện Nghị định 114/2003/NĐ - CP của Chính phủ về
cán bộ cơng chức xã, phường, thị trấn thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở
được đề tài tiến hành khảo sát điều tra bao gồm: Bí thư, Phó Bí thư, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Nông dân
Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. (cấp xã, phường, thị
trấn).
1.1.1.2. Đặc điểm, vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Đặc điểm chủ yếu của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính
trị cơ sở
Đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở phần lớn trưởng thành trong thực
tiễn cách mạng ở cơ sở. Do đó, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; am hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nhiệt tình, tâm huyết với cơng việc, có kinh nghiệm công
tác, khả năng thuyết phục, vận động quần chúng tốt, được hội viên và nhân
dân tín nhiệm. Số cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, kế thừa truyền thống cách
mạng của dân tộc, năng động, nhạy bén, tiếp cận với cái mới nhanh; được các
thế hệ cán bộ đi trước hướng dẫn, giúp đỡ nên họ trưởng thành nhanh chóng,
trở thành nguồn cán bộ lãnh đạo cao hơn ở địa phương hoặc cung cấp cán bộ
cho huyện và tỉnh.

Đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở hoạt động trong điều kiện kinh tế
ngày càng phát triển, với đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao, cho nên họ năng


18
động, ln tìm tịi, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phịng, ln cố gắng phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng
với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương.
Với nhiều chủ trương mới, tích cực nên thuận lợi cho công tác luân
chuyển cán bộ giữa các xã với nhau hoặc giữa xã với huyện. CBCC Đảng,
chính quyền cấp xã là cán bộ, cơng chức nên thuận lợi trong việc thực hiện
chính sách cán bộ theo qui định của Nhà nước, tạo sự yên tâm, gắn bó của họ
với địa phương.
- Vai trị, vị trí của người cán bộ chủ chốt trong HTCT cấp cơ sở
Bàn về vị trí, vai trị của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học
về cán bộ. Hai ông khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [22, tr.184].
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho
phong trào cách mạng; có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp
vận dụng lý luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng
của quần chúng, lãnh đạo quần chúng thực hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa
cách mạng. Họ phải là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động, có trách nhiệm cao và được quần chúng noi
theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
về Đảng của giai cấp công nhân, V.I. Lênin đã đề ra những quan điểm
quan trọng về cán bộ trong quá trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp cơng nhân. Theo V.I. Lênin, vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ
trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị
của Đảng. Bởi vì họ vừa là người xây dựng đường lối, vừa tiến hành lựa

chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình vận
động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Vì thế, Người nhấn mạnh:
"Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người" và "trong lịch sử,


19
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [23, tr.351].
V.I. Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động Nga, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và
lãnh đạo Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành
được chính quyền, Đảng kiểu mới của V.I. Lênin trở thành Đảng cầm
quyền. Lúc này, vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn.
Ở giai đoạn này, nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn của Đảng Cộng sản và
giai cấp cơng nhân là quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội nhằm xây
dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin yêu cầu
đội ngũ cán bộ phải nỗ lực cao hơn thời nội chiến để hoàn thành sứ mệnh
mới là quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người khẳng định: "Nghiên cứu
con người, tìm ra cán bộ có bản lĩnh; hiện nay đó là then chốt, nếu khơng
thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [24, tr.462].
Để có được đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I. Lênin đã
coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cương
vị công tác, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý
giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực
công tác cho cán bộ, chống bệnh quan liêu, xa dân, kiêu ngạo, thối hóa biến
chất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam,

trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, luôn coi trọng công tác
cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người coi: "Cán bộ là cái
gốc của mọi cơng việc" [27, tr.269]. Vai trị của người cán bộ, theo Chủ


20
tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ yếu: cán bộ
với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công
việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của Người, cán bộ
không chỉ là người vạch ra đường lối mà cịn có vai trị quyết định trong
việc tổ chức thực hiện đường lối. Người nói: "Cán bộ là người đem chính
sách của Chính phủ, của đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở
thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được"; "Cán bộ là dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy, tồn bộ máy cũng tê liệt" [27, tr.54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng,
nắm bắt kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân với Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương,
chính sách hợp lịng dân. Đối với cơ sở, điều này càng đặc biệt quan
trọng. Người chỉ rõ: "Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng,
ắt phải từ trong quần chúng mà ra và trở lại nơi quần chúng" [27, tr.290].
Người kết luận: "Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt
hay kém" [27, tr.273]. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải là
người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng nhân dân thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, là người tận tụy phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn
toàn Đảng ta rằng: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ

gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân" [32, tr.131].
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề cán bộ, trong suốt 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
chú trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi
hỏi của từng thời kỳ cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta xác định phải "có một đội ngũ cán bộ


21
đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là
sinh mệnh của Đảng cầm quyền" [7, tr.27]. Trong công cuộc đổi mới đất
nước, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của
cán bộ trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: "Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng" [7, tr.66]. Theo quan điểm của Đảng, trong khi phải xây
dựng đội ngũ cán bộ một cách đồng bộ, đáp ứng với yêu cầu của từng giai
đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ CBCC các cấp,
nhất là cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Như vậy, bất kỳ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ CBCC cũng rất
quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò
của CBCC càng đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở những quan điểm đó có thể nói CBCC cấp cơ sở có vai
trị, vị trí trong HTCT cơ sở:
- Là người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh
đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước tập thể
và cấp trên về nhiệm vụ được phân cơng.
- Là người có trách nhiệm tiếp nhận các chủ trương chính sách và sự

lãnh đạo từ cấp trên.
- Là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hố đường lối, chính
sách của Đảng, chính quyền cấp trên vào điều kiện ở cơ sở, chủ trì việc
hoạch định chiến lược mục tiêu, phương hướng, đề ra chủ trương, chính
sách động viên, tổ chức nhân dân thực hiện những nhiệm vụ phát triển KTXH ổn định đời sống nhân dân trên địa bàn xã.
- Có thẩm quyền giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội,
an ninh quốc phịng trong phạm vi tồn xã, có khả năng tổ chức cơng việc
và là trung tâm đoàn kết của tổ chức.


22
Như vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu
quan trọng nhất trong HTCT cơ sở, có ảnh hưởng quyết định đến việc chấp
hành chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội trên địa bàn cấp xã mà mình phụ trách.
1.1.2. Các tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cấp cơ sở
1.1.2.1. Về phẩm chất chính trị, đạo đức
Phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, quyết định đến năng
lực quản lý nhà nước của cán bộ. Phẩm chất chính trị là động lực tinh thần
thúc đẩy cán bộ các cấp vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
hay nói cách khác là hồn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất. Phẩm chất
chính trị cũng chính là yêu cầu cơ bản nhất đối với người cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên
mãi, cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi” [30, tr.292]. Vì vậy,
mỗi cán bộ đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin.
Bởi, “có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng,
giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm
được tốt cơng tác Đảng giao phó cho mình” [30, tr.29]. Tuy nhiên, đó là

“học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân
mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm.
Lý luận đi đôi với thực tiễn” [30, tr.292], chứ không phải là học thuộc lòng
một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt, học để trang sức, học
không phải để vận dụng vào cơng việc cách mạng thì đó cũng chính là một
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất
nước nhà, là một nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang, song cũng đầy gian nan, trắc trở,
vì vậy để bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, “tất cả đảng


23
viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm
suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của
người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng” [30, tr.293].
Phẩm chất chính trị địi hỏi người cán bộ phải thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có tinh thần cương quyết
đấu tranh chống lại các hiện tượng lệch lạc, những biểu hiện mơ hồ, sai trái
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và
các hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Người cán bộ cấp cơ sở có phẩm chất chính trị tốt là người tích cực
tuyên truyền, vận động gia đình, bà con nhân dân thực hiện tốt đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Là người
ln ln trăn trở băn khoăn và tìm cách tháo gỡ những khó khăn ở cơ sở,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người
có phẩm chất chính trị tốt là người một lòng phục vụ Nhà nước, phục vụ
nhân dân.
Phẩm chất chính trị của cán bộ cấp cơ sở được biểu hiện trước hết là sự

tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa
chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, không dao động trước những khó khăn thử thách. Đồng
thời phải có biện pháp để đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân
địa phương.
Phẩm chất chính trị của người cán bộ cấp cơ sở cịn biểu hiện thơng
qua thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần gương mẫu trong công tác, tinh thần
trách nhiệm đối với đời sống của đồng bào nhân dân tại địa phương. Người
cán bộ có phẩm chất chính trị tốt phải là người ln trăn trở trước những
khó khăn ở địa phương; phải có quyết tâm đưa địa phương cơ sở nơi mình


24
công tác ngày càng phát triển về mọi mặt, thực hiện công bằng, dân chủ, văn
minh.
Đạo đức là hết sức cần thiết cho tất cả mọi người, và đặc biệt cần
thiết cho người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy "Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang"[30, tr.283]. Người đòi hỏi cán bộ phải giữ được đạo đức cách
mạng, đó mới là người cán bộ chân chính. Chỉ khi có đầy đủ đạo đức cách
mạng thì cán bộ mới có đủ điều kiện làm cách mạng. "Muốn giải phóng dân
tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có
đạo đức, khơng căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì" [30,
tr.253].
Đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh của người cán bộ,
cơng chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: "Cũng như sơng thì có nguồn
mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn; cây phải có gốc khơng có gốc
thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, khơng có đạo đức
thì có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân " [30, tr.253]. Sức có

mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trước sau cơ bản là nhất quán:
Trung với nước, hiếu với dân, người cán bộ phải là đầy tớ của nhân dân,
dũng cảm hy sinh, khơng sợ khó khăn, gian khổ, gạt bỏ lợi ích cá nhân để
phục tùng lợi ích tập thể, khiêm tốn học hỏi, khơng tự cao, tự đại, cần kiệm
liêm chính và tinh thần đoàn kết hữu nghị. Nội dung đạo đức cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện một cách dễ hiểu, thiết thực
nhưng cũng đầy đủ và tồn diện. Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng
được Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức cụ thể, đó là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm;
mỗi người cán bộ phải hội đủ các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư.


×