Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nâng cao vai trò chính trị của tổ chức cơ sở đảng tại tập đoàn dầu khí quốc gia giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

===  ===

LÊ QUỐC PHƯƠNG

NÂNG CAO VAI TRỊ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TẠI TẬP ĐỒN DẦU KHÍ QUỐC GIA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

===  ===

LÊ QUỐC PHƯƠNG

NÂNG CAO VAI TRỊ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TẠI TẬP ĐỒN DẦU KHÍ QUỐC GIA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỮU QUYẾT



NGHỆ AN – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tác giả đề tài xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và Quý Thầy cô giáo
của Trường Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt q trình học
tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Đặc biệt, tác giả bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Tiến sĩ Nguyễn Hữu
Quyết, giảng viên Trường Đại học Vinh, đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp
tác giả hoàn thành luận văn.
Dù đã nỗ lực rất nhiều, song trong quá trình thực hiện luận văn, khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tác giả rất mong được sự quan tâm đóng
góp ý kiến quý báu của quý lãnh đạo, quý thầy cô giáo và quý bạn bè, đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 7 năm 2017
Tác giả

Lê Quốc Phương


Danh mục từ viết tắt
TĐ DKQGVN

Tập đồn Dầu khí quốc gia Việt Nam

TCCSĐ

Tổ Chức Cơ sở Đảng



MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
B.NỘI DUNG................................................................................................................ 10
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRỊ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG ....................................................................................................... 10
1.1 Khái niệm và cơ sở lý luận về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng ........ 10
1.2. Một số nội dung liên quan đến vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng ..... 20
1.3 Tính tất yếu của việc nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại
doanh nghiệp, Tập đoàn kinh tế Nhà nước .......................................................... 37
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TẠI TẬP ĐỒN DẦU KHÍ QUỐC GIA ...................... .41
2.1 Tổng quan về Tập đồn Dầu khí quốc gia ..................................................... 41
2.2 Thực trạng thực hiện vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn
Dầu khí quốc gia .................................................................................................. 54
2.3 Đánh giá thực hiện vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu
khí quốc gia .......................................................................................................... 60
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 72
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TẠI TẬP
ĐỒN DẦU KHÍ QUỐC GIA ............................................................................ 73
3.1 Phương hướng nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập
đồn Dầu khí quốc gia .......................................................................................... 73
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập
đồn Dầu khí quốc gia .......................................................................................... 78
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 94
C.KẾT LUẬN ...................................................................................................... 95
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 96



1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, các doanh nghiệp
Nhà nước ln giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế đất nước, giúp
Đảng, Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt các chính sách kinh tế lớn.
Để việc điều hành, lãnh đạo tốt hơn tại các doanh nghiệp, Tập đoàn kinh tế Nhà
nước thì việc nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trong chính các
doanh nghiệp, Tập đồn kinh tế Nhà nước có ý nghĩa cấp bách và cần thiết.
Trong mọi cơ quan, đơn vị vai trò của tổ chức cơ sở Đảng có ý nghĩa rất
quan trọng. Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, nơi trực tiếp triển khai và
tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng cũng là
nơi mà thơng qua đó, mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng được quán triệt đến
từng đảng viên, nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động ở đơn vị cơ sở thực hiện đúng
theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi
nối liền cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng, là cầu nối giữa
Đảng với dân. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống
xã hội, các tổ chức cơ sở của Đảng là những hạt nhân chính trị, là đồn luỹ của
Đảng ở cơ sở. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở
trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt,
mọi công việc đều tiến bộ khơng ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc
không trôi chảy” [39, tr.161]. Tổ chức cơ sở Đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng
thời cũng là nơi góp phần phát triển hồn thiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Là một thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở, song tổ chức
cơ sở Đảng có vị trí, vai trị đoàn kết, lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở cơ sở, sức mạnh của Đảng là sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân.
Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng là

những sợi chỉ đỏ nối liền Đảng với dân.


2

Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là kể từ khi Đảng, Nhà nước ta xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở Đảng
trong các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang từng bước khẳng định được vị trí,
vai trị và có đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất
nước. Các cấp ủy Đảng đã tích cực tuyên truyền, giáo dục cán bộ công nhân
viên, người lao động và các thành viên trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời góp phần bảo đảm điều tiết hài hịa giữa 3 lợi ích: Nhà nước, doanh
nghiệp và người lao động, tạo lập mối quan hệ giữa cấp ủy Đảng với Hội đồng
Thành viên, Tổng Giám đốc và các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp, tạo
mơi trường làm việc lành mạnh, đồn kết, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa do Đảng lãnh đạo hiện nay, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong các
doanh nghiệp là hết sức quan trọng, giúp định hướng tư tưởng chính trị cho
doanh nghiệp phát triển. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp nào có tổ chức cơ sở
Đảng mạnh thì các tổ chức đoàn thể cũng hoạt động tốt hơn, sản xuất kinh
doanh thuận lợi, người lao động yên tâm, phấn khởi làm việc.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn có những tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh
nghiệp Nhà nước chưa hồn thành vai trị chính trị trong điều hành lãnh đạo,
quản lý doanh nghiệp thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước.
Dầu khí là một trong những ngành năng lượng rất quan trọng trong cơ cấu
kinh tế của Nước ta. Do đó, ngay từ năm 1993 Quốc hội đã ban hành Luật dầu
khí và trải qua hai lần sửa đổi vào các năm 2000, 2008. Tiếp đó vào ngày 18
tháng 6 năm 2010 Thủ Tướng Chính phủ có quyết định số: 924/QĐ-TTg về việc

Chuyển Công ty mẹ - Tập đồn Dầu khí Việt Nam thành cơng ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Và đến ngày 31 tháng 10


3

năm 2013 Chính phủ đã ban hành nghị định số 149/2013/NĐ-CP quy định về
Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đồn Dầu khí Việt Nam.
Ngày 23 tháng 7 năm 2015 Bộ Chính Trị ban hành nghị quyết số: 41NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm
2025 và tầm nhìn đến năm 2035 với trọng tâm là: Tìm kiếm, thăm dị, khai thác,
vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Trong đó
tìm kiếm, thăm dị và khai thác dầu khí là lĩnh vực cốt lõi, cần phải được quan
tâm chú trọng, tăng cường đầu tư phát triển khơng chỉ ở trong nước mà vươn ra
nước ngồi. Nghị quyết đã mở ra cơ hội lớn cho sự phát triển của Tập đoàn, tạo
động lực lớn lao đối với niềm tin của mỗi công nhân viên ngành dầu khí. Ngồi
ra Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản liên quan về điều
hành, tổ chức quản lý Tập đồn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Cũng theo tổng
cục thống kê trong năm 2016 Tập đoàn Dầu khí đã nộp ngân sách Nhà nước là
gần 90.2 nghìn tỷ đồng (vượt 12% so với kế hoạch của năm) trên tổng thu ngân
sách là gần 1.094 nghìn tỷ đồng chiếm 8.24% tổng thu ngân sách. Điều đó, nói
lên vị trí và tầm quan trọng của Tập đồn Dầu khí trong nền kinh tế và vai trị
trong việc góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và là đầu tàu kinh tế
trong xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây hoạt động của Tập đồn Dầu khí có
nhiều có nhiều sai phạm nghiêm trọng liên quan đến công tác quản lý cán bộ,
công tác bổ nhiệm cán bộ và năng lực yếu kém trong hoạt động điều hành sản
xuất kinh doanh của Tập đồn Dầu khí và các cơng ty thành viên dẫn đến thất
thoát nguồn vốn lớn của Nhà nước. Những sai phạm này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lòng tin của của nhân dân cả Nước vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế và công tác quản lý cán bộ.

Trách nhiệm của những sai phạm này không những thuộc về Hội đồng
quản trị, Ban giám đốc của Tập đồn Dầu khí Việt Nam mà còn liên quan đến
cấp ủy Đảng trong Tập đoàn, trực tiếp là Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Việt nam


4

và các Đảng bộ trực thuộc quản lý các công ty thành viên của Tập đồn Dầu khí.
Các tổ chức cơ sở Đảng trong Tập đoàn chưa thể hiện đúng vai trị chính trị thực
sự trong cơng tác lãnh đạo quản lý sản xuất, công tác quản lý cán bộ dẫn đến
hoạt động kinh doanh thua lỗ của các Công ty thành viên và một số cán bộ giữ
vai trò cao trong Tập đoàn vi phạm nghiêm trọng những quy định của pháp luật.
Rõ ràng những sai phạm tại Tập đồn Dầu khí và các Cơng ty thành viên của
Tập đồn Dầu khí có trách nhiệm liên quan đến vai trị chính trị của tổ chức cơ
sở Đảng tại các Công ty thành viên, cao hơn nữa là Đảng bộ Tập đồn Dầu khí
trong cơng tác điều hành, quản lý và giám sát.
Thực trạng nêu trên đặt ra nhiều thách thức lớn đối với tổ chức cơ sở
Đảng trong công tác lãnh đạo, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng
như công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng đối với Tập đồn Dầu khí. Do
vậy, cần có những phương hướng và giải pháp đồng bộ nhằm phát huy mạnh mẽ
vai trò của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đoàn trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát
từ những nguyên nhân và tính cấp bách trên, tác giả chọn đề tài “Nâng cao vai
trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí quốc gia giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị học.
Tình hình nghiên cứu vai trị chính trị của các cơ sở Đảng tại Tập đồn
dầu khí Quốc gia giai đoạn hiện nay đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu trực
tiếp, cụ thể đến vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trong Tập đồn Dầu khí
Quốc gia Việt Nam, tuy nhiên đã có các cơng trình nghiên cứu tổ chức Đảng
trong các doanh nhiệp Nhà nước và những cuốn sách, báo cáo, bài báo trên các
tạp chí có liên quan đến tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp Nhà nước và

những tài liệu nghiên cứu liên quan đến Tập đồn Dầu khí Quốc gia. Có thể kể
đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
Các cơng trình nghiên cứu luận án, luận văn liên quan đến các tổ chức
cơ sở Đảng trong các cơng ty, Doanh nghiệp Nhà nước nói chung:


5

Trương Thị Mỹ Trang (2012), “Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng
trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở các tỉnh Trung Trung bộ giai
đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ Khoa Học Chính trị, Học Viện chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Đoàn Anh Tuấn (2014), “Nâng cao chất lượng
nhân Lực của Tập đồn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam”, luận án Tiến Sỹ kinh tế,
Học viện chính trị Quốc gia Thành phố Hồ chí minh; Tống Quốc Trường
(2009), “Hoạt động của cơng ty tài chính dầu khí thuộc tập đồn dầu khí Việt
Nam: Kinh nghiệm và giải pháp”, luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học kinh tế Quốc
Dân; Nguyễn Minh Tuấn (2003), “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Tổ chức Cơ sở Đảng trong doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, luận án Tiến sĩ
lịch sử, học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Các luận án, luận văn tuy khơng nghiên cứu cụ thể trực tiếp là các tổ chức
cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí Quốc gia nhưng đã làm rõ thêm một số kiến
thức về lý luận chung, khái niệm nội dung xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
Đảng trong các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó có luận án cũng đã đề cấp
đến Tập đồn Dầu khí giúp tác giả có thêm nguồn kiến thức về doanh nghiệp
này. Đồng thời đưa ra được một số thực trạng nguyên nhân và kinh nghiệm tổ
chức hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nêu ra được phương hướng và những
giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong doanh
nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó giúp tác giả tiếp cận tốt hơn những nội dung
liên quan đến việc nâng cao vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh

nghiệp Nhà nước nói chúng. Từ đó tác giả có hướng phân tích và giải quyết các
vấn đề xuyên suốt trong toàn luận văn, giúp luận văn hoàn thành được nhiệm vụ,
mục tiêu đề ra.
Các cuốn sách, kỷ yếu có nội dung liên quan đến Tập đồn Dầu khí
Quốc gia Việt Nam:


6

Đảng bộ Tập đồn dầu khí Quốc gia Việt Nam (2015), “Sứ mệnh và tầm
nhìn: Giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển cùng những thành tích của Đảng
bộ Tập đồn Dầu khí quốc gia Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao Động; Tập đồn
dầu khí quốc gia Việt Nam (2015), “Tập đồn Dầu khí quốc gia Việt Nam đồng
hành, phát triển cùng đất nước: Giới thiệu về lịch sự các hoạt động của Tập đồn
Dầu khí quốc gia Việt Nam trong 40 năm qua”, Nhà xuất bản Lao Động.
Thông qua những nội dung được thể hiện trong các cuốn sách trên giúp
tác giả biết được cách thức tổ chức và mơ hình hoạt động của Tập đồn Dầu khí
Quốc gia. Làm rõ hơn vai trị, vị trí tầm quan trọng của Tập đồn Dầu khí Quốc
gia trong cơ cấu nền kinh tế của đất nước. Giúp tác giả có được nguồn kiến thức
tổng quan về Tập đồn Dầu khí Quốc gia, xây dựng được nội dung luận văn phù
hợp nội dung Đảng bộ của Tập đồn Dầu khí, các Đảng bộ trực thuộc trên cơ sở
phân tích giữa Tập đồn Dầu khí với các cơng ty con, cơng ty liên kết và các
đơn vị thành viên.
Nhìn một cách tổng quan, dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết
chuyên sâu về các tổ chức cơ sở Đảng trong các Doanh nghiệp Nhà nước được
thực hiện trong một thời gian dài. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều được
tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, như tổng hợp các bài viết về tổ chức cơ
sở Đảng, quá trình hình thành và phát triển Tập đồn Dầu khí; phân tích giá trị
và vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng nói chung và vai trị chính trị của tổ
chức cơ sở Đảng tại các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, cụ thể hóa một số nội

dung cốt lõi trong cơng tác tăng cường vai trị của tổ chức cơ sở Đảng tại các
doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó, kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học về
công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng cũng đề cập khá phong phú và
rõ nét những nội dung liên quan đến việc tăng cường vai trị chính trị của tổ
chức cơ sở Đảng tại doanh nghiệp, Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay.


7

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt, có hệ
thống về vấn đề vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí
quốc gia giai đoạn hiện nay như đề tài tác giả lựa chọn.
Mặc dù vậy, những kết quả nghiên cứu, cơng trình nêu trên là nguồn tư liệu
q giá, giúp tác giả có cái nhìn tổng quan về các vấn đề liên quan đến đề tài,
đồng thời có thể kế thừa, học hỏi trong quá trình triển khai luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn xây dựng, vai
trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí Quốc gia, đề tài đề
xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng để
giải quyết những khó khăn, vương mắc tại Tập đồn Dầu khí quốc gia giai đoạn
hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chính trị, vai trị chính trị, cơ sở lý luận,
nội dung về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại các Tập đồn kinh tế
Nhà nước nói chung và Tập đồn Dầu khí Quốc gia nói riêng.
+ Đánh giá thực trạng vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu
khí quốc gia hiện nay, sự chỉ đạo của Đảng bộ và tổ chức cơ sở Đảng thuộc Tập
đồn Dầu khí Quốc gia đối với hoạt động của Tập đồn Dầu khí Quốc gia và các

công ty thành viên.
+ Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu, có tính khả thi
nhằm nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí
Quốc gia giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Các tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí quốc gia


8

+ Vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí quốc gia đối với
cơng tác lãnh đạo, hoạt động quản lý sản xuất của Tập đồn.
+ Cơng tác chỉ đạo quản lý cán bộ, đảng viên, cơng nhân viên trong Tập đồn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn
Dầu khí Quốc gia từ năm 2006 đến nay (từ khi có Quyết định số 199/2006/QĐTTg ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành
lập Cơng ty mẹ - Tập đồn Dầu khí Việt Nam), đề xuất phương hướng và giải
pháp nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đoàn trong giai
đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp mà tác giả sử dụng nhiều trong đề
tài. Trên cơ sở phân tích đánh giá những luận án, luận văn, các báo cáo, tài liệu
hiện hành về tổ chức cơ sở Đảng và vai trò của các cơ sở Đảng tại các doanh
nghiệp, Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong đó có Tập đồn Dầu khí Quốc gia. Tác
giả rút ra những ưu điểm, tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý, điều hành
của Tập đồn Dầu khí Quốc gia nhằm đưa ra những giải pháp giúp nâng cao vai
trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trong Tập đồn Dầu khí Quốc gia giai đoạn
hiện nay.

Phương pháp tổng hợp: Thông qua các luận án, luận văn, bài báo có liên quan
đến tổ chức cơ sở Đảng của Tập đồn Dầu khí Quốc gia và các nguồn tài liệu
của Tập đoàn, tác giả bổ sung vào đề tài những nội dung cịn thiếu, hồn thiện
một số nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp quan sát: Thông qua các vụ việc xẩy ra tại Tập đồn Dầu khí
trong từng điều kiện hoàn cảnh khác nhau nhằm thu thập những số liệu, nhận
thức được bản chất vấn đề, phát hiện vấn đề nghiên cứu, đánh giá các vấn đề,
giúp tác giả có được nguồn kiến thức tổng hợp về Tập đồn Dầu khí. Phương


9

pháp quan sát cần phải phối hợp với các phương pháp khác để nhận biết được
những nội dung bên trong của Tập đồn Dầu khí.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1. Về ý nghĩa khoa học
+ Đề tài nghiên cứu tồn diện cơ sở lý luận về vai trị của tổ chức cơ sở Đảng;
Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí Quốc gia trong giai đoạn
hiện nay.
+ Đề tài có giá trị trong việc nghiên cứu hoàn thiện thêm các quy định, phương
hướng nhằm nâng cao vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu
khí Quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Việc nghiên cứu giúp Tập đồn Dầu khí thấy rõ khuyết điểm, hạn chế vai trị
chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trong Tập đồn Dầu khí.
+ Đề tài có thể là nguồn tham khảo có ý nghĩa thực tiễn đối với Đảng bộ và tổ
chức cơ sở Đảng tại Tập đồn Dầu khí quốc gia khắc phục những nhược điểm,
tồn tại đồng thời phát huy ưu điểm trong việc thực hiện chức năng, vai trị, nhiệm
vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đồn.
+ Đề tài cịn có thể làm tài liệu tham khảo, dẫn chứng cho nghiên cứu, học tập

các môn liên quan đến chuyên ngành Chính trị học.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
kết cấu thành 03 chương, 08 tiết.
Chương 1: Lý luận chung về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập
đồn Dầu khí quốc gia
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trị
chính trị của tổ chức cơ sở Đảng tại Tập đoàn Dầu khí quốc gia


10

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm chính trị, vai trị chính trị
Theo định nghĩa của Từ điển Bách Khoa Việt Nam: "Chính trị là tồn bộ
những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các
dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy
trì và sử dụng quyền lực Nhà nước, sự tham gia vào công việc của Nhà nước, sự
xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước” [54,
tr.478]. Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng bao gồm pháp quyền, tôn giáo và
các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng (Nhà nước, chính đảng, giáo
hội). Chính trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế quyết định, là tính thứ hai so với kinh
tế, chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, khơng được thốt ly những
đặc trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội.
Theo V.I.Lênin thì chính trị "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.

Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế " [26, tr.311–
312], đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác dụng to lớn đối với kinh tế.
Ngồi ra cịn có một số quan điểm liên quan đến khái niệm về chính trị
của một số học giả nổi tiếng: Một quan điểm khá phổ biến trên thế giới cho
rằng, chính trị thuộc lĩnh vực quyền lực, theo C.Mác (1818-1883), “Chính trị
liên quan đến quyền lực và vấn đề là ở chỗ quyền lực không được phân phối
đồng đều giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Chính sự phân phối khơng bình
đẳng này đã gây nên xung đột và đấu tranh giai cấp” [40, tr.24]. Theo C.Mác,
chính trị là một q trình mà qua đó các giai cấp có xung đột về quyền lợi đấu
tranh để giành lấy, nắm giữ hoặc gây ảnh hưởng quyền lực Nhà nước. Để có


11

cuộc sống tốt đẹp hơn chúng ta phải “Tiến tới tiêu thủ tất cả mọi giai cấp và tiến
tới một xã hội không giai cấp” [28, tr.662].
Một quan điểm khác về chính trị, đồng ý với C.Mác ở một điểm là học giả
tên là Max Weber (1864-1920), khi cũng cho rằng Chính trị thuộc lĩnh vực
quyền lực và Nhà nước. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa họ là ở chỗ, Max Weber
khơng cho rằng chính trị có thể được loại bỏ ra khỏi đời sống con người. “Chính
trị và Nhà nước chắc chắn khơng phải là điều hồn hảo, nhưng người ta vẫn cần
đến chúng, theo Weber chính trị là quá trình để giành lấy quyền lực và ảnh
hưởng đến việc phân phối quyền lực giữa các thành viên trong một quốc gia
hoặc giữa các quốc gia, xung đột và đấu tranh giai cấp chỉ là một phần trong quá
trình này” [40, tr.25].
Cho dù cịn có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến “Chính trị”
nhưng chúng ta dễ thấy rằng chính trị là q trình xung đột, tranh luận, tranh
giành giữa các thành viên, tổ chức trong xã hội liên quan đến quyền lực, ảnh
hưởng lẫn nhau. Vai trò của chính trị trong đời sống kinh tế xã hội được thể hiện
qua nhiều mặt:

Trước hết, vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện
qua mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích về vai trị của chính trị đối với sự phát triển
kinh tế như sau: "Tác động ngược lại của quyền lực Nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát
triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi
ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất
định, hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và
thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến
một trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và
thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có
thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực và vật chất" [30, tr.678].


12

Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối
quan hệ giữa quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với
kinh tế. Xét về tổng thể, sự vận động của kinh tế bị chi phối bởi chính các quy
luật kinh tế khách quan, đồng thời, nó cũng chịu sự tác động ngược lại của chính
trị, của quyền lực Nhà nước.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo những hướng khác
nhau: thúc đẩy, kìm hãm hoặc vừa thúc đẩy mặt này, vừa kìm hãm mặt kia và do
vậy, có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế ở chừng mực nhất định. Theo V.I.Lênin
“kinh tế quy định chính trị mà chính trị cũng tác động trở lại kinh tế. Chính trị
phản ánh kinh tế theo cách thức và vai trị của nó, nó chủ động chứ khơng thụ
động một chiều trong sự phản ánh đó. Bởi thế, chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế, là kinh tế cơ đọng lại” [27, tr.349].
Điều đó cho thấy, để phát triển kinh tế cần phải quan tâm đến chính trị,

đặc biệt là định hướng chính trị của Đảng cầm quyền và bộ máy Nhà nước.
V.I.Lênin viết: "Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất
định nào đó, khơng thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng
khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" [26,
tr.350]. Trên thực tế, khơng có đường lối chính trị đúng thì khơng một giai cấp
thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị và do đó, cũng khơng
có khả năng lãnh đạo kinh tế.
Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trò lãnh
đạo của Đảng chính trị đối với đời sống xã hội. Trong cuộc đấu tranh giai cấp ấy
nhất định sẽ dẫn đến việc hình thành các Đảng chính trị và các Đảng chính trị đó
sẽ đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có
mục đích chính trị rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng
cùng hành động chung để đạt mục đích đề ra.


13

1.1.1.2. Tổ chức cơ sở Đảng
Thuật ngữ TCCSĐ lần đầu tiên được V.I.Lênin đưa ra trong đại hội III
Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (25/4/1905): Mỗi tổ chức Đảng cho tới
chi bộ công nhân phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương. Sau
đó, trong bài viết "Tiến tới thống nhất", V.I.Lênin nhấn mạnh "Những điều kiện
khách quan đòi hỏi rằng những chi bộ cơng nhân hợp pháp, nhỏ về quy mơ và về
hình thức công tác hiện nay phải làm cơ sở của tổ chức Đảng" [25, tr.259].
Theo Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định rõ:
Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên chính thức
trở lên, lập TCCSĐ (trực thuộc cấp ủy cấp huyện), ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp
tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, cơng an và các đơn vị khác có từ 3

đảng viên chính thức trở lên, lập TCCSĐ (Tổ chức cơ sở Đảng hoặc chi bộ trực
thuộc đảng ủy cơ sở)".
Theo khoản 2, Điều 10 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011) ghi rõ
"Tổ chức cơ sở Đảng được lập tại đơn vị hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc
cơng tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh". Điều lệ Đảng cũng có quy định riêng cho tổ chức Đảng trong quân
đội nhân dân Việt Nam và công an nhân dân Việt Nam.
Như vậy, TCCSĐ của Đảng cộng sản Việt Nam gồm chi bộ cơ sở, Đảng
bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở có 2 loại: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc; Đảng
bộ cơ sở có Đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Các TCCSĐ đều có cấp uỷ
cấp trên trực tiếp. Ví dụ: Huyện uỷ là cấp trên trực tiếp của TCCSĐ ở xã, thị
trấn thuộc huyện đó; quận uỷ là cấp trên trực tiếp của TCCSĐ ở phường thuộc
quận...


14

1.1.1.3. Doanh nghiệp, Tập đoàn kinh tế Nhà nước
Theo khoản 7 điều 4 luật Luật số: 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm
2014: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Q trình kinh doanh thực hiện một cách liên tục, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường.
Mục tiêu khi thành lập các Tập đoàn kinh tế là:
Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm cơng ty có
quy mơ lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, cần phát triển, nâng cao khả
năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Giữ vai trò bảo đảm cân đối trong nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công

nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền
kinh tế.
Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần
kinh tế khác. Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản Nhà
nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong Tập đoàn.
Tăng cường vị trí của doanh nghiệp Nhà nước trong việc bảo đảm vai trò
chủ đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và các Tập đoàn kinh tế Nhà nước hoạt động
có hiệu quả sẽ làm nịng cốt trong hệ thống nền kinh tế.
Song khác với các Tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các cơng ty
nhỏ, hoạt động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành các
Tập đoàn khổng lồ, các Tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các
tổng cơng ty có quy mô chưa lớn, yếu kém trong quản lý, quen dựa vào bao cấp
taọ ra độc quyền, phần lớn vị trí chủ chốt được bổ nhiệm vì lý do chính trị, cơ
cấu vốn Nhà nước, không hẳn là dựa trên năng lực quản trị kinh doanh, dẫn đến
một số Tập đồn làm ăn thiếu hiệu quả có thể gây tác hại lớn cho nền kinh tế.


15

1.1.2. Cơ sở lý luận về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trị chính trị của tổ chức
cơ sở Đảng
Ngay từ đầu của phong trào công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: "Liên đoàn phải tổ chức thành chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, ban chấp
hành Trung ương và đại hội từ đó lấy tên là Liên đoàn những người cộng sản"
[29, tr.339]. Để thực hiện mục đích của Liên đồn là lật đổ giai cấp tư sản, Liên
đoàn phải được tổ chức lại và có như vậy "Liên đồn những người cộng sản mới
bắt đầu giữ vai trò lãnh đạo trong những hội công nhân, nông dân và các hội
khác" [29, tr.347]. Mác - Ăngghen còn nhấn mạnh: Biến mỗi chi bộ thành trung

tâm và hạt nhân của hiệp hội công nhân. Chi bộ có nhiệm vụ chủ yếu là thực
hiện nghị quyết của Liên đoàn những người cộng sản và quản lý đảng viên.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã
tập trung chăm lo xây dựng và phát triển các tổ chức Đảng bằng cách xác lập vai
trị lãnh đạo của các tổ chức cơng nhân xã hội chủ nghĩa trong các nhà máy,
công xưởng, khu dân cư.., phát triển thành chi bộ cơ sở của Đảng Bơnsêvích.
Lênin viết: "Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng,
phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả quần chúng lao động... Những chi
bộ ấy phải thơng qua cơng tác mn hình để rèn luyện Đảng, giai cấp, quần
chúng một cách có hệ thống" [27, tr.232].
V.I.Lênin nhấn mạnh: Để giành được thắng lợi trong bước chuyển có tính
chất chiến lược này, các TCCSĐ phải đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra,
để phát huy tính chủ động, sáng tạo lớn hơn nữa ở cơ sở. Lênin nhiều lần nhấn
mạnh: TCCSĐ là nền tảng của Đảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản, là tế bào trong
tổ chức của Đảng, hạt nhân chính trị của Đảng ở cơ sở và có mối liên hệ chặt
chẽ, sâu rộng với quần chúng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.


16

Các tổ chức cơ sở vững mạnh thì các cấp bộ Đảng mới mạnh, tồn Đảng mới
mạnh, điều đó thấy được vai trị của TCCSĐ trong q trình tổ chức hoạt động.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm công tác xây dựng TCCSĐ. Trong diễn văn bế mạc Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, thay mặt cho Đại hội
và 50 vạn đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất mạnh: "Mỗi chi bộ phải là một
hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cầm kiện, xây dựng
Nhà nước. Mỗi cấp uỷ Đảng phải là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy phong trào cách

mạng sơi nổi tiến lên" [31, tr.777]. Người cịn nhấn mạnh: "Mỗi chi bộ của Đảng
phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật
thiết với quần chúng phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng"
[34, tr.23].
Người cho rằng: "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ
tốt" [32, tr.492]. Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Chi bộ là gốc rễ của Đảng, là nền tảng
của Đảng, Đảng mạnh là do chi bộ đều mạnh. Chi bộ là đồn luỹ của Đảng chiến
đấu trong quần chúng. Chi bộ là sợ dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng
lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng chi
bộ, đảng bộ cơ sở, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng. Người chỉ rõ.
"Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ
tốt là do đảng viên đều tốt" [35, tr.96]. Do đó, một tổ chức muốn mạnh thì trước
hết chi bộ đó phải mạnh, hoạt động hiệu quả.
1.1.2.3. Quan điểm của Đảng về vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta khẳng định vị trí quan trọng và trách
nhiệm nặng nề của TCCSĐ.
Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) đã quy định hệ thống tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Đảng bao gồm các chi bộ ở


17

cơ sở (nhà máy, công xưởng, hầm mỏ, đồn điền, đường phố) đến huyện bộ, thi
bộ, khu bộ, tỉnh bộ, thành bộ và Trung ương.
Điều lệ Đảng công sản Đông dương (tháng 10-1930) khẳng định: chi bộ
(nhà máy, công sở, trường học....) là "căn bản tổ chức của Đảng". Điều lệ do Đại
hội lần thứ nhất thông qua chỉ rõ: "Căn bản về đường lối tổ chức của Đảng là chi
bộ sản nghiệp (nhà máy, mỏ, đồn điền, công xưởng, cơng sở, trại lính....) tất cả
đảng viên nằm trong một sản nghiệp đều phải vào trong chi bộ đó. Các đảng

viên khác như tri thức, tiểu thương gia, người đi ở... thì phải lấy chỗ ở của họ
làm gốc tổ chức ra chi bộ làng và xã" [16, Điều 12].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai (1951) đã quy định; xây dựng
hệ thống tổ chức Đảng từ các chi bộ ở các cơ sở. Mỗi chi bộ cấp xã phường (khu
phố), thị trấn nhiều nhất không quá 50 đảng viên, xí nghiệp khơng q 70 đảng
viên. Nơi q đơng đảng viên có thể thành lập Đảng bộ cơ sở gồm nhiều chi bộ,
đến huyện, tỉnh thành, xứ, khu, hoặc liên khu và cấp Trung ương.
Trong Điều lệ Đảng, Đại hội II dành một chương nói về TCCSĐ với tiêu
đề: Chi bộ là nền tảng tổ chức của Đảng "ở những xã, xí nghiệp, khu phố mà có
đảng viên q đơng thì tuỳ theo quan hệ về kinh tế, địa dư và tuỳ theo số đảng
viên và tổ chức ra nhiều chi bộ" [19, Điều 24].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức III, Đảng ta tiếp tục khẳng định những
nguyên tắc, quy định về hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV hệ thống tổ chức của Đảng được
quy định: TCCSĐ dưới 30 đảng viên thì thành lập chi bộ, có chi uỷ. Tổ chức
Đảng có trên 30 đảng viên thì thành lập Đảng bộ, có chi bộ trực thuộc.
Điều 10 của Điều lệ Đảng do Đại hội VIII thông qua quy định về hệ thống
tổ chức Đảng được rút gọn như sau:
"Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương xứng với hệ thống tổ chức
của Nhà nước. Tổ chức cơ sở Đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự
nghiệp kinh tế hoặc công tác đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị


18

xã, thành phố thuộc tỉnh. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định lập hoặc giải thể
Đảng bộ, chi bộ trực thuộc" [53, tr.207].
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã khẳng định:
“Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; xây dựng, kiện
toàn hệ thống tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, thẩm quyền,

trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả.
Đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng, gắn xây dựng tổ chức cơ sở Đảng với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở” [20, Tr 264].
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ về xây dụng Đảng và
xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ. Trong đó có 2 nhiệm vụ trọng
tâm liên quan đến thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đề ra, cho ta thấy
được tầm quan trọng của TCCSĐ trong điều hành, hoạt động ở các cấp Đảng.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn hiến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu.
Chúng ta dễ thấy xuyên suốt qua các kỳ Đại hội, Đảng ta ln khẳng định
vài trị nền tảng rất quan trọng của từng TCCSĐ trong quá trình tồn tại và hoạt
động của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nói một cách khác, mọi đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có được thực hiện nghiêm
chỉnh, có hiệu quả hay khơng, trước hết là do TCCSĐ hoạt động tốt hay không.


19

Một chi bộ, Đảng bộ cơ sở nếu không nghiêm chỉnh chấp hành đường lối,
chính sách pháp luật thì nền kinh tế xã hội không thể phát triển, an ninh trật tự
không được đảm bảo, nghĩa vụ đối với Nhà nước khơng hồn thành, quyền làm

chủ của nhân dân bị xâm phạm.
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp liên hệ giữa Đảng và quần chúng, nếu
chúng ta nói sức mạnh của quần chúng bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, thì ngược lại sức mạnh của Đảng lại bắt nguồn từ mối liên hệ chặt chẽ,
máu thịt giữa TCCSĐ, đảng viên với quần chúng ở cơ sở. Quần chúng nhận xét
sự lãnh đạo của Đảng, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, trước hết và trực tiếp là
thông qua hoạt động của TCCSĐ và cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục, rèn luyện, sàng lọc đảng viên, nơi
đào tạo cán bộ cho Đảng, chính quyền, các đồn thể quần chúng. Chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phụ thuộc một phần rất quan trọng ở chất lượng
lãnh đạo của TCCSĐ. Thực tiễn đã chứng minh: Việc giáo dục, rèn luyện cán
bộ, đảng viên của Đảng tốt hay khơng tốt, vấn đề kết nạp đảng viên có chất
lượng hay không và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng
đúng hay sai, tất cả đều phụ thuộc một phần rất quan trọng ở chất lượng lãnh
đạo của TCCSĐ.
Tổ chức cơ sở Đảng còn là nơi thẩm định tính đúng đắn của đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nơi phản ánh tâm tư
nguyện vọng, những yêu cầu và kinh nghiệm của quần chúng được đề xuất với
Đảng nhằm góp phần hồn thiện đường lối, chính sách và tạo cơ sở để đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng đi vào cuộc sống.
Như vậy, có thể nói sự tồn tại, phát triển, vững mạnh của các TCCSĐ
luôn luôn quyết định sự tồn tại, phát triển vững mạnh của toàn Đảng, của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Nước ta. Do đó, việc chăm lo xây dựng củng cố các TCCSĐ
nói chung, các tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nói riêng là một yêu cầu khách


20

quan, là vấn đề then chốt, có ý nghĩa hết sức quan trọng, là trách nhiệm của toàn
Đảng, của cấp uỷ các cấp.

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, dù ở giai đoạn nào của cách mạng
Việt Nam do Đảng lãnh đạo, các TCCSĐ luôn là gốc rễ, là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, bảo đảm cho đường lối của Đảng đi vào
cuộc sống, đồng thời là cấp trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ
Đảng. Do vậy, Các cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở có vai trị quan
trọng quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Có thể khẳng định các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước có được thực hiện tốt hay khơng, có đi vào và trở thành hiện
thực trong cuộc sống hay khơng là nhờ vai trị lãnh đạo của các TCCSĐ. Trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các chủ trương chính sách của Đảng có đem
lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, có đem lại nguồn cổ vũ, động viên cho nhân
dân hay không, đều phụ thuộc vào vai trị lãnh đạo của Đảng nói chung và của
các TCCSĐ nói riêng. Vì vậy, xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng,
quyết định trực tiếp đến việc thực hiện thắng lợi các đường lối, quyết sách lớn
và phát triển kinh tế, giữ vững ổn định mọi mặt của đất nước.
1.2. Một số nội dung liên quan đến vai trị chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
1.2.1. Nội dung vai trò chính trị của tổ chức cơ sở Đảng
1.2.1.1. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của TCCSĐ. Để
thực hiện tốt vai trò này, các cơ sở Đảng cần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị cụ
thể các nội dung:
Tổ chức cơ sở Đảng cần bám sát các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, kế
hoạch, quyết sách của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy cấp trên để
tiếp tục thực hiện tốt, toàn diện, sâu sắc các nhiệm vụ chính trị được giao, giữ


×