Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng ở đảng bộ thành phố vinh, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HẢI

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤUCỦA CÁC TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HẢI

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ

NGHỆ AN, 2017


1
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài Luận văn thạc sĩ Chính
trị học: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở Đảng ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tập thể Ban Giám hiệu,
Phòng Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị, giảng viên, cán bộ các phịng,
ban chức năng của Trường Đại học Vinh. Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân
thành về sự giúp đỡ đó.
Tơi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Lãnh đạo Thành ủy, Các Ban
xây dựng Đảng, Đảng ủy các phường xã trên địa bàn thành phố Vinh nơi tôi
nghiên cứu đề tài. Trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Chính trị,
Tiến sĩ Vũ Thị Phương Lê và những thầy, cô, bạn bè đã hướng dẫn và chỉ bảo
cho Tơi hồn thành Luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các bạn, các anh, các chị, các em lớp Cao học
Chính trị khóa 23, Các đồng chí lãnh đạo cơ quan và đồng nghiệp của tôi đang
công tác tại cơ quan Hội Nông dân tỉnh Nghệ An và gia đình đã động viên,
khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, thực hiện và
hoàn thành Luận văn. Với những kiến thức đã học được tơi sẽ vận dụng vào q
trình cơng tác chuyên môn được giao một cách sáng tạo nhất.
Nghệ An, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải



2
MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ 1
MỤC LỤC ..................................................................................................... 2
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................. 3
B. NỘI DUNG ............................................................................................. 10
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO .. 10
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG ............................. 10
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng ...... 10
1.2. Quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng .... 18
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng ........................................................................................ 25
Kết luận chương 1....................................................................................................... 29
Chương 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH, 30
TỈNH NGHỆ AN ......................................................................................... 30
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và đặc điểm tổ chức cơ
sở đảng ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An .................................................. 30
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng
bộ thành phố Vinh trên một số lĩnh vực tiêu biểu..................................................... 42
2.3. Nguyên nhân kết quả của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ thành phố Vinh và bài học kinh nghiệm ......... 54
Kết luận chương 2....................................................................................................... 62
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY .................................................................................................. 63

3.1. Quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Vinh ................................................................................ 63
3.2. Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảngở Đảng bộ thành phố Vinh ................................................................................. 66
Kết luận chương 3....................................................................................................... 93
C. KẾT LUẬN ............................................................................................. 95
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 97
E. PHỤ LỤC .............................................................................................. 102


3
A. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến việc xây
dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người căn dặn: Đảng phải luôn
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phải luôn tự chỉnh đốn để hoàn thành
nhiệm vụ vẻ vang. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta luôn coi trọng việc
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Thực tiễn hơn 87 năm qua
đã khẳng định ý nghĩa to lớn của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), góp phần quan trọng xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam vững mạnh, thực sự là đội tiên phong của giai cấp công

nhân Việt Nam. Nhiều TCCSĐ đã giữ vững và phát huy được vai trị hạt nhân
chính trị ở cơ sở; thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị, cơng tác chun mơn
của địa phương, cơ quan, đơn vị.Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở đã đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở
rộng hơn. Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách,
trưởng thành qua thực tiễn công tác. Bên cạnh kết quả đạt được, khơng ít
TCCSĐ chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; một số nơi
chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp; năng lực lãnh đạo và sức chiến


4
đấu của tổ chức đảng cịn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu; chất lượng
sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ hiệu quả thấp; công tác cán bộ, đảng
viên cịn bị bng lỏng; trình độ, năng lực của đội ngũ đảng viên còn nhiều hạn
chế; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm
sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân;
mơ hình TCCSĐ còn những vấn đề chưa hợp lý, chưa thống nhất.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nhận định: “Cơng tác xây dựng Đảng
vẫn cịn khơng ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lịng tin của
nhân dân đối với Đảng; nếu khơng được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ” [21, tr.2]. Những hạn chế, khuyết
điểm trên có nhiều nguyên nhân, trong đó là sự phát triển nhanh của nền kinh tế,
nảy sinh những vấn đề mới, tác động tiêu cực đến công tác xây dựng đảng;
nhiều TCCSĐ chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu
xây dựng, củng cố TCCSĐ trong tình hình mới; một số quy định về chức năng,
nhiệm vụ, chế độ, chính sách cho cơ sở chậm được ban hành, điều chỉnh; sự
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở chưa
thường xuyên. Song, nguyên nhân quan trọng nhất là do năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của TCCSĐ chưa cao; vị trí, vai trị của TCCSĐ chưa được nhận thức

đầy đủ; chưa có giải pháp hiệu quả nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của cấp ủy, tổ chức đảng.Đặc biệt hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới,
khu vực đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; kẻ thù tăng
cường chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hịa bình” mà
trọng điểm là địi xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
hơn lúc nào hết, địi hỏi các TCCSĐ cần phải trong sạch, vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


5
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt
động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các TCCSĐ là điều kiện bảo đảm
cho sự vững mạnh của tồn Đảng. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các TCCSĐ là cơ sở vững chắc đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
của cách mạng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Nhận thức được vị trí, vai trị và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt
quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ nhằm tạo cơ sở cho sự thống
nhất tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng.
Nghị quyết Trung ương 23 (khóa III) (1974) là nghị quyết chuyên đề đầu
tiên của Trung ương về công tác xây dựng Đảng với nội dung “Tăng cường sự
lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng”. Từ đó đến nay đã có nhiều Nghị
quyết về xây dựng Đảng được ban hành. Hiện nay, Đảng ta đang triển khai quán
triệt học tập Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng,
chỉnh đối Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống;những biểu hiện“tự diễn biến”,“tựchuyển hóa” trong nội bộ.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã rất

chú trọng tới cơng tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các TCCSĐ đã
có chuyển biến tích cực; số lượng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh ngày càng
nhiều, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất là
trong phát triển kinh tế - xã hội, trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay,vẫn cịn
khơng nhỏ số lượng TCCSĐ ở thành phố Vinhchưa đủ năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu chưa ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất đồn kết, mâu
thuẫn nội bộ, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ
tự phê bình và phê bình khơng được duy trì thường xun và nghiêm túc;


6
nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn trọng; vẫn cịn hiện tượng đảng viên
suy thối về đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng chưa được xử lý nghiêm.
Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được phát hiện
và xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý khơng đến nơi, đến
chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phơ trương, hình thức vẫn
cịn xảy ra phổ biến, có nhiều TCCSĐ đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng thực
tế chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chưa tương xứng.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các TCCSĐở Đảng bộ thành phố Vinh, để từ đó xây dựng
những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết
và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, chúng tơi chọn
đề tài Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay làm
Luận văn thạc sĩ chun ngành Chính trị học.
Trong thời gian qua, có rất nhiều bài viết, cơng trình đã trực tiếp hoặc
gián tiếp nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ.Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu sau đây:

Đề tài khoa học cấp Bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng TCCSĐ
ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay”, do tác
giả Nguyễn Minh Bích (1998) làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung phân tích thực
trạng TCCSĐ và xây dựng một số giải pháp để củng cố và kiện toàn các TCCSĐ
ở vùng núi, vùng cao phía Bắc Tổ quốc.
Một số sách tham khảo: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong thời kỳ mới doGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa
và PGS.TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở
Thủ đô Hà Nội hiện nay của tác giả PGS.TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên (2004),


7
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Cơng tác xây dựng Đảng và đổi mới phương
thức của Đảng trong thời kỳ mới của tập thể tác giả, Đại tá Lê Hải Triều chủ
biên (2011), Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội; Xây dựng và chỉnh đốn Đảng Một số vấn đề lý luận và thực tiễnGS.TS Nguyễn Phú Trọng (2012), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội;cuốn sách Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt
để phát triển đất nước của GS.TS Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị Quốc giaSự thật phát hành (2/2017).
Đề tài Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001): “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nơng thơn vùng cao
phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Một số đề tài luận văn thạc sĩ: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện
naycủa tác giả Dương Trung Ý (2002); Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng nơng thơn vùng có đơng đồng bào cơng giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp của tác giả Bùi Hữu
Dược (2003); Luận văn thạc sỹ Chính trị học: Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay của Trần Trúc Giang (2015).
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và

thực tiễn về TCCSĐ, đó cũng là nền tảng để chúng ta nghiên cứu, áp dụng vào
thực tiễn và tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay.Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu
khoa học nào đi sâu nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
TCCSĐ ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.Vì vậy, đề tài “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” không trùng lặp với
các cơng trình đã cơng bố.


8
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng và rút ra những kinh nghiệm trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ ở Đảng bộ thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An;
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các TCCSĐ ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ ở Đảng bộ thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các

TCCSĐ trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, bao gồm loại hình cơ sở
đảng xã, phường và loại hình cơ sở đảng của các cơ quan, đơn vị hành chính sự
nghiệp và doanh nghiệp trực thuộc Đảng bộ thành phố Vinh. Các số liệu dùng
để phân tích thực trạng các TCCSĐ thành phố Vinh được tác giả khảo sát và
tổng hợp theo báo cáo hàng năm và báo cáo nhiệm kỳ 2011- 2015 của Thành ủy
Vinh, Ban Tổ chức Thành ủy và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy từ năm 2011 đến
2015, định hướng giải pháp đến năm 2020.


9
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: lịch sử
- lơgic, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với
tổng kết thực tiễn,…
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng những tiêu chí
đánh giá chất lượng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Đồng thời,
đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả làm được,
những tồn tại, hạn chế đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời
làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy và đảng viên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



10
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ
sở đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam là một tổ chức thống nhất về chính trị, tư tưởng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Tính tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thống các
cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Trong hệ thống đó, các tổ chức cơ sở đảng bao gồm chi bộ cơ sở và
đảng bộ cơ sở lập thành nền tảng của Đảng.
Khái niệm TCCSĐ được Đảng ta ghi rõ ở Điều 21 - Điều lệ Đảng Cộng
sản Việt Nam: TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở
lên, lập TCCSĐ (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp
tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba
đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (TCCSĐ hoặc chi bộ trực thuộc
đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng
đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính
thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở TCCSĐ thích
hợp. TCCSĐ dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực
thuộc. TCCSĐ có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ
trực thuộc đảng ủy. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và
được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện: Lập đảng bộ cơ sở



11
trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên; lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ
sở có hơn ba mươi đảng viên; lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở [20,
tr.35-37].
Theo quy định trên, khái niệm TCCSĐ được gọi chung cho cả chi bộ cơ
sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ
thể từng đơn vị cơ sở.
1.1.2. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng
Ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí, vai trị đặc biệt của chi bộ Đảng. Khi
tham gia vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” (1836) thành
“Liên đồn những người cộng sản” (1847-1852), điều lệ đã được khởi thảo.
Thông qua điều lệ, những quan điểm và tư tưởng cơ bản của C.Mác và
Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận
điểm xây dựng Đảng đã xác định “Về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ,
Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội[27, tr.733.
Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức
chặt chẽ: để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, cịn nhất
thiết phải có “Được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “Việc kết nạp hội viên mới của
Liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến hành, với
điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ” [27, tr.732-733. Điều đó cho
thấy, hội viên của Liên đồn phải sinh hoạt ở một tổ chức cấp cơ sở của Liên
đồn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ khơng những quy định đối với hội viên mà
cịn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là
20 hội viên của liên đoàn”, “…sống trong cùng một địa phương”. Việc lãnh đạo
của liên đoàn phải được tiến hành dân chủ, kịp thời và bắt đầu từ chi bộ: “Mỗi
chi bộ bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch…Các Chủ tịch và Phó Chủ tịch của các chi
bộ ấy họp thành Ban Chấp hành khu bộ. Ban Chấp hành bầu ra người lãnh đạo
trong số ủy viên của mình. Ban Chấp hành khu bộ liên lạc với các chi bộ của



12
mình và với tổng bộ. Ban Chấp hành khu bộ là cơ quan quyền lực đối với tất cả
các chi bộ thuộc khu bộ” [27, tr.733-734.
Từ những tư tưởng, quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chi bộ: “Để khỏi tụt xuống làm vai trò của
kẻ vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư sản, công nhân và trước hết là liên đoàn
phải cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức Đảng
riêng biệt, bí mật và cơng khai của cơng nhân và biến mỗi chi bộ thành trung
tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân” [27, tr.348].
Những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, được
V.I.Lênin lấy làm cơ sở, vận dụng, phát triển có sáng tạo thành hệ thống những
tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ sở của
Đảng vô sản của nước Nga là Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp cơng
nhân do V.I.Lênin thành lập năm 1895. Trong tác phẩm Về việc cải tổ Đảng và
nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như trong bài báo Đi vào con đường
thẳng, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng ở các công
xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tịa nhà của Đảng Bơnsêvích được xây
dựng. V.I.Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập chi bộ
Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương
và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ
sở.“Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự lãnh
đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ cơng nhân và sâu sát
với quần chúng. Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây dựng hạt
nhân vững chắc khơng gì lay chuyển nổi của phong trào công nhân cách mạng
và dân chủ - xã hội” [26, tr.8.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải
trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực
tiễn trong quần chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối

Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với


13
quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị
chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến Cách mạng tháng Mười Nga, ngoài
những chi bộ ở nhà máy, cơng xưởng cịn có các chi bộ theo lãnh thổ, ở các câu
lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của Người và là một
địn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng, Đảng Bơnsêvích
hình như được xây dựng không phải như một Đảng của giai cấp cơng nhân mà
chỉ là một Đảng trí thức.
Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII
toàn Nga của Đảng Cộng sản Nga (Đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi và chính quyền Xơ Viết được thành lập), Điều lệ
Đảng đã được bổ sung và khẳng định: cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng.
Điều lệ cịn nói rõ: các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng, các đơn
vị Hồng quân và các cơ quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập tổ chức Đảng đã phân tích khá sâu
sắc vị trí, vai trị của chi bộ “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi
việc sẽ tốt” [29, tr.210. Người còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất lượng chi
bộ với chất lượng toàn Đảng. Theo Người, để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải
mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ tốt” [29, tr.210. “Chi bộ là nền móng của Đảng,
chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, ngược lại “Xây dựng chi bộ tốt, chi bộ vững mạnh
là một việc vô cùng quan trọng” [29, tr.77. Như vậy, chất lượng của chi bộ có
quan hệ chặt chẽ và biện chứng với chất lượng của Đảng. Đối với quần chúng,
Người viết “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở
cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa
phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương” [30, tr.28]. Người còn
chỉ rõ “Chi bộ là gốc rễ của Đảng trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính
sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không

ngừng.Trái lại, chi bộ yếu kém thì cơng việc khơng trơi chảy”[30, tr.161.


14
Trong q trình xây dựng Đảng, Đảng ta ln ln xác định chi bộ có một
vị trí, vai trị quan trọng: là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan trọng
giữa Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn, Cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết: “Nói đến
xây dựng Đảng, trước hết phải nói đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ là TCCSĐ, là
nơi gắn liền Đảng với quần chúng, là nơi vận động quần chúng thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng… Chi bộ còn là nơi giáo dục rèn luyện Đảng viên, mọi
nhân tài của Đảng, trước hết nảy nở ở chi bộ và từ đó mà đưa dần lên cấp lãnh
đạo Đảng từ huyện, tỉnh cho tới Trung ương” [8, tr.154.
Quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận
dụng thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là TCCSĐ đảm
bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác
ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới hịên nay, vị trí, vai
trị nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ hết. Thật vậy, qua
các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII cũng đã thể hiện
rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng lần thứ XII
thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”[20, tr.35.
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi TCCSĐ (chi bộ cơ
sở, đảng bộ cơ sở) là một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố bảo đảm cho
sự phát triển bền vững của tồn Đảng. Hơn nữa, TCCSĐ khơng những là tế bào
cấu thành cơ thể sống, các TCCSĐ còn là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự
sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã hội. Chính vì vậy, mà TCCSĐ trở thành
hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa đường lối
chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy, đồng
thời qua hiện thực sinh động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện vọng của quần

chúng để phản ánh với Đảng. Hơn nữa, TCCSĐ là nơi hàng ngày đảng viên sinh
hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện đảng viên, nơi sàng


15
lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày nay, trong công
cuộc đổi mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có TCCSĐ trong sạch, vững
mạnh, nội bộ đồn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt, an ninh
chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng không
ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày càng thắt
chặt. Ngược lại, nơi nào TCCSĐ yếu kém, mất đồn kết, đảng viên khơng
gương mẫu và tiên phong thì lịng tin đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế
mạnh của địa phương không được khai thác, chủ trương, đường lối của Đảng
thực hịên không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được thực hiện, quyền
làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
- Chức năng:
Đảng bám sát quy định chức năng, nhiệm vụ mà lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị cụ thể. Tại điều 1, Quy định số 94-QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng quy định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi
bộ cơ sở, phường, thị trấn: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn là hạt nhân
chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước
và quản lý đơ thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,
phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước” [16, tr.1.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đã quy định
rất cụ thể chức năng của TCCSĐ là lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ theo đúng

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt hiệu
quả cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.


16
Bất kỳ chủ trương, giải pháp nào đề ra và quá trình lãnh đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, TCCSĐ phải ln ln đảm bảo tính chính trị, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo sự phát triển về mọi mặt: kinh tế,
chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả cơng tác chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu. Kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực, bức
xúc của nhân dân.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tồn diện và duy nhất, khơng có lĩnh vực nào
trong xã hội khơng có sự lãnh đạo của Đảng; Đảng là hạt nhân chính trị, TCCSĐ
đều phải hết sức nhạy cảm, nắm vững những vấn đề chung và những vấn đề cụ
thể để có những chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn và sâu sát với tình
hình thực tiễn. Thực tế cho thấy, một số nơi, một số địa phương do không làm
tốt chức năng lãnh đạo nên dẫn đến tham nhũng, quan liêu, lãng phí, mất dân
chủ, chia rẽ nội bộ, nhiều năm liền không đạt trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chức năng lãnh đạo của
TCCSĐ còn thể hiện ở việc phải biến được các đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
- Nhiệm vụ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể nhiệm vụ của từng loại hình chi
bộ.Đối với chi bộ cơ quan, nhiệm vụ cụ thể là: “Làm sao cho toàn thể nhân viên
đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ, hết lịng hết
sức phục vụ nhân dân… vì nhân dân, vì Tổ quốc mà đấu tranh, đều thi đua làm
đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng, của Chính phủ” [33, tr.453-454].
Đối với chi bộ ở nơng thơn là: “Tăng cường đồn kết nơng thơn và làm cho tồn
thể xã viên, tồn thể nơng dân phấn khởi, hăng hái sản xuất, thực hành tiết kiệm,

phát triển và củng cố hợp tác xã…phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh
lệnh” [34, tr.222].
Cũng như chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ tùy theo hình thức các cấp
mà có nhiệm vụ riêng. Tuy nhiên, tất cả các TCCSĐ đều có nhiệm vụ chung như
điều 23 Điều lệ Đảng đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII quy định:


17
+ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề
ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
+ Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường
đồn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý
cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác, làm công tác phát triển đảng viên.
+ Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức Đảng
và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết
định kết nạp và khai trừ đảng viên [23, tr.39-41.
Trên cơ sở các nhiệm vụ nói trên, TCCSĐ cần cụ thể hóa thành những
nhiệm vụ phù hợp với tình hình, đặc điểm của mình và trong từng giai đoạn nhất

định. Cụ thể như: quán triệt và thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hóa gia
đình, thực hiện chính sách xã hội, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân hoàn thành nghĩa
vụ đối với nhà nước, lãnh đạo phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã hội,
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; lãnh đạo tốt nhiệm vụ quốc phịng an
ninh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…


18
Tóm lại, có 5 nhiệm vụ cơ bản mà các TCCSĐ cần thực hiện như sau:
Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Hai là, lãnh đạo cơng tác tư tưởng.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ
Bốn là, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân.
Năm là,xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh.
1.2. Quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng
1.2.1. Quan điểm về năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Khái niệm năng lực được hiểutheo hai nghĩa khác nhau: Theo nghĩa hẹp,
năng lực để phân biệt với phẩm chất, là một trong hai thành tố cơ bản của nhân
cách.Theo nghĩa rộng, năng lực bao gồm cả phẩm chất đạo đức vì trong con
người, đạo đức (tổng hợp các phẩm chất) là cái gốc của tài (năng lực), giữa
chúng thường thống nhất chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề và điều kiện cho nhau
phát triển.Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm năng lực với nghĩa
rộng khi nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng nước ta cần có những con người có
nhân cách tồn diện, có đầy đủ cả đức lẫn tài, vừa “Hồng” vừa “Chuyên”. Như
vậy, năng lực là sự xã hội hóa tiềm năng, khả năng của con người. Năng lực
không chỉ là tiềm năng, khả năng của con người mà cịn là mức độ làm việc và
đóng góp của họ cho xã hội. Kết quả và hiệu quả hoạt động là chỉ báo cơ bản và

quan trọng nhất để đánh giá năng lực của con người.
Lãnh đạo, theo khoa học chính trị, là sự dẫn dắt xã hội bằng chính trị và
đạo đức của người đứng đầu; là một chức năng cơ bản của đảng cầm quyền,
lãnh tụ quốc gia, nhằm đưa đất nước tới các mục tiêu nhất định bằng cương lĩnh,
đường lối chính trị, các chiến lược phát triển, công tác tổ chức - cán bộ,…
Như vậy có thể hiểu, lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chiến lược
và sách lược để phát triển một đơn vị, một ngành, một địa phương, một đất nước
và dẫn dắt, cổ vũ đơn vị, ngành, địa phương,…thực hiện theo đúng chủ trương,
đường lối đề ra.


19
Năng lực lãnh đạo là khả năng của một tập thể hay cá nhân trong việc đề
ra mục tiêu, chủ trương đường lối và khả năng tổ chức, dẫn dắt tập thể, thực hiện
thắng lợi đường lối đó.
Năng lực lãnh đạo của Đảng, theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái
niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng (2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ
biên thì năng lực lãnh đạo của Đảng là “Khả năng đề ra được mục tiêu cách
mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như trong từng thời kỳ và bằng những
phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có
hiệu quả” [36, tr.38].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội
dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ
thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
+ Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảnglà khả năng thực tế
được cụ thể hóa bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến
lược và sách lược của Đảng, đồng thời nó phải là sự định hướng phát triển cho
cảthời kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu, am hiểu để dự báo, tổng kết
thực tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương và xây dựng
giải pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực liên quan đến

đời sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
+ Năng lực xây dựng nghị quyết của Đảng là những vấn đề được nghiên
cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị (có nhiều loại và do
nhiều cấp bộ Đảng khác nhau quyết nghị). Đặc trưng cơ bản của nghị quyết là
biểu quyết tập thể, ý chí và trí tuệ tập thể, sự đúc kết sâu sắc từ kinh nghiệm
thực tiễn phong phú và thể hiện đầy đủ quyền dân chủ.
+ Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng là khả năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị để từ đó
tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp nhất thực hiện thắng lợi những
mục tiêu đề ra.


20
+ Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm
nghiệm thực tiễn những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những ưu
điểm, nhược điểm, tồn tại, hạn chế; đồng thời phát hiện những biểu hiện tiêu
cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đó. Có thể
nói đây là một trong những vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm để làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, năng lực lãnh đạo của TCCSĐ là khả năng nắm vững những chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của
cấp trên giao và vận dụng sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn
đối với công tác lãnh đạo ở địa phương.
1.2.2. Quan điểm về sức chiến đấu củatổ chức cơ sở đảng
Sức chiến đấu của một tổ chức hay một cá nhân là sức mạnh, khả năng
làm việc, hoạt động hoặc khả năng tác động của một tổ chức, một tập thể hay cá
nhân đối với công việc, hoặc đối với những tổ chức, tập thể hay cá nhân khác và
những lực lượng gây nguy hại cho mình.
Sức chiến đấu của Đảng là “sức lực của bản thân Đảng” để chiến đấu,

vượt qua “những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù địch với lý tưởng
và sự nghịêp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực trong xã
hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những khó khăn
khách quan của đất nước,của tình hình kinh tế xã hội trong bước đường đi lên”
[36, tr.39].
Sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, là sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức mạnh, sức bền
nội tại của Đảng, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ, là khả năng đấu tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch
trên các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng - tổ chức, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính
tiên phong, gương mẫu của Đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy
tín của Đảng trong quần chúng. Từ đó có thể thấy sức chiến đấu của Đảng được
biểu hiện:


21
+ Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và
thách thức trong và ngồi nước.
+ Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
+ Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những
phần tử thối hóa biến chất, tham nhũng ra khỏi Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự
tác động của những quan điểm, tư tưởng phản động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ.
+ Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đồn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh
đạo và sinh hoạt Đảng.
+ Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và
vai trị tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên.
+ Lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ
đảng viên.

Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể nhận thấy sức chiến đấu của
TCCSĐ là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống nhất về
ý chí và hành động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác động làm suy yếu
TCCSĐ, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị ở địa phương.
Như vậy, TCCSĐ có sức chiến đấu cao là thể hiện ở những nội dung chủ
yếu: Chất lượng hoạt động của chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở, trình độ chun mơn
nghiệp vụ, ý thức tự giác và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của
đảng viên và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Khả năng khắc phục
những khó khăn và yếu kém, những biểu hiện tiêu cực, những sai trái trong chi
ủy, đảng ủy và trong nhân dân.Đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái mới, phê phán cái
cũ, lạc hậu và các thế lực thù địch. Đặc biệt, là mỗi đảng viên phải “vừa hồng,
vừa chuyên”, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật Đảng, nhất
là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, khơng bè phái làm mất
đồn kết nội bộ.


22
1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
Từ quan niệm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ có thể thấy
rằng: năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là vấn đề cơ bản nhất và
quyết định đối với khả năng lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ
và nó là những căn cứ chủ yếu để xây dựng, đồng thời là căn cứ xem xét, đánh
giá về TCCSĐ có trong sạch, vững mạnh hay không.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ luôn vận động, phát triển
theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể mà cơng tác lãnh đạo có những trọng tâm
khác nhau.Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là khả năng nắm bắt
và xử lý đúng những công việc trọng tâm đó.Hơn nữa, giữa chúng có tác động

qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, có những nội dung của mặt này cũng đồng thời thể
hiện nội dung của mặt kia và ngược lại; song, chúng khơng hồn tồn đồng nhất
mà mỗi mặt có những biểu hiện đặc trưng, có tính độc lập tương đối.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ tốt sẽ là cơ sở cho sức chiến đấu cao, đồng
thời, TCCSĐ có sức chiến đấu cao là điều kiện để năng lực lãnh đạo tốt. Do đó,
sức chiến đấu cao thì năng lực lãnh đạo càng tốt và ngược lại. Thực tế cho thấy
giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu rất khó chia tách rạch rịi vấn đề nào là
của năng lực lãnh đạo và vấn đề nào của sức chiến đấu.
Có thể nói, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là khả năng
nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết của cấp trên và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn
của địa bàn dân cư, là khả năng tập trung được nguồn lực, khai thác được thế
mạnh của địa phương, phát huy được sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ. Bên cạnh đó, cịn là khả năng tuyên truyền,
vận động và tổ chức quần chúng thực hiện tốt các yêu cầu đề ra, là việc thực
hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung


23
dân chủ, tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện tiêu
cực trong TCCSĐ và trong nhân dân, bảo vệ những cái đúng, cái mới phù hợp
với xu hướng chung của những tổ chức, cá nhân; đấu tranh những vi phạm điều
lệ Đảng và pháp luật.
Như vậy, những nhân tố cấu thành năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
không chỉ là chất lượng của TCCSĐ, là sức mạnh của bản thân, đây còn là khả
năng phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, khả năng huy động và vận
động quần chúng nhân dân.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
Nhằm đánh giá đúng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ,

chúng ta phải căn cứ vào các nhiệm vụ của nó. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một
văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của TCCSĐ, mà chỉ vận dụng các quy định của TCCSĐ để áp dụng cho
việc đánh giá. Theo chúng tơi để xây dựng tiêu chí để đánh giá năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ cần căn cứ vào các quy định sau:
+ Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thơng qua tại Đại hội
Đại biểu tồn quốc lần thứ XII của Đảng.
+ Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐtheo
tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VIII).
+ Đẩy mạnh xây dựng, kiện tồn và tăng sức chiến đấu cho TCCSĐ gắn
với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở và phong trào cách
mạng của quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX).
+ Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng
TCCSĐ, đảng viên hàng năm.


×