Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng ở huyện thới lai, thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

NGUYỄN VĂN PHONG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁC
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN THỚI LAI,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2017


1
Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

NGUYỄN VĂN PHONG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁC
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN THỚI LAI,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Viết Quang

NGHỆ AN - 2017


2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện Đề tài Luận văn Thạc sĩ Chính
trị học: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện
Thới Lai, thành phố Cần Thơ”, Tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của tập thể Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính
trị…,giảng viên, cán bộ các phịng, ban chức năng của Trường Đại học Vinh và
Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại học…, giảng viên, cán bộ các phòng, ban chức
năng của Trường Đại học Đồng Tháp. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về
sự giúp đỡ đó.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Lãnh đạo Đảng, đoàn thể, Ban
Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Chính trị, Phó Giáo Sư, Tiến sĩ Trần Viết Quang và
những thầy, cô, bạn bè đã hướng dẫn và chỉ bảo cho Tơi hồn thành Luận văn
này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các bạn, các anh, các chị, các em lớp Cao học
Chính trị khóa 23, các đồng chí trong cơ quan của Tôi đang công tác tại Ban Tổ
Chức Huyện ủy Thới Lai, Thành phố Cần Thơ và gia đình đã động viên, khích
lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ Tơi trong suốt q trình học tập, thực hiện và hoàn
thành Luận văn này. Với những kiến thức đã học được Tôi sẽ vận dụng vào thực
tế cuộc sống và thực tiễn nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo nhất.
Nghệ An, ngày tháng năm 2017
Tác giả Luận văn

Nguyễn Văn Phong



3
MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

1

Lời cảm ơn

2

Mục lục

3

A. MỞ ĐẦU

4

B. NỘI DUNG

10

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Tổ chức cơ sở Đảng


10

1.2. Năng lực lãnh đạo và tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng

18

1.3. Yêu cầu và những yếu tố ảnh hưởng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng

24

Chương 2 NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tổ chức cơ sở Đảng
huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
2.2. Năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng huyện Thới Lai, thành
phố Cần Thơ
2.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN THỚI LAI, THÀNH
PHỐ CẦN THƠ
3.1. Quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở
huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
ở huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
C. KẾT LUẬN

40

10


40
49
59
70

70
72
98

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

100

E. PHỤ LỤC

105


4
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Giữ vững bản chất và tăng cường

vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta hiện nay.
Thực tiễn hơn 87 năm qua, từ khi thành lập Đảng 1930 đến nay. Đặc biệt
trong quá trình đổi mới của đất nước ta, Đảng đã lãnh đạo đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp
cách mạng to lớn được thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ và thuận lợi,
vừa có khó khăn và thách thức đan xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi
Đảng phải tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn bảo đảm cho Đảng thực sự vững
mạnh ngang tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là
cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Tổ chức cơ sở Đảng có vị trí, vai trị quan trọng
trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng
lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhận thức được vị trí, vai trị và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan
tâm đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh
đạo của các tổ chức cơ sở Đảng nhằm tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng


5
trong Đảng và trong nhân dân để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Do
đó, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 23 (khóa III) về
“Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng” (Đây là nghị
quyết chuyên đề đầu tiên của Trung ương về công tác xây dựng Đảng), Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VI) về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng",
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VI) về "Một số vấn đề cấp bách về cơng tác tư
tưởng”, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về “Đánh giá tình hình và nhiệm
vụ của Đảng trong tình hình mới”, Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII)

về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng”, Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa IX) về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6
lần 2 (khóa VIII)”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay" và gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biễu hiện “Tự diễn biến” “Tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Qua thời gian thực hiện, chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng đã được
nâng lên, số lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số
lượng tổ chức cơ sở Đảng yếu kém giảm dần; nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã lãnh
đạo và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong công
cuộc đổi mới, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở. Chính vì vậy, trong thời gian qua, có rất nhiều bài viết,
cơng trình đã trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện
nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích (1998) làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung phân
tích thực trạng tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng một số giải pháp để củng cố và
kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng ở vùng núi, vùng cao phía Bắc tổ quốc.


6
- Đề tài Luận án Phó Tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng
nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh (1995).
- Đề tài Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nơng thơn vùng cao phía
Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Một số đề tài Luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các
Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay” của tác

giả Dương Trung Ý (2002); “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các chi bộ phân
đội chiến đấu phịng khơng thuộc qn chủng phịng khơng - khơng qn trong
giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Học (2001); “Năng lực lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng nông thôn vùng có đơng đồng bào cơng giáo ở tỉnh Nam Định
trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu Dược
(2003); “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả Phùng Đức Thái (2000);
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Long
An hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Dũng (2000)…
Ngoài một số bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí cịn có một
số sách tham khảo: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới”
GS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt
đồng chủ biên (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Nâng cao năng lực lãnh
đạo của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả,
PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Công tác xây dựng Đảng và đổi mới phương thức của Đảng trong thời kỳ mới”
của tập thể tác giả, Đại tá Lê Hải Triều chủ biên (2011), Nxb Chính trị Hành
chính, Hà Nội; “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” GS, TS Nguyễn Phú Trọng (2012), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;...
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về tổ chức cơ sở Đảng, đó cũng là nền tảng để chúng ta nghiên cứu, áp
dụng vào thực tiễn và tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn


7
chế trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ
sở Đảng ở huyện Thới Lai, có thể nói “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ
chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ” là đề tài khoa học
đầu tiên nghiên cứu về các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, thành phố Cần

Thơ cho tới thời điểm hiện tại.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ huyện Thới Lai đã rất chú trọng tới
cơng tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các tổ chức cơ sở Đảng đã có
chuyển biến tích cực; số lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh ngày
càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất
là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, so với u cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn cịn
khơng nhỏ số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai chưa đủ năng lực lãnh
đạo ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất đồn kết, kèn cựa, thiếu hợp
tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê
bình khơng được duy trì thường xun và nghiêm túc; nguyên tắc tập trung dân
chủ chưa được tôn trọng; vẫn cịn hiện tượng đảng viên suy thối về đạo đức, lối
sống. Một số vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được
phát hiện và xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý không đến
nơi, đến chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phơ trương, hình
thức vẫn cịn xảy ra, có tổ chức cơ sở Đảng đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng
thực tế chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ thấp.
Trong những năm gấn đây, Đảng bộ huyện Thới Lai rất chú trọng đến cơng
tác xây dựng chỉnh đống Đảng, nhìn chung các tổ chức cơ sở Đảng đã có chuyễn
biến tích cực, số lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh ngày càng
nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất là
trong phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh toàn diện thời kỳ cơng nghiệp hóa-hiện
đại hóa một cách đồng bộ mang lại hiệu quả cao.


8
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế về năng lực lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, để từ đó xây dựng những giải
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết và cấp

bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên chọn đề tài “Nâng cao
năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, Thành phố
Cần Thơ” làm Luận văn Thạc sĩ khoa học Chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận của việc cao năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở
Đảng ở huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
ở huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các tổ chức cơ sở Đảng và năng lực lãnh đạo của các
tổ chức cơ sở Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai,
thành phố Cần Thơ. Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các tổ chức cơ sở
Đảng ở huyện Thới Lai được tác giả khảo sát và tổng hợp theo các Nghị quyết,
Đề án chuyên đề và các báo cáo kết quả thực hiện hàng năm của Huyện ủy, Ban


9
Tổ chức Huyện ủy và các Ban xây dựng Đảng Huyện ủy từ năm 2012 đến 2016,
định hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, những
kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phân tích, tổng hợp, khảo sát, thống
kê, so sánh, v.v..
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng những tiêu chí đánh
giá chất lượng năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng. Đồng thời, đánh
giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả làm được, những
tồn tại, hạn chế đối với năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở huyện
Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng ở huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
- Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời
làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy và đảng viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.


10
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG

1.1. Tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng

Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được Đảng ta ghi rõ ở Điều 21 - Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam: Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở
cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và
các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức
cơ sở Đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem
xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp;
nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp. Tổ chức cơ sở Đảng dưới ba mươi
đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở Đảng có từ
ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên
trực tiếp đồng ý mới được thực hiện: Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa
đủ ba mươi đảng viên; lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng
viên; lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở [21, tr.35-37].
Theo quy định trên, khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được gọi chung cho cả
chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu
nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở.
1.1.2. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng
Ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí, vai trị đặc biệt của chi bộ Đảng. Khi


11
tham gia vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” (1836) thành
“Liên đồn những người cộng sản” (1847-1852),, điều lệ đã được khởi thảo.
Thông qua điều lệ, những quan điểm và tư tưởng cơ bản của C.Mác và
Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận
điểm xây dựng Đảng đã xác định “Về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ,

Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội” 33, tr .733..
Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức
chặt chẽ: Để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, cịn nhất
thiết phải có “Được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “Việc kết nạp hội viên mới của
liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến hành, với
điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ” 33, tr.732-733.. Điều đó cho
thấy, hội viên của Liên đồn phải sinh hoạt ở một tổ chức cấp cơ sở của Liên
đoàn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ khơng những quy định đối với hội viên mà
cịn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là
20 hội viên của liên đoàn”, “…sống trong cùng một địa phương”. Việc lãnh đạo
của liên đoàn phải được tiến hành dân chủ, kịp thời và bắt đầu từ chi bộ: “Mỗi
chi bộ bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch…Các Chủ tịch và Phó Chủ tịch của các chi
bộ ấy họp thành Ban Chấp hành khu bộ. Ban Chấp hành bầu ra người lãnh đạo
trong số ủy viên của mình. Ban Chấp hành khu bộ liên lạc với các chi bộ của
mình và với tổng bộ. Ban Chấp hành khu bộ là cơ quan quyền lực đối với tất cả
các chi bộ thuộc khu bộ”.
Từ những tư tưởng, quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vị
trí, vai trị đặc biệt quan trọng của chi bộ: “Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ
vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư sản, cơng nhân và trước hết là liên đồn
phải cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức Đảng
riêng biệt, bí mật và cơng khai của công nhân và biến mỗi chi bộ thành trung
tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân” [32].
VI.Lênin đã vận dụng, phát triển sáng tạo những tư tưởng quan điểm cơ
bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng hệ thống những tư tưởng, quan điểm


12
về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ sở của Đảng vô sản của nước
Nga là “Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp cơng nhân” do V.I.Lênin thành
lập năm 1895. Trong tác phẩm “Về việc cải tổ Đảng” và nhiều tác phẩm khác

của Người, cũng như trong bài báo “Đi vào con đường thẳng”, Người đã thể
hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng ở các cơng xưởng, nhà máy là nền
tảng, trên đó cả tịa nhà của Đảng Bơnsêvích được xây dựng. V.I. Lênin đã nhấn
mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập chi bộ Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương và coi trọng việc xây dựng
các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở. “Những chi bộ Đảng ở các
địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự lãnh đạo của các phần tử tiên tiến
xuất thân ngay từ hàng ngũ công nhân và sâu sát với quần chúng. Đó là cơ sở
mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây dựng hạt nhân vững chắc khơng gì lay
chuyển nổi của phong trào công nhân cách mạng và dân chủ - xã hội”.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải
trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực
tiễn trong quần chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối
Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với
quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị
chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến Cách mạng tháng Mười Nga, ngoài
những chi bộ ở nhà máy, cơng xưởng cịn có các chi bộ theo lãnh thổ, ở các câu
lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của Người và là một
địn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng Đảng Bơnsêvích
hình như được xây dựng không phải như một Đảng của giai cấp cơng nhân mà
chỉ là một Đảng trí thức.
Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII
toàn Nga của Đảng Cộng sản Nga (Đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi và chính quyền Xơ Viết được thành lập), Điều lệ
Đảng đã được bổ sung và khẳng định: “Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ
Đảng”. Điều lệ cịn nói rõ: “Các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng,
các đơn vị Hồng quân và các cơ quan”.


13
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 đã được Chủ

tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [36, tr.8]. Hơn 87 năm
qua, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
từ thực tiễn xây dựng và trưởng thành đã khẳng định: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln trung thành với những tư tưởng, quan điểm cơ bản của học thuyết
Mác-Lênin về Đảng và đã vận dụng những quan điểm, tư tưởng ấy một cách
sáng tạo, phù hợp với thực tế nước ta để xây dựng Đảng; đồng thời, thường
xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lên tầm lý luận, bổ sung làm
phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin về xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích khá sâu sắc vị trí, vai trị của chi bộ “Chi
bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” 34, tr.210.. Người cịn
nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất lượng chi bộ với chất lượng tồn Đảng. Theo
Người, để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ
tốt”, “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” 34, tr.210,
ngược lại “Xây dựng chi bộ tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan
trọng”. Như vậy, chất lượng của chi bộ có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với
chất lượng của Đảng. Đối với quần chúng, Người viết “Mỗi chi bộ của Đảng
phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là
một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương theo đúng đường lối, chính sách
của Trung ương” [35, tr.28],, Người cịn chỉ rõ “Chi bộ là gốc rễ của Đảng trong
quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi
công việc đều tiến bộ khơng ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì cơng việc
không trôi chảy” 35, tr.161..
Đảng ta luôn luôn xác định chi bộ có một vị trí, vai trị quan trọng: là hạt
nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan trọng giữa Đảng với quần chúng, vận
động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn,
Cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết: “Nói đến xây dựng Đảng, trước hết phải nói



14
đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ là tổ chức cơ sở Đảng, là nơi gắn liền Đảng với
quần chúng, là nơi vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng… Chi bộ cịn là nơi giáo dục rèn luyện Đảng viên, mọi nhân tài của Đảng,
trước hết nảy nở ở chi bộ và từ đó mà đưa dần lên cấp lãnh đạo Đảng từ huyện,
tỉnh cho tới Trung ương”.
Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận
dụng thành cơng vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức cơ sở
Đảng đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
bao thác ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới hiện nay,
vị trí, vai trị nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ hết. Thật
vậy, qua các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII cũng
đã thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng
lần thứ XII thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ
cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”.
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi tổ chức cơ sở Đảng
(chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố
bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng. Hơn nữa, tổ chức cơ sở
Đảng không những là tế bào cấu thành cơ thể sống, các tổ chức cơ sở Đảng còn
là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã
hội. Chính vì vậy, mà tổ chức cơ sở Đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị
của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa đường lối chủ trương của Đảng vào
quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy, đồng thời qua hiện thực sinh
động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện vọng của quần chúng để phản ánh với
Đảng. Hơn nữa, tổ chức cơ sở Đảng là nơi hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học
tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng
viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày nay, trong công cuộc đổi
mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh, nội bộ đồn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt, an

ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng


15
không ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày
càng thắt chặt. Ngược lại, nơi nào tổ chức cơ sở Đảng yếu kém, mất đoàn kết,
đảng viên khơng gương mẫu và tiên phong thì lịng tin đối với Đảng bị giảm sút,
tiềm năng, thế mạnh của địa phương không được khai thác, chủ trương, đường
lối của Đảng thực hiện không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được
thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.3.1. Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI, XII) đã quy định rất cụ
thể chức năng của tổ chức cơ sở Đảng. Trên cơ sở quy định chức năng, nhiệm
vụ mà lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Điều 1, Quy định số 94, 95-QĐ/TW
ngày 03/3/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định về chức năng,
nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn: “Đảng bộ, chi bộ cơ
sở xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân
dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước” .
Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng là lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ theo
đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt
hiệu quả cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
Bất kỳ chủ trương, giải pháp nào đề ra và quá trình lãnh đạo tổ chức thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức cơ sở Đảng phải luôn luôn đảm bảo tính chính trị, giữ

vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tạo sự phát triển về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả cơng tác phòng chống tham nhũng, quan


16
liêu, lãng phí, kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực,
bức xúc của nhân dân.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tồn diện và duy nhất, khơng có lĩnh vực nào trong
xã hội khơng có sự lãnh đạo của Đảng; Đảng là hạt nhân chính trị, tổ chức cơ sở
Đảng đều phải hết sức nhạy cảm, nắm vững những vấn đề chung và những vấn
đề cụ thể để có những chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn và sâu sát với
tình hình thực tiễn. Thực tế cho thấy, một số địa phương do không làm tốt chức
năng lãnh đạo nên dẫn đến tham nhũng, quan liêu, lãng phí, mất dân chủ, chia rẽ
nội bộ, nhiều năm liền không đạt trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chức năng lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng còn thể hiện ở việc phải biến được các đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể nhiệm vụ của từng loại hình chi
bộ. Đối với chi bộ cơ quan, nhiệm vụ cụ thể là: “Làm sao cho toàn thể nhân viên
đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ, hết lịng hết
sức phục vụ nhân dân… vì nhân dân, vì Tổ quốc mà đấu tranh, đều thi đua làm
đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng, của Chính phủ” [36, tr.453-454].
Đối với chi bộ ở nơng thơn là: “Tăng cường đồn kết nơng thơn và làm cho tồn
thể xã viên, tồn thể nông dân phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất, thực hành
tiết kiệm, phát triển và củng cố hợp tác xã…phải kiên quyết chống bệnh quan
liêu, mệnh lệnh”.
Cũng như chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng tùy theo hình thức
các cấp mà có nhiệm vụ riêng. Tuy nhiên, tất cả các tổ chức cơ sở Đảng đều có

nhiệm vụ chung như điều 23 Điều lệ Đảng đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII quy định:
+ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, đề ra các chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả.


17
+ Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, giám sát mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước;
mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải quyết
những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp
luật, không để tích tựu trở thành những điểm nóng, khơng để xảy ra tình trạng
khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định ở nông
thôn.
+ Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đồn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác, làm công tác phát triển đảng viên.
+ Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phịng tồn dân và chính sách hậu
phương qn đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội; đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
nhất là ma túy, mại dâm.

+ Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức Đảng
và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.


18
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết
định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Trên cơ sở các nhiệm vụ nói trên, tổ chức cơ sở Đảng cần cụ thể hóa thành
những nhiệm vụ phù hợp với tình hình, đặc điểm của mình và trong từng giai
đoạn nhất định. Cụ thể như: Qn triệt và thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch
hóa gia đình, thực hiện chính sách xã hội, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân hoàn thành
nghĩa vụ đối với nhà nước, lãnh đạo phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã
hội, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; lãnh đạo tốt nhiệm vụ quốc phịng
an ninh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội…
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng có các nhiệm vụ như: lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo công tác tư tưởng; lãnh đạo công tác tổ chức và
cán bộ; lãnh đạo các đoàn thể nhân dân; xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch
vững mạnh.
1.2. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
1.2.1. Khái niệm năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội
dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ
thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng là khả năng thực tế được

cụ thể hóa bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến lược và
sách lược của Đảng, đồng thời nó phải là sự định hướng phát triển cho cả thời
kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu, am hiểu để dự báo, tổng kết thực
tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương và xây dựng giải
pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực liên quan đến đời
sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.


19
Năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ thị của Đảng: Đó là những vấn đề được
nghiên cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị thống nhất
ý chí và hành động. Đặc trưng cơ bản của nghị quyết là biểu quyết tập thể, ý chí
và trí tuệ tập thể, sự đúc kết sâu sắc từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú và thể
hiện đầy đủ quyền dân chủ.
Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng là khả năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị để từ đó
tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp nhất thực hiện thắng lợi những
mục tiêu đề ra.
Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm
nghiệm thực tiễn những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những ưu
điểm, nhược điểm, tồn tại, hạn chế; đồng thời phát hiện những biểu hiện tiêu
cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đó. Có thể
nói đây là một trong những vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm để làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Do đó, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là khả năng nắm vững
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ của cấp trên giao và vận dụng sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với điều
kiện thực tiễn đối với công tác lãnh đạo ở địa phương.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng

Hiện nay việc đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng thực hiện
dựa trên các quy định của Đảng như:
+ Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương (khóa
VIII).
+ Đẩy mạnh xây dựng, kiện tồn năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đồn thể cơ sở và phong trào


20
cách mạng của quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX).
+ Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thơng qua tại Đại hội
Đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng.
+ Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ
chức cơ sở Đảng, đảng viên hàng năm.
+ Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
+ Quy định số 220-QĐ/TU ngày 27/12/2013 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa XI) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách
tham mưu giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy,
thành ủy.
Do vậy, để đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng hiện nay cần
dựa trên những tiêu chí chủ yếu sau:
Thứ nhất, thực hiện nhiệm vụ chính trị. Việc triển khai, cụ thể hóa và tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và nhiệm vụ được cấp ủy
cấp trên giao; kết quả thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đảng là “sức lực của bản thân Đảng” để
vượt qua “những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù địch với lý tưởng

và sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực trong xã hội,
trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những khó khăn khách
quan của đất nước, của tình hình kinh tế xã hội trong bước đường đi lên”.
Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là sự thống
nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức mạnh, sức bền nội tại của Đảng,
là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, là khả
năng đấu tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch trên các lĩnh vực:
chính trị - tư tưởng - tổ chức, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính tiên phong, gương


21
mẫu của Đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy tín của Đảng
trong quần chúng:
+ Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và
thách thức trong và ngồi nước.
+ Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
+ Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những phần
tử thối hóa biến chất, tham nhũng ra khỏi Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự tác động
của những quan điểm, tư tưởng phản động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ.
+ Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đồn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh
đạo và sinh hoạt Đảng.
+ Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai
trị tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên.
+ Lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ đảng viên.
Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể nhận thấy năng lực lãnh đạo của
tổ chức cơ sở Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự
thống nhất về ý chí và hành động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác động
làm suy yếu tổ chức cơ sở Đảng, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng có sức mạnh bao trùm là thể hiện ở những nội
dung chủ yếu: Chất lượng hoạt động của chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở, trình độ
chun mơn nghiệp vụ, ý thức tự giác và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống của đảng viên và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Khả
năng khắc phục những khó khăn và yếu kém, những biểu hiện tiêu cực, những
sai trái trong chi ủy, đảng ủy và trong nhân dân. Đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái
mới, phê phán cái cũ, lạc hậu và các thế lực thù địch. Đặc biệt, là mỗi đảng viên
phải “vừa hồng, vừa chuyên”, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức,


22
kỷ luật Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,
khơng bè phái làm mất đồn kết nội bộ.
Thứ hai, cơng tác chính trị tư tưởng. Đó là việc tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt, thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đấu tranh với những biểu hiện,
hành vi sai trái; tuyên truyền, học tập và làm theo báo, tạp chí của Đảng. Xây
dựng và thực hiện các tiêu chí về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên,
định kỳ đánh giá kết quả và biểu dương các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Từ quan niệm năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở Đảng có thể thấy rằng: Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ
sở Đảng là vấn đề cơ bản nhất và quyết định đối với khả năng lãnh đạo hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng và nó là những căn cứ chủ yếu
để xây dựng, đồng thời là căn cứ xem xét, đánh giá về tổ chức cơ sở Đảng có
trong sạch, vững mạnh.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã, kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là

cán bộ lãnh đạo quản lý cán bộ chủ chốt các cấp, khơng giao động trong bất cứ
tình huống nào. Giữ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ [21, Tr. 199].
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
có hiệu lực, hiệu quả, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, các tổ chức cơ sở
Đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu lực hoạch định đường lối, chính
sách, phù hợp với quy luật khách quan, tạo bước đột phá để phát triển. Thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình và phê bình, chất vấn trong các kỳ
họp của Đảng, xây dựng và tổ chức thực hiện vai trò của nhân dân tham gia xây
dựng Đảng.


23
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng luôn vận động, phát triển theo
yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Trong
từng giai đoạn, tình hình cụ thể mà cơng tác lãnh đạo có những trọng tâm khác
nhau. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là khả năng nắm bắt và xử lý
đúng những công việc trọng tâm đó.
Có thể nói, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trước hết mỗi tổ chức
cơ sở Đảng phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và vận dụng sáng tạo, phù hợp với
điều kiện thực tiễn của địa bàn dân cư, là khả năng tập trung được nguồn lực,
khai thác được thế mạnh của địa phương, phát huy được sức mạnh tổng hợp
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng. Bên cạnh
đó, cịn là khả năng tun truyền, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện tốt
các yêu cầu đề ra, là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên
quyết với mọi biểu hiện tiêu cực trong tổ chức cơ sở Đảng và trong nhân dân,
bảo vệ những cái đúng, cái mới phù hợp với xu hướng chung của những tổ
chức, cá nhân; đấu tranh những vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật.

Như vậy, những nhân tố cấu thành năng lực lãnh đạo không chỉ là chất
lượng của tổ chức cơ sở Đảng, là sức mạnh của bản thân, đây còn là khả năng
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, khả năng huy động và vận động
quần chúng nhân dân.
Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ và xây dựng đảng bộ, chi bộ. Kết quả thực
hiện công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Việc thực hiện
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ;
quy chế làm việc của cấp ủy; đổi mới phương thức lãnh đạo; nâng cao chất
lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cấp ủy viên và bí
thư chi bộ; quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên và kết nạp đảng viên
mới; giới thiệu đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú;
thực hiện cải cách hành chính và cơng tác thi đua, khen thưởng.


24
Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở
là hạt nhân lãnh đạo, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên
trong sạch vững mạnh, hàng ngày tiếp xúc với quần chúng nhân dân trong các
cơ quan, đơn vị, địa bàn dân cư để tổ chức triển khai, tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, Nhà Nước.
Thứ tư, công tác lãnh đạo xây dựng chính quyền (cơ quan, đơn vị). Mặt
trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội: Xây dựng các tổ chức trong hệ
thống chính trị vững mạnh; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền
cùng cấp, xem xét, giải quyết những vấn đề nẩy sinh ở cơ sở; củng cố mối quan
hệ giữa các tổ chức và khối đại đoàn kết toàn dân; kiểm tra, giám sát đối với
hoạt động của chính quyền, tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng. Kết quả thực hiện kế
hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra và công tác tự kiểm tra,
giám sát của đảng bộ, chi bộ. Cơng tác phịng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; phát hiện, xử lý tổ chức

đảng, đảng viên vi phạm.
Việc kiểm tra, và quản lý cán bộ phải chú trọng tính tồn diện và kịp thời
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và kết quả hoạt động, trong mối quan hệ
xử lý công việc, về chế độ tu dưỡng rèn luyện của cán bộ. Cơng tác kiểm tra,
quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ là một khâu quan trọng trong công tác
cán bộ, nhất là trong tình hình hiện nay, cũng như trong cơng tác quy hoạch cán
bộ quan tâm tồn diện trên các mặt.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
1.3.1. Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng gắn với hiệu quả
của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đó là cơng tác tun truyền, học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy


×