Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Skkn giáo dục kĩ năng sống thông qua môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.77 KB, 28 trang )

.

I PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lúc sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng dạy:
Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người
Lời dạy của Bác đã xác định trách nhiệm của những người làm công tác
giáo dục là vừa trang bị kiến thức về khoa học, xã hội, lịch sử vừa rèn luyện về
đạo đức, kĩ năng sống (KNS), kĩ năng hòa nhập cộng đồng, kĩ năng ứng xử...
cho thế hệ trẻ.Và Bác chính là tấm gương sáng trong việc bồi dưỡng và xây
dựng những con người xã hội chủ nghĩa vừa có tài vừa có đức- nguồn lực chính
của đất nước.
Thực hiện theo lời dạy của Bác, ngành giáo dục đã làm rất tốt vai trị của
mình là đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay, giá trị đạo đức,
nhân cách lối sống của khơng ít giới trẻ (trong đó phần đông là học sinh trong độ
tuổi phổ thông) đang có chiều hướng sa sút do những lối sống thực dụng. Vì vậy
giáo dục phổ thơng đang thực hiện cuộc cách mạng về việc "Đổi mới phương
pháp dạy, phương pháp học" theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà
thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: Học để biết, Học để làm, Học để
khẳng định mình và học để cùng chung sống. Vì vậy, phương pháp giáo dục
phổ thông đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện khả
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui
hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
(HS) được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong các trường phổ
thông.
-1-




Để phong trào đạt hiệu quả cao, từ năm học 2010- 2011, Bộ GD & ĐT đã
đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc trung học
cơ sở (THCS) trong đó có mơn Ngữ văn. Đây là một chủ trương đúng đắn và
cần thiết. Vì với đặc trưng của một mơn học về khoa học xã hội và nhân văn,
bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng
Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, mơn Ngữ văn
cịn giúp học sinh có được những hiểu biết về xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử,
đời sống nội tâm của con người. Với tính chất là mơn học cơng cụ, mơn Ngữ
văn giúp học sinh có năng lực ngơn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận
thức về xã hội, con người. Với tính chất là mơn học giáo dục thẩm mĩ, mơn học
này cịn giúp học sinh khả năng tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định
hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Chính vì lẽ đó, mơn Ngữ văn
có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đó là
lí do tơi chọn đề tài: "Giáo dục kĩ năng sống thông qua môn Ngữ văn”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
+ Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục toàn diện.
+ Rèn kĩ năng sống cho học sinh trong các giờ học Ngữ văn trên lớp.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THCS Bình Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
+Thời gian: Năm học 2014- 2015
+Địa điểm: Trường THCS Bình Khê, huyện Đơng Triều, tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận: Qua việc nắm bắt chương trình ngữ văn cấp THCS, qua
đọc SGK, sách hướng dẫn giảng dạy, sách tham khảo, các tập san giáo dục, tập
san “Văn học và tuổi trẻ” có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Quan sát thực tiễn

- Phương pháp thực nghiệm
- Tổng kết rút kinh nghiệm của đồng nghiệp và bản thân.
-2-


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ
thông tin, sự hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước phương Tây, của lối
sống thực dụng...Gia đình, cha mẹ phải bươn trải trong cuộc mưu sinh, bỏ quên
con cái,dẫn đến sự buông lỏng trong quản lí, điểm tựa gia đình đối với các em
càng mờ nhạt. Đã có thời gian chúng ta chỉ coi trọng việc dạy văn hóa sao cho
học sinh học thật giỏi mà quên đi điều quan trọng là dạy cho học sinh "Học làm
Người", các em không chỉ được học kiến thức mà còn được cung cấp những kĩ
năng sống, kĩ năng hịa nhập với cộng đồng. Ngồi việc học văn hóa, thời gian
cịn lại một số em lao vào các trị chơi vơ bổ, bạo lực, số cịn lại thì không quan
tâm đến mọi việc xảy ra xung quanh, lạnh lùng, vơ cảm chỉ biết sống cho riêng
mình. Đã có những lời cảnh báo từ báo đài lên tiếng chỉ trích, phê phán lối sống
của các em thanh thiếu niên. Dư luận đã từng giật mình trước những vụ các em
tàn sát thanh tốn lẫn nhau chỉ vì một ánh nhìn cho là khơng thiện cảm, các em
chế nhạo xem thường bạn, chỉ vì bạn ăn mặc khơng đúng mode...tệ hại hơn là
các em còn phản cự bằng hành động khi bị cơ giáo phê bình về ý thức
kém...Thậm chí có em học sinh khi đến trường bị học sinh cùng lớp đánh hội
đồng…Những hành vi vi phạm kỉ luật, vi phạm pháp luật đó đã gióng lên hồi
chng cảnh tỉnh những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là những thầy cô
dạy bộ môn Ngữ văn như tôi vì "Văn học là nhân học". Tức là khi dạy môn Ngữ
văn là giáo viên đã rèn những kĩ năng sống cho người học, nay những kĩ năng
đó càng được chú trọng hơn góp phần chuyển biến nhận thức của học sinh, qua
đó giúp các em có ý thức trong từng việc làm, từng hành động, giúp các em sống
có lí tưởng, có ước mơ hồi bão, nhận thức được giá trị cuộc sống.

2.Thực trạng
Trong thực tế cuộc sống hằng ngày đang diễn ra thì học sinh trường
THCS Bình Khê và học sinh các trường trong huyện nói chung thì còn thiếu kĩ
-3-


năng sống. Điều đó thể hiện rất rõ là trong các giờ học các em ngại phát biểu,
ngại đưa ra ý kiến của riêng mình. Nên khi tham gia hoạt động tập thể các em
chưa cảm nhận được hết niềm vui và ý nghĩa của các hoạt động này. Ví dụ khi
biểu diễn văn nghệ có em khơng nhìn vào khán giả mà nhìn xung quanh, khơng
tập trung vào việc thể hiện bài hát hay bài múa mà mình đang thể hiện. Hoặc
trong tập thể lớp 8B mà tôi chủ nhiệm có rất nhiều em có hồn cảnh gia đình đặc
biệt. Có một em nam tính tình vốn đã ít nói, sau khi bố mẹ em chia tay, em càng
ít nói hơn, đến lớp em ngại giao tiếp với bạn bè, thầy cô, khi mẹ gọi điện cho em
em bực tức đập ln cả điện thoại, có thời gian em bị trầm cảm. Em đã bị cú sốc
quá lớn về tâm lí mà cả gia đình và bản thân em chưa có đủ kĩ năng sống để
vượt qua khó khăn đó, kết quả học tập của em ngày càng sa sút, em càng sống
mặc cảm hơn. Hay một trường hợp một học sinh nữ khi bị bố đánh rất đau đã
nghĩ quẩn uống thuốc diệt cỏ tự tử để lại vết đau khơn ngi cho gia đình, nhà
trường và cả xã hội. Xét về nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành động bất đắc dĩ
của em học sinh đó, bản thân người giáo viên như tôi cứ bị ám ảnh mãi và lòng
lo lắng bất an. Bởi trường hợp của em học sinh đó có phải là trường hợp duy
nhất trong cuộc đời công tác của tôi hay không? Liệu sau sự ra đi của bạn, học
sinh lớp tơi có rút ra được bài học gì cho bản thân mình hay khơng? Bản thân tơi
sẽ phải làm gì, sẽ phải dạy học như thế nào để trang bị cho các em những kĩ
năng sống tốt hơn, có hướng suy nghĩ tích cực và tốt đẹp hơn về con người, về
cuộc đời. Hay một thực tế ở lớp tôi chủ nhiệm là các em học sinh nam vì bản
tính hiếu động chưa biết bảo vệ cơ sở vật chất của phòng học, hay vứt rác bừa
bãi ảnh hưởng đến mĩ quan lớp học mặc dù giáo viên chủ nhiệm và nhà trường
nhắc nhở nhiều lần. Phải chăng những lời giáo huấn khô khan áp đặt trong

những giờ chào cờ, những giờ sinh hoạt chưa đủ để thuyết phục các em? Làm
thế nào để các em nhận thức những việc các em đang làm là chưa đúng, là vi
phạm kỉ luật, là ảnh hưởng đến bản thân, nhà trường và để các em biết tự điều
chỉnh hành vi chưa chuẩn của mình? Bản thân mỗi giáo viên như tơi có lẽ phải
có sự cố gắng hơn để thay đổi phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng tích
cực hơn nhằm thu hút sự quan tâm sự tin tưởng của HS, phụ huynh mà giáo dục
-4-


kĩ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình
huống thực tế. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy có rất nhiều thầy cơ trong quá trình
hướng dẫn học sinh tiếp cận tri thức mà không chú ý, không thật quan tâm đến
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, bởi vậy tác phẩm văn chương trong
tâm trí các em có thể hay và hấp dẫn nhưng chưa đủ. Bởi vậy, theo tôi người
giáo viên nên hướng các em xích gần lại với đời hơn để các em hiểu được văn
học đã phản ánh cuộc sống, nhân vật trong văn học là nhân vật trong đời thực.
Trong các giờ lên lớp mà người giáo viên truyền tải được cả thông điệp mà nhà
văn muốn gửi gắm tới các em là quá tốt. Làm được như vậy tức là giáo viên đã
góp phần định hướng được kĩ năng sống cho các em để các em có thể nhớ lại tất
cả những gì đã được góp nhặt, được giáo dục trong giờ học mà ứng xử thích
nghi với cuộc sống trong hiện tại và sau này.
3. Giải pháp
3.1. Mục tiêu
Ngay từ đầu năm học, khi được giao nhiệm vụ giảng dạy ở một khối lớp
trong trường, trong những tiết dạy đầu tiên, tôi đã chú ý chỉnh sửa cho học sinh
từ cách thưa gửi, cách trả lời câu hỏi hay nhận xét câu trả lời của bạn cũng như
tư thế tác phong, ánh mắt, cử chỉ khi trả lời hay khi trình bày một bài nói trước
tập thể. Tuy nhiên, cơ giáo nói một lần các em cũng chưa thể nhớ vì chưa thành
thói quen. Trong các tình huống trên lớp, tơi cho học sinh phát hiện và góp ý sửa
chữa cho nhau. Ví dụ: Em hãy nhận xét tư thế trả lời của bạn đã tốt chưa? Các

em trong q trình quan sát có thể nhận ra là: Bạn còn đút tay túi áo hay đứng
chưa thẳng người trong khi trả lời. Vậy là em học sinh được nhận xét sẽ rút kinh
nghiệm cho bản thân mình và các em khác cũng học theo vì tâm lí các em
thường khơng thích bị chê nhất là bạn bè cùng lớp. Cơng việc này tuy nhỏ
nhưng có ý nghĩa to lớn bởi nó hình thành cho học sinh sự tự tin, những thói
quen, những KNS cơ bản trong cuộc sống hiện tại và sau này. Trong các bài
giảng tôi lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cùng phương pháp dạy học tích cực
để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm các kĩ năng
sống trong quá trình học tập. Với cách tiếp cận này sẽ không làm quá tải, nặng
-5-


nề thêm nội dung bài học và hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn, thiết
thực và bổ ích hơn đối với học sinh.
Để đạt được mục tiêu trên, tôi phải nghiên cứu, bám sát mục tiêu chuẩn
kiến thức- kĩ năng (KT- KN), tích lũy kiến thức, xác định trọng tâm kiến thức để
xây dựng hệ thống câu hỏi trong giáo án. Chính hệ thống câu hỏi đó là nhịp cầu
tương tác giữa thầy và trị. Vì điều kiện hạn chế nên tơi xin trình bày một số kĩ
năng sống cơ bản mà tôi đã rèn được cho các em học sinh trong các giờ lên lớp
thông qua một số ví dụ cụ thể.
3.2. Nội dung và cách thức
*Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh
Kĩ năng giao tiếp là KN mà tôi rèn cho các em một cách thường xuyên và
đều đặn nhất. Thông qua hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó các em có học lực khác
nhau đều có thể trình bày ý kiến cá nhân của mình theo hình thức nói.
Ví dụ: tiết 26: Văn bản “Truyện Kiều của Nguyễn Du” tôi ra câu hỏi nhận
biết: Em hãy nêu vài nét về cuộc đời tác giả Nguyễn Du? Hoặc em hãy trình
bày những hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Du?
Với câu hỏi này, mọi đối tượng học sinh đều có thể trình bày vì chỉ cần
nhìn vào chú thích trong sách giáo khoa là các em trả lời được. Khi học sinh đã

nêu được những nét cơ bản về thân thế và sự nghiệp của tác giả Nguyễn Du, tôi
lại chọn dạng câu hỏi khác địi hỏi các em động não mới trình bày được: Em
hãy cho biết hoàn cảnh xã hội hay bối cảnh thời đại mà tác giả Nguyễn Du
sống ntn?
Học sinh có thể phát hiện và trình bày trước lớp: Đó là xã hội phong kiến
đang trên đà suy thối bộc lộ bản chất xấu xa, bỉ ổi với những kẻ sống chỉ vì
đồng tiền mà nạn nhân của những đồng tiền là những người phụ nữ tài sắc như
Thúy Kiều lại bị dập vùi, những kẻ buôn bán người:
Trong tay sẵn có đồng tiền
Dầu lịng đổi trắng thay đen khó gì.

-6-


Hoặc sau khi phần phân tích văn bản, chuyển sang phần tổng kết tôi hay yêu
cầu các em thảo luận về giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản: ví dụ văn
bản “Rằm tháng giêng” (Hồ Chí Minh)
Hai nhóm đại diện lên trình bày ý kiến, hai nhóm còn lại nhận xét:
- Nội dung: Bài thơ thể hiện tình u thiên nhiên, lịng u nước thương dân,
phong thái ung dung tự tại của Bác Hồ.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ thất ngơn tứ tuyệt
+ Sử dụng điệp từ có hiệu quả
+ Lựa chọn từ ngữ gợi hình, gợi cảm.
* Rèn kĩ năng ra quyết định
Kĩ năng ra quyết định là kĩ năng mà tôi thường rèn cho các em phần lớn
trong các tiết tiếng Việt và Tập làm văn.
Trong tiết 22: “Từ Hán Việt (tt)” tôi yêu cầu học sinh chữa bài tập
4/SGK.84 học sinh sẽ nhận xét được là từ “bảo vệ” trong câu văn không phù
hợp và thay thế bằng từ thuần Việt là “giữ gìn” vì từ này thể hiện được tình cảm

của người nói với người có mối quan hệ gần gũi. Tương tự, các em tiếp tục chữa
từ dùng không phù hợp trong các câu văn cịn lại.
Sau đó tơi sẽ đưa ra một câu hỏi để kết thúc bài học như sau: Qua bài tập
trên, em rút ra được bài học gì cho bản thân trong việc sử dụng từ Hán Việt
trong giao tiếp.
Các em sẽ suy nghĩ và ra quyết định là: Khi giao tiếp trong thực tế em
không nên lạm dụng từ Hán Việt quá mà sẽ sử dụng phù hợp trong từng hoàn
cảnh.
Hay khi dạy tiết 73:Văn bản “Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản
xuất” tôi sẽ đặt câu hỏi tình huống như sau: Rõ ràng các em thấy những câu
tục ngữ đó là bài học kinh nghiệm về thiên nhiên và lao động sản xuất rất
quý nhưng có phải bài học nào cũng đúng khơng?

-7-


Các em sẽ ra quyết định là: Những bài học mà nhân dân ta tích lũy trong
những câu tục ngữ là rất quý nhưng không phải bài học nào cũng đúng, cũng có
thể ứng dụng được, nhất là trong xã hội ngày nay.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng mỗi một bài học Ngữ văn đều có một
ý nghĩa riêng, nhưng người thầy phải dẫn dắt như thế nào để học sinh của mình
có thể phát huy tính tích cực và ra quyết định, đó là việc làm giúp các em thay
đổi nhận thức tiến tới thay đổi hành vi phù hợp với nhận thức.
*Rèn kĩ năng tự nhận thức và xác định giá trị bản thân
Kĩ năng tự nhận thức và xác định giá trị bản thân là những KN cơ bản
được lồng ghép trong các tiết đọc- hiểu văn bản theo con đường “mưa dầm thấm
lâu”. Khi dạy phần văn học dân gian trong tiết 5: bài “Thánh Gióng” có đoạn kể
và tả về một chú bé đã lên ba mà vẫn khơng biết nói, biết cười, đặt đâu nằm
đấy. Thế mà khi nghe sứ giả của nhà vua đi tìm người tài giỏi để đánh giặc cứu
nước, lúc ấy Gióng bỗng cất tiếng nói xin đi đánh giặc. Để phân tích chi tiết này

tơi đặt câu hỏi: Em hiểu gì về ý nghĩa chi tiết “Gióng cất tiếng nói xin đi đánh
giặc”.
Bằng vốn hiểu biết về lịch sử, các em sẽ nhận thức được tiếng nói ấy là
tiếng nói của lịng u nước, tiếng nói căm thù giặc của chú bé Gióng.
Tơi lại đưa một câu hỏi: Tấm gương yêu nước của chú bé Gióng trong
câu truyện có tác động gì đến tình cảm của em (đối với các anh hùng, đối với
quê hương, đất nước)?
Với câu hỏi này các em sẽ xác định được giá trị của lịng u nước, lịng
u nước ln ln thường trực trong trái tim mỗi con người Việt Nam, khi đất
nước cần họ sẵn sàng biến tình cảm thành hành động thậm chí là hành động
khác thường. Đọc câu truyện chúng em càng biết ơn các anh hùng như anh hùng
Gióng đã sẵn sàng ra mặt trận vì tiếng gọi của non sông, đất nước.
Đến phần Văn học trung đại, ở tiết 68 dạy bài “Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm
lịng” tơi chia sẻ với học sinh: Nếu đặt em vào cương vị nhân vật thầy thuốc
như trong câu truyện, em có hành động như vậy khơng?Vì sao?

-8-


Trước câu hỏi tình huống này, mỗi em có thể có ý kiến khác nhau, cách
bảo vệ ý kiến của mình nữa nhưng giáo viên sẽ chốt lại: Hành động của nhân vật
thầy thuốc thể hiện tấm lòng của một y đức, thể hiện một lối sống có trách
nhiệm với người khác, nhất là khi làm công việc “cứu người” thì phẩm chất, lối
sống ấy rất cần thiết và rất quý. Nhân vật thầy thuốc trong câu truyện là hình ảnh
tượng trưng của những vị y đức trong cuộc sống thực tế và là tấm gương để
chúng ta học tập. Dù sau này các em làm bất cứ công việc gì ngồi cái lí, cái luật
thì các em cịn chú ý đến tình cảm, đến trách nhiệm của bản thân với những
người xung quanh. Đó là cái gốc gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với
con người nhất là trong xã hội ngày nay.
* Rèn kĩ năng làm chủ bản thân

Khi dạy các văn bản nhật dụng như văn bản “Cầu Long Biên- chứng nhân
lịch sử” trước khi khép lại bài học tôi đưa ra hai ý kiến trái chiều nhau như sau:
Bạn A: Qua bài học, em thấy cầu Long Biên mãi là chứng nhân trong
lịch sử và trong hiện tại của nhân dân Hà Nội, cho nên mỗi chúng ta nên
nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ cầu Long Biên bằng nhiều hình thức để
bảo vệ di sản văn hóa trong tâm hồn người dân Hà Nội nói riêng và người
dân Việt Nam nói chung.
Bạn B: Qua bài học, em thấy cầu Long Biên đúng là chứng nhân trong
lịch sử nhưng trong công cuộc đổi mới của đất nước chúng ta có thể xây
dựng những cây cầu khác đẹp đẽ hơn, hiện đại hơn thay thế cầu Long Biên
như cây cầu dành cho tàu điện ngầm chẳng hạn.
Vậy em đồng ý với ý kiến nào?Vì sao?
Trong tư duy của thế hệ trẻ bao giờ cũng thích cái mới, cái hiện đại nên sẽ
có nhiều em đồng tình với ý kiến của bạn B, nhưng với vai trị của người thầy,
tơi sẽ định hướng cho các em nên theo ý kiến B vì giá trị văn hóa, lịch sử là cái
gốc phát triển của mỗi một dân tộc, mỗi một quốc gia. Chính cái gốc văn hóa đó
đã giúp cho dân tộc ta khơng bị “đồng hóa” khi hàng nghìn năm bị các triều đại
phong kiến phương Bắc đô hộ, hàng trăm năm bị thực dân Pháp và đế quốc Mĩ

-9-


thống trị, và giúp một dân tộc nhỏ bé đã chiến thắng một nước đế quốc hùng
mạnh vào bậc nhất thế giới như đế quốc Mĩ.
Hoặc khi dạy bài “Đức tính giản dị của Bác Hồ” tơi sẽ hướng dẫn các em
xác định được ý nghĩa của đức tính giản dị và định hướng các em học tập và làm
theo Bác từ cử chỉ, hành động, việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống thường ngày
như tắt điện khi không dùng, không xả nước tùy tiện ở mọi nơi…
Rõ ràng, là người thầy truyền thụ cho học sinh những kiến thức- kĩ năng
của một bài học một cách hấp dẫn đã khó thì rèn những kĩ năng như giúp các em

làm chủ bản thân lại càng khó địi hỏi giáo viên phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, tận
tâm trong giờ học.
* Rèn kĩ năng suy nghĩ sáng tạo
Chúng ta đều biết “Văn học là nghệ thuật ngôn từ” nên khi dạy văn học
giáo viên phải làm như thế nào để phát huy tối đa khả năng tư duy sáng tạo của
các em. Với tôi, để giúp các em khám phá được vẻ đẹp văn chương trong các tác
phẩm văn học, tôi hay đặt những câu hỏi so sánh, đối chiếu, liên tưởng để các
em suy nghĩ nhiều hơn, liên tưởng nhiều hơn.
Tơi xin lấy ví dụ bài “Con cị” mang ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng có thể đưa
ra câu hỏi sau: Hình ảnh con cị là biểu tượng cho ai?
Dựa vào kiến thức đã học về ca dao, về văn học trung đại các em liên
tưởng và có thể trả lời như sau:
Một là: Hình ảnh con cị là biểu tượng cho người nông dân vất vả, chân
lấm tay bùn như trong bài ca dao:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ơng ơi ơng vớt tơi nao
Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lịng cò con.
Con cò là biểu tượng về phẩm chất tốt đẹp của người nơng dân- nếu có
chết họ vẫn muốn chết ở môi trường trong sạch.
- 10 -


Hai là: Hình ảnh con cị là biểu tượng cho những người phụ nữ vất vả, lặn
lội để kiếm sống, trong bài thơ “Thương vợ” nhà thơ Tú Xương viết:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Ba là: Hình tượng con cị trong bài thơ “Con cò” của nhà thơ Chế Lan
Viên là biểu tượng cho lời hát ru, thể hiện tấm lòng của người mẹ.
Tôi nghĩ rằng qua câu hỏi này học sinh phải tư duy liên tưởng từ hình ảnh
con cị trong dân gian trở thành hình tượng con cị gắn liền với tấm lòng của
người mẹ qua lời hát ru đi vào tiềm thức của người con từ thưở ấu thơ đến lúc
trưởng thành bằng cảm xúc lắng đọng của tình mẫu tử. Từ đó, học sinh liên
tưởng về tình mẫu tử thiêng liêng trong mỗi con người:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con
Hay tôi chọn một dạng câu hỏi khác là câu hỏi gợi mở, gợi tìm, cảm nhận
qua hệ thống ngôn từ. Dạng câu hỏi này sẽ rèn cho những em học khá – giỏi kĩ
năng cảm nhận, kĩ năng bình và để trả lời được các em phải biết tổng hợp cùng
với tư duy sáng tạo về ngơn từ.
Ví dụ: Trong bài thơ “Viếng lăng Bác”- chương trình Ngữ văn 9, khi diễn
tả những giây phút Bác đã qua đời, tâm trạng và cảm xúc của tác giả cũng như
của nhân dân Việt Nam đối với Bác trước nỗi đau mất mát: Bác đã vĩnh viễn đi
xa, tác giả viết: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khi phát tích đoạn thơ này, tôi đặt câu hỏi: Em hiểu từ “nhói’ ở đây diễn
tả điều gì? Cịn từ nào có ý nghĩa, có giá trị tương tự như thế khơng?
Học sinh có thể phát hiện được cảm giác “nhói” ở trong tim là đau, là
nhức, là buốt.
Khi đó tơi lại có dẫn chứng khác để khẳng định, so sánh, đối chiếu vấn đề
các em vừa phát hiện ra là đúng.

- 11 -


Cũng diễn tả sự đau xót khi nghe tin Bác mất, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã
viết:

Cháu buốt ở trong tim này
Chỗ đeo tang Bác đêm ngày Bác ơi.
Như vậy từ “buốt “ và từ “nhói” của hai tác giả trong hai bài thơ khác
nhau đều có giá trị và ý nghĩa: gây xúc động đau đớn nghẹn ngào, không nói nên
lời của tác giả.
?Khi dạy văn bản “Cơ bé bán diêm” (An-đéc-xen) tôi đưa ra câu hỏi:
Phần truyện tiếp theo, tác giả kể về năm lần cô bé quẹt diêm. Đây cũng là đoạn
truyện mang đậm màu sắc cổ tích. Em thấy trong phần truyện này có chỗ nào
giống và khác với những truyện cổ tích em đã biết? (Có chi tiết tưởng tượng kì
ảo khơng? Có nhân vật bà tiên ông bụt không? Vậy ai là nhân vật tạo nên những
cảnh tượng kì ảo trong truyện?...)
(Huy động những hiểu biết đã có về truyện cổ tích, vận dụng kĩ năng so
sánh đối chiếu, liên tưởng, hs có thể đưa ra được một số những cảm nhận, đánh
giá về đoạn truyện.Ví dụ:
- Điểm giống truyện cổ tích: Đoạn truyện có nhiều chi tiết tưởng tượng kì
ảo: mỗi lần cơ bé quẹt diêm là những hình ảnh trong thực tại đói rét, tăm tối
bỗng biến mất, nhường chỗ cho những cảnh tượng bừng sáng lung linh, tuyệt
đẹp…Đặc biệt có những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng kì diệu, mang đậm màu
sắc cổ tích thần kì…
- Điểm khác truyện cổ tích: Khi các nhân vật trong cổ tích gặp hồn cảnh khó
khăn, thường có nhân vật bà tiên, ơng bụt mang phép lạ, hiện ra giúp đỡ. Cô bé
bán diêm, trong tình cảnh tăm tối, cùng cực chỉ có một mình.
Hay khi dạy bài “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh tôi yêu cầu học
sinh viết đoạn văn nêu cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ. Đây là một hình
thức rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn nhưng thể hiện được suy nghĩ, cảm
xúc của bản thân các em về tình bà cháu, đặc biệt những em học khá sẽ có sự
sáng tạo trong cách viết văn như liên hệ đến tình cảm của mình với người bà
trong gia đình.
- 12 -



Tóm lại, sự dẫn dắt của người thầy có vai trị vơ cùng quan trọng để gây
sự chú ý, tập trung suy nghĩ, tập trung tư duy sáng tạo của học sinh.
*Rèn kĩ năng thể hiện sự tự tin
Học sinh trường THCS Bình Khê là học sinh vùng thuần nơng nên chỉ có
một số ít là sơi nổi, mạnh dạn, tự tin trình bày trước tập thể một ý kiến hay một
suy nghĩ nào đó. Hạn chế đó đã khiến các em rụt rè trong các hoạt động tập thể
của lớp của trường, hay ngay trong giờ học cũng thiếu khơng khí xây dựng bài.
Theo chương trình đổi mới, phân mơn Tập làm văn đã có những tiết “Luyện
nói”.
Để giờ luyện nói đạt hiệu quả cao, tơi u cầu học sinh chuẩn bị thật chu
đáo, đến lớp học sinh tập nói trước tổ được các bạn lắng nghe góp ý, rồi sau đó
các em xung phong lên trình bày trước lớp. Tơi u cầu khi nói các em nhìn
thẳng vào các bạn dưới lớp, nói to, rõ ràng, truyền cảm, kết hợp cả cử chỉ, nụ
cười. Trong những giờ luyện nói đầu tiên của thầy và trị thường khơng đạt kết
quả như mong muốn, các em còn phụ thuộc vào giấy hay nói như đọc thuộc
lịng. Tơi góp ý, uốn nắn nhiều lần bằng cách nói mẫu rồi cho học sinh tập nói
theo. Mỗi lần học sinh có tiến bộ tơi động viên, khích lệ bằng mọi hình thức như
để các em tập nói từng đoạn rồi dần dần nói cả bài. Sau mỗi giờ như thế các em
rút được kinh nghiệm và đến giờ học luyện nói khác các em chuẩn bị chu đáo
hơn, tích cực hơn. Học sinh ở dưới có quyền làm ban giám khảo chấm điểm cho
bạn trình bày. Giờ học thực sự sơi nổi khi các em được làm chủ điều khiển các
hoạt động trong tiết học của mình.
Rõ ràng, chính người thầy đã có biện pháp kích cầu để các em mạnh dạn bộc
lộ sự tự tin của mình, từ giờ học các em tự tin hơn trong các hoạt động tập thể.
Đó là điều mà chúng tơi mong đợi nhất.
Như phần trình bày trên, tơi đã phân tích nội dung sáng kiến bằng phương
pháp thống kê các kĩ năng sống thể hiện trong một số bài học. Tuy nhiên, việc
rèn kĩ năng sống cho các em trong các tiết học không tách bạch hẳn như thế, mà
trong mỗi một bài thường lồng ghép giáo dục nhiều kĩ năng khác nhau. Chính vì


- 13 -


vậy, trước khi lên lớp tôi phải chuẩn bị giáo án thật cụ thể. Sau đây, tôi xin bày
một giáo án minh họa:

Tiết 54 +55
Văn bản:

TIẾNG GÀ TRƯA
(Xuân Quỳnh)

I. Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức:
- Sơ giản về Xuân Quỳnh.
- Cơ sở của lòng yêu nước,sức mạnh của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ : những kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, sâu nặng nghĩa tình.
- Nghệ thuật sử dụng điệp từ, điệp ngữ, điệp câu trong bài thơ.
2. Kĩ năng:
- Kĩ năng cơ bản:
+ Đọc – hiểu, phân tích văn bản thơ trữ tình có sử dụng các yếu tố tự sự.
+Phân tích các yếu tố biểu cảm trong văn bản
- Kĩ năng sống:
+ Giao tiếp: Giữa thầy giáo và HS, HS với văn bản, HS với HS.
+ Tư duy sáng tạo: Vận dụng hiểu biết của cá nhân về đặc trưng thể loại để khai
thác mạch cảm xúc của bài thơ đã khơi dậy những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ với
tình bà cháu ruột thịt ấm áp, thắm thiết thơng qua các từ ngữ, hình ảnh, biện
pháp tu từ được sử dụng trong bài thơ.
+ Tự nhận thức: Thơng qua tìm hiểu bài thơ GV định hướng cho HS biết yêu

quý người thân, trân trọng tình cảm gia đình, biết sống có trách nhiệm với quê
hương đất nước.
3.Thái độ: Trân trọng tình bà cháu, tình yêu đất nước của người chiến sĩ trong
bài thơ.
II. Chuẩn bị:
- GV: SGK, bài giảng điện tử
- 14 -


- HS: Đọc và soạn bài theo câu hỏi phần đọc- hiểu văn bản
III. Phương pháp:
- Phương pháp: Vấn đáp, phân tích, bình giảng, Trình bày 1 phút
- Kĩ thuật: Động não, thảo luận, Trình bày 1 phút
IV. Tiến trình dạy học:
1. Ổn định:
2. KTBC: Kết hợp bài mới
3. Bài mới:
*GTB: Quê hương- hai tiếng thân thương gợi nhắc mỗi chúng ta biết bao kỉ
niệm, dù chỉ là bữa cơm rau muống với cà dầm tương cũng khiến mỗi người xa
quê nhớ nhung da diết. Với nữ sĩ Xuân Quỳnh thì âm thanh tiếng gà trưa ở 1
xóm nhỏ trên đường hành quân đã khơi gợi những kỉ niệm khó quên trong cuộc
đời tác giả. Điều đó thể hiện rất rõ trong bài thơ “Tiếng gà trưa” .

HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ
Phương pháp: Vấn đáp
Kĩ thuật: Động não

NỘI DUNG CHÍNH
I.Giới thiệu chung


1. Tác giả:
Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là
H/s đọc chú thích *
nhà thơ nữ xuất sắc trong nền
? Trình bày những hiểu biết của em về tác giả
thơ hiện đại VN.
Xuân Quỳnh?
Gv bổ sung:
2. Tác phẩm:
Thơ Xuân Quỳnh thường viết về những tình
Ra đời những năm 1960, đất nước
cảm gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng
ta bắt đầu cuộc kháng chiến
ngày, biểu hiện những rung cảm sâu xa và khát
chống đế quốc Mĩ in trong tập
vọng chân thành của một trái tim phụ nữ đằm
“Hoa dọc chiến hào”(1968).
thắm, thiết ha, nhân hậu.
? Em biết những bài thơ nào của Xuân Quỳnh?
? Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Tiếng
gà trưa?
Gv:
Như nhiều tác phẩm đương thời, thơ Xuân
Quỳnh cũng hướng vào chủ đề bao trùm của cả
nền văn học lúc ấy là lòng yêu nước và cổ vũ
tinh thần chiến đấu. Nhưng trong bài thơ này,
cũng như nhiều tác phẩm khác của mình, Xuân
Quỳnh khai thác cảm xúc từ những điều gần
gũi, bình dị, những kỉ niệm của chính mình, để
- 15 -



từ đó góp vào tình cảm chung của thời đại.
Xn Quỳnh mất mẹ từ lúc chưa biết đội khăn
tang, người cha thường vắng nhà đi làm xa nên
hai chị em thương sống với bà suốt thời thơ ấu.
Qua những chi tiết sinh hoạt đời thường, bài thơ
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi lại một
cách cảm động những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ
và tình cảm bà cháu.

II. Đọc- hiểu văn bản
1.Đọc- chú thích:

Phương pháp: Đọc diễn cảm
Đọc giọng vui vẻ, bồi hồi, phân biệt lời mắng
của bà với lời kể, tả của nhà thơ trong vai người
chiến sỹ.
Nhịp thơ 3/2, 2/3, nhấn mạnh ở những câu, từ
được lặp lại.
Giải nghĩa những từ khó trong SGK.

? Bài thơ đựơc sáng tác theo thể thơ nào? Em đã
học bài thơ nào cũng được viết theo thể thơ 5
chữ tự do?
(Đêm nay Bác không ngủ- Minh Huệ).

2.Kết cấu- bố cục:
- Thể thơ: 5 chữ tự do
- Bố cục: 3 phần


?Bài thơ có thể chia thành mấy đoạn? Nội dung
từng đoạn là gì?
Đoạn 1:Từ đầu… “Nghe gọi…thơ”
Đoạn 2: Tiếp… “Đi qua…soạt”
Đoạn 3: Phần cịn lại.
3. Phân tích văn bản.
Phương pháp: Vấn đáp, phân tích, bình
giảng,
Kĩ thuật: Động não

a)Tiếng gà trưa khơi nguồn cảm

Đọc đoạn 1:
?Cảm hứng của tác giả được khơi gợi từ sự việc
gì?
? Tiêu đề bài thơ đã đưa chúng ta đến với
một âm thanh đó là: Tiếng gà trưa(TGT)
Vậy âm thanh ấy được đặt trong thời gian,
không gian ra sao? Thể hiện qua những từ ngữ
nào?
- 16 -

xúc


=>Một thời gian, khơng gian n bình êm ả có
sự sống rất đỗi thân quen.
? Và với người chiến sĩ trên đường hành quân
âm thanh ấy đã mang đến những niềm cảm xúc

nào?
? ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật
gì? Biện pháp nghệ thuật ấy có tác dụng như thế
nào?
Tiếng gà trưa: Nghe – xao động
nắng trưa; bàn chân đỡ mỏi; gọi về tuổi thơ.
(Điệp ngữ ) =>nhấn mạnh, khơi dậy cảm xúc
của nhà thơ, gợi ra những liên tưởng, cảm xúc
khác nhau.
(GV bình)
?Từ âm thanh tiếng gà trưa tác giả liên tưởng
tới điều gì?
Hết tiết 1- chuyển tiết 2

Cảm xúc đó là nỗi nhớ quê hương
gắn bó một thời ấu thơ.

Giờ trước cơ cùng các em đang phân tích khổ
thơ thứ nhất của bài thơ. Vậy một em đứng tại
chỗ đọc thuộc lịng cho cơ giáo khổ thơ này.
?Qua khổ thơ em vừa đọc, hãy cho cơ giáo biết
hình ảnh nào đã khơi nguồn cảm xúc cho nhà
thơ?
?Qua đoạn thơ em vừa đọc, em thấy mạch cảm
xúc của bài thơ diễn biến ntn?
?Khi hồi tưởng quá khứ, người chiến sĩ nhớ về b) Tiếng gà trưa gợi về những kỉ
kỉ niệm gì?

niệm thơ ấu và tình bà cháu


? Theo dõi vào khổ thơ thứ hai, cho cô biết âm
thanh của “tiếng gà trưa” gợi lên những hình
ảnh thân thương nào? Hãy tìm cho cơ những
hình ảnh đó trong khổ thơ
- 17 -


+ Hình ảnh những con gà mái với những quả
trứng hồng
? Em thấy trong khổ thơ tác giả sử dụng những
biện pháp nghệ thuật nào ? Theo em nghệ thuật
so sánh có tác dụng gì?
- So sánh: gợi màu sắc tươi sáng, đẹp đẽ của gà
và trứng.
?Ngoài biện pháp so sánh ra, nhà thơ còn sử
dụng biện pháp nghệ thuật nào khác nữa, các
em tiếp tục phát hiện cho cô?
?Theo em từ “này” nhắc lại 2 lần nhằm nhấn
mạnh điều gì?
- Điệp từ “này” =>nhấn mạnh tình cảm gần gũi,
gắn bó của nhà thơ với gia đình, q hương
?Vậy với sắc màu tươi sáng của ổ trứng, đàn gà
đã gợi lên vẻ đẹp gì nơi làng quê?
=> Vẻ đẹp tươi sáng đầm ấm, hiền hồ, bình dị
cuả làng q
Như thế, sắc hồng của những quả trứng, hay sắc
vàng của những con gà mái như màu nắng đã
gợi lên trong lòng người đi xa một nỗi nhớ
nhung da diết 1 vẻ đẹp hiền hồ, bình dị cuả
làng q. Vậy khi nhớ về làng q người lính

nhớ kỉ niệm gì nhất các em lại tiếp tục theo dõi
vào khổ thơ thứ ba để trả lời câu hỏi của cô
- kỉ niệm xem gà đẻ
? Kỉ niệm ấy gắn liền với hình ảnh của ai?
?các em hãy quan sát kênh hình trên bảng: Đây
- 18 -


chính là hình ảnh người bà.
?em thấy trong bức tranh người bà đang làm gì?
?cùng theo dõi vào kênh chữ ở khổ thơ thứ 4 và
khổ thơ thứ 5 cho cơ biết hình ảnh người bà cịn
hiện lên như thế nào nữa?
?Nghĩ lại những kỉ niệm của một thời ấu thơ ấy
có ý kiến cho rằng tâm trạng của người chiến sĩ
rất cảm động? Em có đồng ý với ý kiến đó
khơng?Vì sao?
- Đồng ý vì từ “ơi” là từ cảm thán đã thể hiện
được sự xúc động của người cháu khi nhận
được món quà đầy yêu thương của bà.
?Vậy qua những kỉ niệm sống dậy trong lòng
người chiến sĩ đã giúp em hiểu gì về hình ảnh
người bà?
? Vậy hình ảnh ngươì bà như thế khiến em có
suy nghĩ gì về phẩm chất của những người phụ
nữ Việt Nam nói chung?
GV bình:
?Tóm lại, em cảm nhận được gì về tình bà cháu
trong bài thơ?


Âm thanh tiếng gà trưa đã gọi về

? Từ đó em có suy nghĩ gì về người bà của em?

kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ với tình

- (kết hợp kênh hình) Qua những kỉ niệm tuổi bà cháu thật ấm áp, sâu nặng.
thơ, chúng ta cảm nhận được người bà thì dành
tất cả sức lực và tình thương yêu cho đứa cháu
nhỏ. Bà tần tảo, chắt chiu, nâng đỡ từng quả
trứng, từng chú gà con như nâng đỡ ước mơ
hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé của đứa cháu yêu.
Cảm nhận được tình yêu thương của bà người
cháu biết ơn bà lắm, kính trọng bà lắm nên mới
- 19 -


ghi lại được những câu thơ ấm áp tình bà cháu
như thế.
=>Qua việc tìm hiểu nội dung của năm khổ
thơ trên đã GD cho HS KNS: Giao tiếp, tư duy
sáng tạo, tự nhận thức

GV chuyển ý:

c) Tiếng gà trưa gợi những suy

chúng ta tìm hiểu tiếp phần cịn lại, 1 em đứng tư:
dậy đọc to cho cô 2 khổ thơ cuối, còn các em
khác theo dõi vào SGK/

?qua 2 khổ thơ em vừa đọc, em thấy mạch cảm
xúc của bài thơ có gì thay đổi?
?Lúc này người cháu suy tư về những điều gì?
?Theo dõi khổ thơ thứ 7, em hiểu gì về niềm
hạnh phúc của người cháu.
G chuyển ý:
Vậy là tiếng gà, ổ trứng và hạnh phúc mà bà
mang lại đã trở thành suối nguồn yêu thương và
ghi dấu ấn trong tâm hồn để rồi theo người
chiến sĩ suốt cuộc đời dù là trong giấc mơ hay
ngay cả trên đường hành quân. vậy tấm lòng
của bà đã tác động đến ng cháu ntn, theo dõi
khổ thơ ....(chiếu khổ thơ cuối)
?Em có nhận xét gì về biện pháp nghệ thuật ở
khổ thơ cuối
?Theo em, sử dụng điệp từ vì ở đây có tác dụng
gì?
=>khẳng định mục đích chiến đấu
- 20 -


? Vậy là người lính khi suy tư về niềm hạnh
phúc của mình cịn suy tư về điều gì nữa
?Qua những suy tư đó giúp em hiểu gì về tình
cảm của người chiến sĩ đối với gia đình, quê Những suy tư thể hiện tình yêu
hương, đất nước.

gia đình, yêu quê hương, yêu đất

?Tình cảm của người chiến sĩ tác động đến tình nước của người chiến sĩ.

cảm của em như thế nào?
GV: khi ra trận mà người lính xác định được
mục đích chiến đấu tức là họ rất có trách nhiệm
với gia đình, q hương, đất nước. Đó là biểu
hiện của lịng u nước...
=>Qua việc tìm hiểu nội dung của năm khổ
thơ trên đã GD cho HS KNS: Giao tiếp, tư duy
sáng tạo, tự nhận thức

4.Tổng kết:
a.Nội dung:

Phương pháp: Vấn đáp

- Những kỉ niệm về người bà tràn

Kĩ thuật: Động não, thảo luận, trình bày 1 ngập yêu thương làm cho người
phút

chiến sĩ thêm vững bước trên

Phần tổng kết

đường ra trận.

Nhận xét về ý nghĩa của bài thơ, có ý kiến cho
rằng: Bài thơ đã làm sống dậy những kỉ niệm
thưở ấu thơ. Đặc biệt những kỉ niệm về người b. Nghệ thuật:
bà tràn ngập yêu thương làm cho người chiến - Thể thơ 5 tiếng phù hợp với lối
sĩ thêm vững bước trên đường ra trận.


kể chuyện và bộc lộ tâm tình

?Ý kiến của em ntn?

- Biện pháp NT điệp từ, điệp ngữ

?Theo em, bài thơ có nét NT nào đặc sắc
?Nhan đề của bài thơ là TGT và âm thanh ấy đã
được lặp đi lặp lại mấy lần trong cả bài thơ?
- 21 -


Việc lặp đi lặp lại âm thanh đó có tác dụng gì?
- Nối mạch cảm xúc
- Đó là âm thanh quen thuộc, bình dị của làng
quê Mở ra những khung trời kỉ niệm của thời ấu
thơ, kỉ niệm về ng bà thân thương
c.Ghi nhớ: SGK/151
Vậy chúng ta hãy ghi lại những nét NT tiêu biểu
nhất đó là:...
Qua các phần tìm hiểu bài thơ, chúng ta cần ghi
nhớ điều gì?
Đó chính là nội dung phần ghi nhớ
4.Củng cố: - Một em đọc diễn cảm bài thơ.
-Viết đoạn văn từ 5 đến 7 câu nêu cảm nghĩ của em về tình bà cháu
trong bài thơ.
5. HDVN:
- Học thuộc lòng bài thơ, ghi nhớ, nắm được nội dung, phân tích.
- Hồn thiện đoạn văn từ 5 đến 7 câu nêu cảm nghĩ của em về tình bà cháu trong

bài thơ.
- Soạn bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm”.
- Gợi ý:
+Đọc- chú thích
+Soạn tác giả tác phẩm
+Nghiên cứu và trả lời câu hỏi sgk.
V. Rút kinh nghiệm:
Tóm lại, trong một giờ học người giáo viên có thể giáo dục được nhiều kĩ năng
sống cho học sinh. Theo tơi đó là lợi thế của môn Ngữ văn và nhiều môn học
khác trong nhà trường. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần nhấn mạnh các em không

- 22 -


chỉ nói mà tiến tới hành động tiến tới việc làm cụ thể trở thành thói quen ngay từ
khi cịn ngồi trên ghế nhà trường.
3.3. Điều kiện thực hiện
Có câu danh ngôn đã khẳng định: “Trái tim người mẹ là lớp học của con”.
Theo tôi đúng như vậy, mỗi thầy cơ giáo giống như người mẹ thứ hai chăm sóc,
giáo dục, nuôi dưỡng, rèn luyện kĩ năng sống cho những đứa con bé nhỏ của
mình. Tuy nhiên, đây là một cơng việc rất vất vả, địi hỏi rất nhiều thời gian và
khơng phải một sớm một chiều có kết quả ngay. Về phía giáo viên phải có tài
năng sư phạm, có trình độ chun mơn sâu; kết hợp phương pháp dạy học mới
với phương pháp dạy học truyền thống phù hợp với kiểu bài lên lớp. Giáo viên
phải kiên trì, mẫu mực trong lời nói, tác phong, cử chỉ, rồi chú ý chỉnh sửa, uốn
nắn các kĩ năng cho các em. Và giáo viên còn hướng dẫn các em ứng dụng các
kĩ năng sống được rèn trong giờ học vào cuộc sống. Về phía học sinh phải có ý
thức học tập, say mê bộ môn đồng thời phải chủ động tích cực học, chủ động
sáng tạo thì mới có cơ hội được giáo viên giáo dục các kĩ năng sống trong các
giờ học. Ngồi ra đây là cơng việc khơng chỉ của giáo viên, của nhà trường mà

của cả xã hội, cộng đồng. Sự phối hợp đó phải diễn ra đều đặn, thường xuyên,
lâu dài mới mong đào tạo được những học sinh phát triển tồn diện. Mặt khác,
gia đình là chỗ dựa vững chắc để giúp học sinh tránh các tệ nạn xã hội, bố trí
thời gian học tập, vui chơi lành mạnh. KNS của mỗi người được hình thành qua
quá trình rèn luyện, phấn đấu. Nên cùng với những kiến thức được trang bị trong
giờ học rất cần cha mẹ đồng hành cùng con cái để hỗ trợ KNS cho con phù hợp
với lứa tuổi và thực tế cuộc sống. Cịn về trách nhiệm của riêng tơi, tơi luôn tâm
niệm: “Hãy giáo dục kĩ năng sống cho các em, để các em hành xử tốt hơn với
chính mình và với cuộc đời.”
3.4 Kết quả
Qua các tiết dạy môn Ngữ văn có kết hợp giáo dục KNS cho học sinh tơi
thấy bắt đầu có sự chuyển biến như học sinh đã mạnh dạn bày tỏ cảm xúc, biết
chia sẻ cảm thông với nỗi vui buồn của bạn bè, với người thân, với thầy cô giáo.
Đặc biệt, các em bớt được tâm lí ích kỉ, ghanh tị với bạn bè, vị tha hơn, rộng
- 23 -


lượng hơn. Có những em biết đưa ra ý kiến và biết lập luận để bảo vệ ý kiến của
mình. Các em vui chơi hoà đồng, mạnh dạn, tự tin, có tinh thần trách nhiệm khi
được giáo viên giao nhiệm vụ. Các em biết thể hiện tình yêu quê hương đất nước
bằng những hành động rất giản dị như tham gia bảo vệ môi trường xanh-sạch
đẹp, tham gia ủng hộ học sinh nghèo bằng những món quà vật chất như quyển
vở, hộp bút…Các em tham gia các hoạt động do Đội phát động bằng niềm hứng
thú, say mê và tích cực hơn…Kết quả cụ thể ở những lớp tôi trực tiếp giảng dạy
khi khảo sát sau chuyên đề này như sau:
Sĩ số
36
32
33


8A
8B
8E

Gioi
12 (33,3%)
10 (31,2%)
11 (33,3%)

Khá
16 (44,4%)
14 (43,75%)
15 (45,45%)

TB
8(22,3%)
8(25,05%)
7(21,25%)

Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các bộ mơn
văn hố đặc biệt là mơn Văn là rất cần thiết và đã, đang phát huy tác dụng. Kết
quả này đã chứng minh chất lượng dạy học đang được nâng lên khi học sinh
ngày càng chủ động, tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức. Sự hứng thú học tập
của các em chính là niềm vui ngọt ngào đối với những thầy cô giáo khi đứng lớp
như tôi.

- 24 -


III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1.Kết luận: Giáo dục kĩ năng sống cho HS thông qua môn Ngữ văn là
một mục tiêu giáo dục cần thiết bởi học để học làm người, “Tiên học lễ, hậu học
văn”. Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính
bằng con số của mỗi năm mà chính là ánh mắt long lanh vì các đã hiểu bài,
những nụ cười thiện cảm với mơn Văn từ phía học sinh, và với những kĩ năng
được người thầy cung cấp học sinh sẽ dần dần nhận thức tiến tới hình thành thái
độ và thay đổi hành vi. Nhưng trong việc dạy bộ mơn Ngữ văn nói riêng và dạy
học nói chung điều quyết định là tình yêu, sự hiểu biết và mục tiêu hướng tới.
Mỗi một mục tiêu giáo dục như một bài tốn chưa có lời giải, mà người thầy
chính là người hướng dẫn các em đi tìm lời giải đó, vậy thì phương pháp mà tơi
đúc rút được trong sáng kiến chỉ là những kinh nghiệm ít ỏi không phải là
phương pháp duy nhất, hay nhất, chung nhất. Tơi vẫn đang thiết tha suy nghĩ,
tìm tịi, học hỏi nhằm nâng cao chất lượng bộ mơn mà mình đang đứng lớp.
Nhưng lịng nhiệt tình, niềm đam mê của cá nhân tôi là chưa đủ, giáo dục thông
qua bộ môn Ngữ văn là chưa đủ mà cần sự vào cuộc cả giáo viên trong hội đồng
nhà trường, nhất là sự chỉ đạo của ban giám hiệu và các ban ngành cấp trên.
2.Kiến nghị: Các trường ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn đã xây dựng
chương trình học cho các em có cả giờ học tập thể để rèn kĩ năng sống. Thầy cơ
ở trường THCS Bình Khê chưa làm được điều đó và có lẽ sẽ là việc cần làm
trong thời gian tới. Xây dựng bộ môn kĩ năng sống và đào tạo những giáo viên
chuyên bộ môn này là việc làm cần thiết. Đó là mong mỏi khơng chỉ của cá nhân
tơi mà cịn của các bậc phụ huynh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi về giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh thông qua bộ môn Ngữ văn. Mặc dù chưa được hồn hảo song tơi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp để tơi thực hiện
đề tài này hiệu quả hơn trong những năm dạy sau.
Xin chân thành cảm ơn !
Bỡnh Khờ, ngy 1 thỏng 3 năm 2015
- 25 -



×