Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của học sinh trường THCS thượng thanh, quận long biên, thành phố hà nội năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

TRỊNH THANH HẢI

THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THƯỢNG THANH, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

TRỊNH THANH HẢI

THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THƯỢNG THANH, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ VĂN DIỄN

HÀ NỘI-2018




i

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Y tế cơng
cộng, Phịng Quản lý đào tạo Sau đại học Trường Đại học Y tế công cộng, đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên
cứu để em có thể hồn thành luận văn này.
Với tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất em xin bày tỏ lòng biết
ơn tới TS. Vũ Văn Diễn và ThS. Phạm Phương Liên là những người Thầy
kính mến đã dạy dỗ và trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy/Cô trong Trường Đại học Y tế
công cộng đã tạo điều kiện thuận lợi, đóng góp ý kiến đồng thời động viên
giúp đỡ em để em có thể hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Tơi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, thầy cô giáo, nhân viên và các em học
sinh Trường Trung học cơ sở Thượng Thanh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong việc triển khai nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ đã
trực tiếp giúp đỡ trong việc thu thập số liệu nghiên cứu, cám ơn sự hợp tác
của các em học sinh tại các lớp được lựa chọn tham gia nghiên cứu.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2018
Học viên

Trịnh Thanh Hải


ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CANS-MH

Child and Adolesdent Needs and Strengs – Mental Health
(Bảng hỏi nhu cầu sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành
niên)

CBCL

Child Behavior Checklist (Bảng kiểm hành vi)

CES-D

The Center for Epidemiological Studies-Depression Scale
(Thang đo trầm cảm của Trung tâm Nghiên cứu dịch tễ học)

SDQ 25

Strengths and Difficulties Questionnaire 25 items (Bộ câu
hỏi sàng lọc về sức khỏe tâm thần

SKTT

Sức khỏe tâm thần

THCS

Trung học cơ sở


VTN

Vị thành niên

WHO

World Health Orgazination (Tổ chức Y tế thế giới)


iii

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 4
Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu ...............................................................4
Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần ở tuổi học sinh - vị thành niên...................6
Một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần học sinh ........................ 188
Giới thiệu địa bàn nghiên cứu .................................................................. 20
Khung lý thuyết ............................................................................................... 22
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 23
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu ................................................................... 23
Thời gian nghiên cứu .............................................................................. 253
Thiết kế nghiên cứu ................................................................................ 253
Cỡ mẫu, cách chọn mẫu................................................................................ 253
Công cụ thu thập thông tin ........................................................................ 255
Kỹ thuật thu thập thông tin........................................................................ 255
Biến số nghiên cứu .................................................................................... 256
Phân tích và xử lý số liệu .............................................................................. 267

Sai số và cách khống chế sai số ............................................................ 267
Đạo đức nghiên cứu ................................................................................ 28
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 29
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu ...................................................... 29


iv

Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở Thượng
Thanh năm 2018 .......................................................................................... 31
Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, mơi trường nhà
trường với các vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS… ..................... 34
Chương 4: BÀN LUẬN ................................................................................ 44
Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS Thượng Thanh năm
2018 .............................................................................................................. 44
Một số yếu tố ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS
Thượng Thanh năm 2018 ............................................................................ 46
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng

TT


Trang

Bảng 2.1

Số lượng học sinh tham gia vào nghiên cứu

24

Bảng 3.1

Điều kiện hồn cảnh gia đình của học sinh

29

Bảng 3.2

Nhận xét của học sinh về nhà trường

30

Bảng 3.3

Tỷ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học

32

cơ sở Thượng Thanh theo giới năm 2018
Bảng 3.4


Tỷ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học

33

cơ sở Thượng Thanh theo khối lớp năm 2018
Bảng 3.5

Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

34

sinh và hạnh kiểm
Bảng 3.6

Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

34

sinh và việc chơi thể thao
Bảng 3.7

Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

35

sinh và việc chứng kiến người lớn cãi nhau
Bảng 3.8

Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học


36

sinh và việc chứng kiến người lớn đánh nhau
Bảng 3.9

Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

37

sinh và việc bị bạn bè bắt nạt
Bảng 3.10 Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

37

sinh và việc bị thầy cơ mắng
Bảng 3.11 Mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe tâm thần của học

38

sinh và việc bị phạt lao động quá mức
Bảng 3.12 Mối liên quan giữa vấn đề cảm xúc và các yếu tố cá nhân

39

học sinh, mơi trường gia đình, mơi trường nhà trường
Bảng 3.13 Liên quan giữa vấn đề hành vi và các yếu tố cá nhân học
sinh, mơi trường gia đình, mơi trường nhà trường

40



vi

Bảng 3.14 Liên quan giữa vấn đề tăng động và các yếu tố cá nhân học

41

sinh, mơi trường gia đình, môi trường nhà trường
Bảng 3.15 Liên quan giữa vấn đề quan hệ bạn bè và các yếu tố cá nhân

42

học sinh, mơi trường gia đình, mơi trường nhà trường
Bảng 3.16 Liên quan giữa vấn đề quan hệ xã hội và các yếu tố cá nhân
học sinh, mơi trường gia đình, môi trường nhà trường

43


vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

TT

Biểu đồ 3.1

Tên biểu đồ

Tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần của tại


Trang

31

trường trung học cơ sở Thượng Thanh năm 2018
Biểu đồ 3.2

Các biểu hiện về sức khỏe tâm thần của học sinh tại
trường trung học cơ sở Thượng Thanh năm 2018

31


viii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu về Thực trạng Sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên
quan của học sinh trường Trung học cơ sở Thượng Thanh, quận Long
Biên, Thành phố Hà Nội được tiến hành năm 2018 tại trường Trung học cơ
sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội với các mục tiêu: (1)
Mô tả kết quả sàng lọc sức khỏe tâm thần bằng bộ công cụ SDQ25 của học
sinh trường Trung học cơ sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà
Nội năm 2018, (2)Xác định một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần
của học sinh trường Trung học cơ sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành
phố Hà Nội năm 2018.
Nghiên cứu áp dụng theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang,
được tiến hành từ tháng 11/2017 đến tháng 6/2018. Mẫu nghiên cứu gồm 347
học sinh nam và nữ ở 4 khối lớp 6, 7, 8, 9. Các học sinh tham gia điền phiếu

câu hỏi về sức khỏe tâm thần, sử dụng thang đo SDQ 25 (Strength and
Difficulties Questionnaires 25) và các câu hỏi về thơng tin cá nhân, gia đình
và nhà trường. Số liệu thu thập được xử lý và phân tích bằng các phần mềm
thống kê Epidata 18.0 và Stata 3.1, sử dụng các thuật toán thống kê: tỷ lệ %,
test OR và 95% CI.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm
thần là 36,9%. Hình thái biểu hiện của học sinh về nhóm vấn đề cảm xúc và
sự tăng động là cao nhất (43,8% và 47,5%), thấp nhất ở nhóm quan hệ xã hội
(4,9%). Học sinh bị thầy cô mắng, bị bắt nạt, bị phạt làm việc quá mức,
chứng kiến người lớn đánh nhau, cãi nhau có tỷ lệ mắc các vấn đề về sức
khỏe tâm thần cao hơn so với học sinh khơng có các yếu tố này, có ý nghĩa
thống kê.
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị đối
với học sinh, phụ huynh, giáo viên và nhà trường qua đó có thể nâng cao sức
khỏe nói chung và sức khỏe tâm thần nói riêng cho học sinh trường THCS
Thượng Thanh.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), những rối loạn liên
quan đến sức khỏe tâm thần chiếm khoảng 12% trên tổng số gánh nặng bệnh
tật trên thế giới[58]. Sức khỏe tâm thần đang chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu
bệnh lý cũng như chăm sóc sức khỏe ban đầu ở cộng đồng. Các tổn thương về
tâm thần luôn là một trong những gánh nặng bệnh tật cho xã hội. Theo báo
cáo năm 2011 của Tổ chức Y tế thế giới, trên 25% dân số thế giới bị rối loạn
tâm thần và hành vi tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời[58].
Học sinh trung học cơ sở đang ở lứa tuổi vị thành niên, các em phải chịu
nhiều tác động tâm lý từ chính bản thân do sự phát triển của cơ thể, đồng thời

chịu tác động rất nhiều từ bên ngoài như các mối quan hệ xã hội, gia đình,
nhà trường... gây ra nhiều thay đổi trong tâm tư, tình cảm của các em, nếu
những thay đổi đó khơng được kiểm sốt sẽ gây ra những rối loạn tâm lý cho
trẻ[14].. Theo điều tra, tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần dao động từ
8-29%[2]. Gần đây nhất vào năm 2016, điều tra khảo sát sức khỏe tâm thần
học sinh trung học cơ sở tại 05 tỉnh (Hà Nam, Vĩnh Phúc, Gia Lai, Bình Định,
An Giang) cho thấy tỷ lệ này là 14%[26].
Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội đang ngày
càng phát triển về kinh tế-xã hội. Đối tượng lao động chuyển dịch từ làm
nông nghiệp sang làm công nghiệp tại các khu công nghiệp, chế xuất. Đồng
thời là sự xâm nhập của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ IV địi hỏi con
người phải có những sự thay đổi để có thể theo kịp xu hướng tất yếu của nhân
loại. Cùng với điều kiện kinh tế gia đình ngày càng cao là sự kỳ vọng lớn từ
phía gia đình và nhà trường đối với các em trong học tập và ứng xử, đòi hỏi
sự trưởng thành sớm về thể chất lẫn tinh thần.
Trường Trung học cơ sở Thượng Thanh được xây dựng lại vào năm
2010 với cơ sở vật chất hiện đại, đầy đủ phòng học, phòng chức năng và khu


2

nhà phục vụ phát triển thể chất cho học sinh. Điều kiện học tập, rèn luyện sức
khỏe của học sinh được đáp ứng tương đối đầy đủ. Chúng tôi chọn trường
Trung học cơ sở Thượng Thanh vào nghiên cứu để nói lên được thực trạng
Sức khỏe tâm thần của học sinh tại địa bàn đang có sự phát triển mạnh mẽ về
mặt kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng.
Câu hỏi đặt ra đối với cán bộ làm công tác y tế và giáo dục tại quận
Long Biên là thực trạng về sức khỏe tâm thần của học sinh trường Trung học
cơ sở Thượng Thanh đang ở mức độ nào? Các yếu tố nào (cá nhân, gia đình,
nhà trường) có liên quan đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh?

Để trả lời các câu hỏi trên, tôi tiến hành nghiên cứu Thực trạng Sức
khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung học
cơ sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội.
Tôi hy vọng với kết quả nghiên cứu này sẽ làm căn cứ đề xuất các giải
pháp phù hợp với Ban giám hiệu nhà trường, các bậc phụ huynh và đặc biệt là
ngành y tế và giáo dục địa phương có những hành động thích hợp, kịp thời
trong công tác bảo vệ sức khỏe tâm thần học đường nói riêng và sức khỏe học
đường nói chung để các em học sinh phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh
thần và xã hội.
:


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả kết quả sàng lọc sức khỏe tâm thần bằng bộ công cụ SDQ25
của học sinh trường Trung học cơ sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành
phố Hà Nội năm 2018.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của học sinh
trường Trung học cơ sở Thượng Thanh, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội
năm 2018.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
Khái niệm sức khỏe và sức khỏe tâm thần
Khái niệm sức khỏe:

Theo Tuyên ngôn của tổ chức Y tế thế giới năm 1982 tại Alma Ata:
“Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và xã
hội chứ khơng chỉ là tình trạng khơng có bệnh hay thương tật”[60]. Sức
khỏe tồn diện trong con người đều gồm 3 thành phần: khỏe về thể chất,
khỏe về tâm thần và khỏe về xã hội.
Sức khỏe tâm thần:
Sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ khơng có rối loạn hay
dị tật tâm thần mà cịn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái. Sức
khoẻ tâm thần là sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn minh. Cơ sở của
sức khoẻ là trạng thái thăng bằng và hài hồ giữa lý trí và tình cảm. Sức
khỏe tâm thần còn là một cuộc sống năng động, có khả năng chống đỡ
được những thử thách trong cuộc sống[61].
Vị thành niên và sức khỏe tâm thần vị thành niên
Định nghĩa:
Vị thành niên: từ này xuất phát từ tiếng Latinh - adolescere có nghĩa
là "lớn lên" hay "phát triển đến sự chín muồi". Vị thành niên là những
người trong độ tuổi 10-19 tuổi nghĩa là sau độ tuổi thiếu nhi và trước tuổi
trưởng thành hay nói theo tâm lý học thì vị thành niên là giai đoạn kết nối
chuyển tiếp địi hỏi mỗi cá nhân phải có những thay đổi mới để thích nghi.
Lứa tuổi vị thành niên được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ 1014 tuổi (tương đương lứa tuổi học sinh THCS) và giai đoạn sau từ 15-19
tuổi (tương đương với lứa tuổi THPT). Những nhà nghiên cứu tâm thần cộng
đồng thường chú ý tới nhóm tuổi vị thành niên giai đoạn đầu, do


5

những tác động tâm sinh lý của lứa tuổi này nếu được điều chỉnh, chăm sóc
tốt sẽ hạn chế được tác động biến đổi tâm sinh lý và các tác động khác ở
bên ngoài đối với chúng.
Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển sinh lý gắn liền với sự

trưởng thành về sinh dục, nó bao hàm cả nghĩa phát triển về vị thế, địa vị
xã hội, hành vi, tình cảm…[15]. Khi trẻ bước vào lứa tuổi này thì ln có
xu hướng tách ra khỏi vịng tay của cha mẹ, không muốn phụ thuộc vào bố
mẹ. Ở tuổi này sự biến đổi về tâm lý rất phức tạp, mỗi một giai đoạn lại
biểu hiện một tính cách khác nhau: có lúc thì kiềm chế nhẫn nhịn, có khi
lại chủ quan chống đối. Hơn nữa, đây còn là giai đoạn có những mối quan
hệ khác giới, nhu cầu giao tiếp với xã hội bạn bè nhiều hơn, các em có xu
hướng theo bạn bè hơn là cha mẹ. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm
2012 ở Việt Nam trẻ vị thành niên có khoảng 23.165.631 trẻ, chiếm
khoảng 26,2% dân số cả nước[23].
Những thay đổi về thể chất, tâm lý của lứa tuổi vị thành niên:
* Biến đổi về thể chất
Dậy thì là giai đoạn quan trọng trong lứa tuổi vị thành niên, dùng để xác
định sự chín muồi rõ nét về mặt cơ thể. Sự chín muồi sinh học này xảy ra ở
hầy hết các hệ thống cơ thể ở cả nam và nữ, thường bắt đầu ở khoảng 10-11
tuổi và kết thúc ở khoảng 15-17 tuổi. Ở giai đoạn dậy thì khơng phải tất cả
các em cùng giới hoặc cùng tuổi đều phát triển như nhau. Có một số em biểu
hiện thay đổi sớm hơn hoặc muộn hơn các em khác cùng trang lứa.
Ở trẻ gái ngay khi bước vào lứa tuổi dậy thì (khoảng 13 tuổi), cơ thể
phát triển nhanh hơn giai đoạn trước. Ngoài sự phát triển về chiều cao, cân
nặng thì có sự phát triển của bộ phận sinh dục, thay đổi vóc dáng. Giai
đoạn dậy thì chính thức được đánh dấu bằng lần hành kinh đầu tiên, báo
hiệu trứng đã bắt đầu rụng và có khả năng có thai.
Ở trẻ trai, sự phát triển cơ thể về chiều cao và cân nặng cũng đã xuất
hiện rõ rệt. Xuất hiện ria mép, lông mu đồng thời dương vật và tinh hoàn


6

cũng phát triển về kích thước, xuất hiện phóng tinh khơng chủ đích. Thanh

quản mở rộng làm thay đổi giọng nói. Sự phát triển của cơ bắp ở ngực, vai,
đùi, tạo nên hình dáng đặc trưng của nam giới.
* Biến đổi về tâm lý
Dậy thì là sự báo hiệu sự chuyển tiếp giai đoạn, được xem là mốc khởi
đầu của lứa tuổi vị thành niên. Trong giai đoạn này, những thay đổi của các
yếu tố sinh học có ảnh hưởng đến các yếu tố tâm lý. Nhu cầu về tình bạn
trở nên quan trọng và dễ chịu ảnh hưởng của nhóm bạn đó, đặc biệt chú ý
đến bạn khác giới và dễ nhầm lẫn với tình yêu. Xúc cảm giới tính hay
những rung động đầu đời thường dễ xảy ra và đơn giản là với những ai gây
ấn tượng, những người gần gũi, hay giúp đỡ quan tâm, người có biểu hiện
bên ngồi hấp dẫn… Các em bắt đầu có những tư duy trừu tượng, ý thức
được mình khơng cịn là trẻ con nữa. Ở lứa tuổi này, cơ thể không ổn định
về mặt xúc cảm, dễ vui, buồn, cáu giận vô cớ. Các em bắt đầu quan tâm
đến bạn bè, có xu hướng muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố mẹ. Khi mong
muốn điều gì, các em thường muốn được thỏa mãn ngay và có thể hành
động bất chấp hậu quả, trong khi tư duy còn chưa phát triển đầy đủ khả
năng tự phê phán.
Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần ở tuổi học sinh - vị thành niên
Những biểu hiện thường gặp về vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh
Các rối loạn tâm thần ở lứa tuổi vị thành niên cũng có những biểu hiện
như mọi lứa tuổi, nhưng khác ở chỗ những rối loạn tâm thần vị thành niên
thường biểu hiện ở mức độ nhẹ, thống qua, nếu điều chỉnh có thể mất đi khi
trưởng thành. Thơng thường có các biểu hiện: Rối loạn cảm xúc, rối loạn
hành vi, rối loạn tăng động, rối loạn ứng xử, lo âu… hình thái nặng hơn có
thể là trầm cảm hoặc tự hủy hoại bản thân mình (tự tử).
Rối loạn cảm xúc
Do biến đổi đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi dậy thì nên trẻ vị thành niên
thường có những rối loạn cảm xúc, mất cân bằng tâm lý, các biểu hiện như



7

tim đập nhanh, chóng mặt, hoa mắt, dễ nổi nóng, khó hiểu thậm chí cịn
khơng hiểu được chính cả bản thân[3]. Có rất nhiều biểu hiện của rối loạn cảm
xúc: rối loạn lo âu như sợ hãi một cái gì đó q mức hoặc lo lắng những vấn đề
khơng có thật. Các em có biểu hiện hoang mang, lo lắng triền miên mà không
biết lý do hoặc suy nghĩ viển vơng tưởng tượng ra những câu chuyện ám ảnh
khơng có thật. Ngoài ra, những sang chấn hay những sự kiện xảy đến với các
em khiến tâm thần luôn bị hoảng loạn như tai nạn, lạm dụng tình dục, bạo
lực… Rối loạn cảm xúc cịn có biểu hiện như trầm cảm hay buồn rầu, khóc lóc,
tự ti, chán nản, biểu hiện chán ăn, hay qn, khơng chăm sóc đến bản thân như
trước, học tập giảm sút, hoạt động chậm chạp. Đặc biệt hơn rối loạn cảm xúc
lưỡng cực khá phổ biến với tỷ lệ 0,5% dân số[50]. Đây là một bệnh tâm thần
nội sinh xuất hiện có tính chất chu kỳ với các cơn hưng cảm và trầm cảm xen
lẫn. Lứa tuổi vị thành niên là độ tuổi phát bệnh rối loạn cảm xúc cao nhất trong
tổng số ca mắc chứng bệnh này[1]. Trẻ có lúc thì lầm lì, buồn rầu, ức chế, chán
nản, tuyệt vọng, dễ mủi lịng khóc lóc, lúc lại hưng cảm, ví von hóm hỉnh, nói
ln miệng, tự đánh giá cao bản thân, thậm chí coi thường người khác. Bệnh
mang tính chu kỳ tức là người bệnh có thể chuyển từ cảm xúc hưng phấn (vui
vẻ tột độ) sang cảm xúc ức chế (trầm cảm) và ngược lại một cách nhanh chóng.
Rối loạn hành vi
Thuật ngữ rối loạn hành vi (conduct disoder) bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên
trong phân loại bệnh tâm thần của hội Tâm thần học Mỹ lần thứ 2 (DSM - II)
năm 1968. Hiện nay, căn cứ theo bảng phân loại của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ
(DSM - IV): “Rối loạn hành vi là kiểu hành vi lặp đi lặp lại và kéo dài trong đó
các quyền cơ bản của người khác hay các chuẩn mực xã hội hoặc luật lệ lớn phù
hợp với lứa tuổi bị vi phạm”[27].
Rối loạn tăng động
Đặc trưng cơ bản của bệnh rối loạn tăng động là kém tập trung, giảm chú
ý, tăng động. Đặc trưng của rối loạn tăng động là sự kết hợp của một hành vi

hoạt động quá mức, thiếu kiềm chế với giảm chú ý, thiếu kiên trì trong mọi


8

cơng việc[9]. Trẻ có rối loạn tăng động giảm chú ý đối diện với rất nhiều vấn
đề trong quá trình phát triển tâm sinh lý, trong học tập cũng như trong cuộc
sống của các em. Chẳng hạn như: hay đãng trí, thiếu tập trung, hay bỏ dở
cơng việc làm ảnh hưởng đến kết quả học tập; cảm xúc không ổn định, dễ
bùng nổ, có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ với mọi người xung quanh.
Rối loạn ứng xử[17]: thường biểu hiện bằng các đặc điểm như:
- Ít quan tâm người khác, xâm phạm thô bạo đến bạn bè, người thân.
- Không tuân thủ các quy tắc xã hội hay có các hành động quá đáng và
quá mức, vi phạm trật tự, chống đối.
- Ngồi ra cịn có các biểu hiện: nói dối, ăn cắp, trốn học, gây gổ…
Rối loạn lo âu[21]
Là sự sợ hãi q mức, khơng có ngun nhân, do chủ quan của người
bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do một
bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân khơng thể kiểm sốt
được biểu hiện vững chắc, mạn tính và khuếch tán dưới dạng kịch phát. Bệnh
nhân có rối loạn lo âu, đặc biệt hoảng sợ, thường kèm theo các rối loạn các
chức năng xã hội và có nguy cơ lạm dụng thuốc cao hơn người bình thường.
Trầm cảm[21]
- Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn
bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị
bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống kém và mất tập trung.
- Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể
khả năng làm việc, học tập hoặc khả năng đương đầu với cuộc sống hằng ngày.
- Trường hợp nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Ở mức độ nhẹ,
người bệnh có thể được hỗ trợ không cần dùng thuốc. Mức độ vừa và nặng,

người bệnh cần hỗ trợ điều trị bằng thuốc kết hợp liệu pháp tâm lý.
Tự hại, tự tử[59]
Theo Tổ chức Y tế thế giới thì tự tử là một hoạt động trong đó nạn nhân
tìm đủ cách hủy hoại bản thân với cường độ mạnh hoặc yếu để cướp đi mạng


9

sống, có sự tham gia của ý thức nạn nhân, được phân chia thành 3 loại:
- Ý định tự tử: Được thể hiện trong ý nghĩ nhưng chưa hành động.
- Hành vi tự tử: Bao gồm các hành vi khác nhau của tự tử để giết chết
bản thân nhưng không thành cơng. Các hành vi này đe dọa tính mạng của nạn
nhân mà khơng có sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngồi.
- Tự tử thành cơng: là bất kỳ tử vong nào là kết quả trực tiếp hoặc gián
tiếp của hành vi chủ động hoặc bị động được thực hiện bởi chính nạn nhân và
chính nạn nhân biết rằng hành vi đó sẽ tạo ra cái chết.
Một số cơng cụ đánh giá sức khỏe tâm thần học sinh
Có nhiều công cụ đánh giá sức khỏe tâm thần ở trẻ em như Bảng tự thuật
YSR (Youth Self Report), Bảng kiểm hành vi CBCL (Child Behavior
Checklist), Bảng hỏi CANS-MH (Child and Adolescent Needs and StrengthsMental Health), Thang đánh giá Lo âu - Trầm cảm - Stress (DASS 21),Bảng
Nghiệm kê nhân cách Eysenck (Eysenck Personality Inventory - EPI), Thang
đánh giá lo âu Zung (SAS), Thang Đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên (RADS
10 - 20), Thanh đáng giá trầm cảm CES-D, Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and
Difficulties Questionnaire 25 items)...
Bảng hỏi YSR (Youth Self Report)
Bảng hỏi YSR dành cho vị thành niên lứa tuổi từ 11-18 tự cho điểm
phù hợp với 112 biểu hiện được liệt kê dựa trên mốc thời gian trong vòng
từ 6 tháng qua đến thời điểm đánh giá.
Trong bảng hỏi YSR, mỗi biểu hiện sẽ đánh giá theo ba mức độ: 0 =
không đúng; 1 = một phần đúng một phần sai; 2= chắc chắn đúng. Bảng hỏi

YSR được xử lý theo hai cách: tính điểm tổng của thang đo và tính điểm theo 8
hội chứng của thang đo (Hành vi xâm kích, Vấn đề chú ý, Lo âu/trầm cảm, Các
vấn đề xã hội, Bệnh tâm thể, Thu mình/trầm cảm, Phá bỏ qui tắc, Vấn đề tư
duy), bộ cơng cụ YSR là một bộ cơng cụ có độ tin cậy cao.
Ưu điểm của Bảng hỏi YSR là áp dụng cho trẻ em có khoảng tuổi rộng,
đánh giá được nhiều biểu hiện về sức khỏe tâm thần, tuy nhiên nhược điểm là


10

với 112 câu hỏi đòi hỏi thời gian điền phiếu dài, cần có sự chuẩn bị thật tốt về
điều kiện thời gian và tâm lý cho đối tượng để có kết quả chính xác[34].
Bảng kiểm hành vi CBCL (Child BehaviorChecklist)
Bảng kiểm hành vi CBCL (Child Behavior Checklist) của Achenbach
dùng để đánh giá hành vi trẻ em ở các lứa tuổi (1,5-5 tuổi, 6-18 tuổi), dành
cho cha mẹ điền[30].
Bảng hỏi CANS-MH (Child and Adolescent Needs and Strengths- Mental
Health)
Bảng hỏi CANS-MH (Childand Adolescent Needsand Strengths- Mental
Health) do John Lyons là một đánh giá toàn diện các yếu tố tâm lý và xã hội
để sử dụng trong kế hoạch điều trị.
Bảng hỏi gồm 41 câu hỏi với các lĩnh vực đánh giá bao gồm tâm lý
chung, các hành vi nguy cơ, mối liên quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với gia đình. CANS-MH được thiết kế để hỗ trợ trường hợp lập kế hoạch và
đánh giá các hệ thống dịch vụ.[39]
Thang đo đánh giá trầm cảm và lo âu
- Thang đánh giá lo âu, trầm cảm DASS 21
Năm 1995, Loviond S.H và Lovibond P.F tại khoa Tâm lý học, Đại học
New South Wales (Australia) đã thiết kế nên thang đánh giá ba rối loạn tâm
thần phổ biến là stress, lo âu và trầm cảm ký hiện là DASS 42. Năm 1997,

DASS 42 được rút gọn lại thành DASS 21 nhằm tạo sự tiện lợi cho người
dùng và phù hợp với nghiên cứu khoa học. Thang đo DASS đã được Viện
Sức khỏe tâm thần Quốc gia biên dịch, thử nghiệm trên một số đối tượng
nghề nghiệp khác nhau. Thang đo DASS 21 đã được nhiều nghiên cứu đánh
giá về tính giá trị và độ tin cậy cho sử dụng tại Việt Nam.
DASS 21 được chia làm 03 nhóm, mỗi nhóm gồm 7 tiểu mục mô tả về
triệu chứng thực thể hoặc tinh thần, điểm được cho mỗi tiểu mục tùy thuộc
vào mức độ và thời gian xuất hiện triệu chứng. Sau khi đối chiếu điểm số thu
được với bảng điểm, kết quả sẽ cho biếu tình trạng stress, lo âu, trầm cảm


11

đang ở mức độ nào (Bình thường, nhẹ, vừa, nặng, rất nặng).
- Thanh đáng giá trầm cảm CES-D
Thang đo của CES-D của Trung tâm Nghiên cứu dịch tễ học (CES-D: The
Center for Epidemiological Studies-Depression Scale) thuộc Trung tâm Phòng
ngừa và kiểm soát bệnh tật của Mỹ đã được kiểm định và sử dụng nhiều trong
các điều tra cộng đồng với đối tượng vị thành niên ở nhiều quốc gia trên thế giới.
CES-D đánh giá mức độ trầm cảm trong vòng 01 tuần trước điều tra, gồm 20
tiểu mục với tổng điểm thang đo từ 0-60 điểm, số điểm càng cao thể hiện triệu
chứng trầm cảm càng nặng.[18]
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and Difficulties Questionnaire 25 items)
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and DifficultiesQuestionnaire25items) do
Robert Goodman thuộc Viện Tâm thần London (Đại học London) xây
dựng[52]. SDQ25 gồm 25 câu hỏi sàng lọc và đánh giá vấn đề sức khỏe tâm
thần thuộc 5 lĩnh vực: vấn đề cảm xúc, vấn đề ứng xử, tăng động giảm chú ý,
vấn đề bạn bè và khả năng giao tiếp xã hội. Các câu hỏi được thiết kế và cấu
trúc theo 3 dạng thích hợp cho hình thức trẻ tự điền, cha mẹ điền, giáo viên
điền trong khoảng thời gian 5 phút. Hệ thống điểm được xác định cho từng

câu hỏi ở 3 trạng thái trả lời chính: Khơng đúng, Đúng một phần và Chắc
chắn đúng. Tại Việt Nam, tổng điểm để xét các ngưỡng sàng lọc trẻ bình
thường (0-13 điểm) và có vấn đề sức khỏe tâm thần (13-40 điểm) đối với học
sinh tự điền và tương ứng là 14 điểm đối với giáo viên đánh giá[24]. Theo
nghiên cứu của Trần Tuấn và cộng sự, khả năng chẩn đốn của bộ câu hỏi
SDQ 25 khơng có sự khác biệt giữa phương thức phỏng vấn và tự điền, dao
động từ 0,70-0,79 tùy theo đối tượng và phương thức lấy tin.[24]
Ngồi ra, bảng hỏi SDQ cịn được dùng để đánh giá vấn đề sức khỏe tâm
thần dựa trên 5 hình thái: vấn đề Sức khỏe tâm thần trong biểu hiện cảm xúc,
biểu hiện hành vi, biểu hiện sự tăng động, trong quan hệ xã hội, trong quan hệ
bạn bè. Tổng điểm để đánh giá 5 hình thái sức khỏe tâm thần trên được tính
từ 0-10 điểm. Trong nghiên cứu này, tổng điểm từ 4-10 điểm, riêng hình thái


12

quan hệ xã hội tổng điểm từ 0-3 điểm là có vấn đề sức khỏe tâm thần.
Bảng hỏi SDQ25 đã được dịch ra 47 thứ tiếng và đưa vào sử dụng trong
sàng lọc vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em độ tuổi từ 4-16 tuổi tại 60 nước
trên thế giới. Nghiên cứu của Goodman A và cộng sự năm 2011 đã sử dụng
thang SDQ trên 29.225 trẻ từ 5-16 tuổi ở rất nhiều quốc gia để kiểm tra sự
hợp lý của thang SDQ trong việc sàng lọc và so sánh sức khỏe tâm thần của
trẻ em trên toàn cầu[35]. Nghiên cứu của Meesters và cộng sự năm 2003 trên
562 trẻ vị thành niên và cha mẹ của các em tại Hà Lan bằng thang SDQ đánh
giá năm hình thái sức khỏe tâm thần: biểu hiện cảm xúc, hành vi, quan hệ bạn
bè, quan hệ xã hội và sự tăng động cho thấy tính hợp lý và tiện ích của bảng
hỏi SDQ[47]. Năm 2000 bảng hỏi SDQ đã được Sourander A áp dụng trên
101 em ở Anh và 89 em ở Bangladesh là những bệnh nhân đến khám sức
khỏe tâm thần[56]. Mức độ chính xác giữa dự đốn SDQ và chẩn đoán lâm
sàng độc lập là đáng kể và rất có ý nghĩa. Các vấn đề tình cảm và hành vi của

trẻ từ 7-15 tuổi ở Anh và Dahka (Phần Lan) cũng được đánh giá bằng bảng
hỏi SDQ dành cho học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh[51]. Nghiên cứu cho
thấy bằng chứng hữu ích của bảng hỏi SDQ trong sàng lọc sức khỏe tâm thần
của các nhà nghiên cứu dịch tễ. Năm 2014, nghiên cứu cộng đồng tại Iran
trên 9.636 trẻ em từ 6-17 tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên phân tầng trên 5
tỷnh. Nghiên cứu cũng sử dụng bộ câu hỏi SDQ dành cho cha mẹ điền để
đánh giá sức khỏe tâm thần trẻ em dựa trên 5 hình thái vấn đề tình cảm, đạo
đức, tăng động, quan hệ đồng đẳng, quan hệ xã hội[45]. Tại Việt Nam bộ câu
hỏi SDQ cũng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu. Nghiên cứu của
Nguyễn Thị Thúy Anh năm 2010[19] cũng đã sử dụng thang SDQ để sàng
lọc sức khỏe tâm thần học sinh. Khảo sát sức khỏe tâm thần học sinh trường
học thành phố Hà Nội bằng công cụ SDQ của Tổ chức Y tế Thế giới chuẩn
hóa Việt Nam cho thấy trên mẫu nghiên cứu gồm 506 học sinh trung học phổ
thông, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần là 6,1%[13, 24].
Nghiên cứu của Đàm Thị Bảo Hoa (2014) trên 2.850 học sinh THCS Thái


13

Nguyên (sử dụng thang đo SDQ 25) cho kết quả 22,9% học sinh có vấn đề sức
khỏe tâm thần[6]. Hồng Cẩm Tú và Đặng Hoàng Minh nghiên cứu trên học
sinh ở 2 trường THCS Nguyễn Trãi (Hà Nội) và Vân Tảo (Hà Tây) cho thấy trẻ
mắc các vấn đề về sức khỏe tâm thần chiếm 22,6%[8]. Nghiên cứu của Nguyễn
Cao Minh tiến hành tại 4 tỷnh miền Bắc cho thấy tỷ lệ mắc các vấn đề sức
khỏe tâm thần là 18%[16].
Qua đánh giá sơ bộ các công cụ đánh giá sức khỏe tâm thần học sinh có
nêu ở trên, nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu là sàng lọc tại cộng đồng ở
nhóm đối tượng trẻ vị thành niên. Tơi nhận thấy bộ câu hỏi SDQ 25 là phù
hợp với mục đích nghiên cứu ở đây là sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần
nói chung của học sinh (khơng đi sâu phân tích là RLTT lo âu, trầm cảm hay

stress...), bộ cơng cụ dễ sử dụng, có khả năng đánh giá từ nhiều đối tượng
khác nhau, do đó sử dụng linh hoạt tại cộng đồng. Như vậy sử dụng bảng hỏi
SDQ 25 để đánh giá vấn đề sức khỏe tâm thần là hoàn toàn khả thi và phù
hợp. Do đó trong nghiên cứu này chúng tơi sử dụng bộ câu hỏi SDQ 25 dành
cho học sinh tự điền.
Tình hình sức khỏe tâm thần học sinh – VTN trên thế giới
Vấn đề sức khỏe tâm thần đang ngày càng thu hút được sự quan tâm
của thế giới, các báo cáo nghiên cứu gần đây cho thấy vấn đề này có xu
hướng gia tăng[58]. Trên thế giới, có tới 7% - 10% trẻ em và thanh thiếu niên
mắc phải các rối loạn tâm thần cần điều trị[62]. Tỷ lệ này cao hơn ở các vùng
đơ thị đơng dân có nhiều yếu tố xã hội không thuận lợi, đặc biệt ở tuổi dậy
thì.
Các báo cáo nghiên cứu gần đây cho thấy vấn đề sức khỏe tâm thần có
xu hướng gia tăng, theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, trên 25% dân số
thế giới bị rối loạn tâm thần và hành vi tại một thời điểm nào đó trong cuộc
đời[58]. Các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ vị trẻ thành niên có
biểu hiện rối loạn tâm thần tại một số nước phát triển như Úc, Mỹ, Đức, Thụy
Sỹ, Tây Ban Nha đều ở mức cao[33, 38]. Ở Trung Quốc, các nhà nghiên cứu


14

thấy rằng áp lực từ các kỳ thi chuyển cấp và gánh nặng học tập có liên quan
đến tình trạng sức khỏe tâm thần kém ở các học sinh Trung Quốc, khơng
những thế, áp lực học tập cao cũng có thể dẫn đến bạo lực và các vấn đề phát
triển[42, 44]. Mullick và cộng sự (2005) thực hiện nghiên cứu 2 giai đoạn ở
Bangladesh cho thấy tỷ lệ bệnh tâm thần trẻ em theo các tiêu chuẩn chẩn
đoán của ICD 10 là 15%[48]. Shoba và cộng sự (2010) tiến hành nghiên cứu
dịch tễ học hồi cứu từ 12 đến 18 tháng ở 51 vùng của các nước Châu Á nhận
thấy tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên có vấn đề Sức khỏe tâm thần là 1020%[54].

Ở các nước phát triển, mặc dù có hệ thống cơ sở hỗ trợ tâm lý và chăm
sóc sức khoẻ thể chất và tâm thần lâu đời và phong phú, nhưng hầu hết các trẻ
em có nhu cầu hỗ trợ sức khỏe tâm thần đều không được đáp ứng thoả đáng.
Trong số những trẻ được đáp ứng thì phần lớn là thơng qua hệ thống trường
học. Lý do là: 1/3 thời gian trong ngày của trẻ diễn ra ở nhà trường. Nhà
trường vốn từ trước đến nay ln thực hiện vai trị ni dưỡng, giáo dục trẻ,
tức là đảm bảo cho trẻ một sự phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách.
Do vậy, nhà trường luôn sẵn sàng tổ chức các hoạt động trợ giúp, hỗ trợ các
em khi gặp những khó khăn. Trên thực tế, trẻ cũng có thể đến các phịng
khám, trung tâm tư vấn để nhận được sự hỗ trợ này nhưng thơng thường khi
đó, những khó khăn đã trở nên trầm trọng hơn, có thể đã trở thành bệnh lý và
nhiều người rất ngại đến các phòng khám chăm sóc sức khỏe tâm thần vì sợ
bị định kiến, kỳ thị. Ngoài ra, lợi thế trường học là khi thực hiện các hoạt
động này cũng dễ dàng tiếp cận đến số đơng. Chính vì thế, ở nhiều nước,
chính sách tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sức khỏe tâm thần đã quan
tâm đến việc chuyển dịch và hướng các hình thức chăm sóc, hỗ trợ truyền
thơng vào nhà trường.
Theo WHO (2005), có khoảng 20% trẻ em và thanh thiếu niên đang
gặp phải các vấn đề sức khỏe tâm thần về một rối loạn đặc thù nào đó như:
các vấn đề về cảm xúc (trầm cảm, lo âu), các rối loạn liên quan đến stress và


15

các rối loạn dạng cơ thể, tự kỷ, rối loạn trong học tập, rối loạn ứng xử, rối
loạn tâm thần thể chống đối...[62]. Trạng thái tâm lý bệnh học trẻ em thường
gặp là hành vi gây rối và chống đối xã hội (những rối loạn bên ngoài), theo
nghiên cứu do Kleintjes S và cộng sự (2006) tiến hành tại Nam Phi nhận thấy
tỷ lệ các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên là 17%[41].
Rối loạn cảm xúc (những rối loạn bên trong) có tỷ lệ gặp là 2-5%. Những trở

ngại tâm lý và rối loạn dạng cơ thể chiếm 1-3%. Hiếm gặp hơn là các rối loạn
tâm thần trẻ em và rối loạn sự phát triển nói chung (bệnh tự kỷ) gặp
0,1%[49]. Những rối loạn hành vi gây rối và chống đối xã hội thường gặp ở
trẻ trai hơn trẻ gái[4]. Tỷ lệ giữa nam và nữ tương đồng hơn với các rối loạn
cảm xúc, trẻ gái lại hay gặp trầm cảm và chứng biếng ăn nhiều hơn so với trẻ
trai. Những rối loạn cảm xúc (lo âu, trầm cảm) làm giảm sút đáng kể sự phát
triển và khả năng học tập của trẻ. Các rối loạn hành vi gây phá vỡ nghiêm
trọng sự phát triển về mặt xã hội và có thể dẫn tới mắc các chứng bệnh tâm
thần về lâu dài.
Tình hình sức khỏe tâm thần ở học sinh tại Việt Nam:
Việt Nam có dân số trên 90 triệu, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi chiếm
khoảng 30%. Những nghiên cứu về tỷ lệ mắc cũng như các yếu tố liên quan
tới vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em đang chỉ ra rằng trẻ em Việt Nam có
thể có nguy cơ mắc vấn đề sức khỏe tâm thần tăng lên. Nghiên cứu dịch tễ
học gần đây sử dụng bộ câu hỏi SDQ bản dùng cho cha mẹ chỉ ra tỷ lệ mắc
vấn đề sức khỏe tâm thần trẻ em và trẻ vị thành niên tại Đà Nẵng là 9,1%[43].
Nghiên cứu tại Hà Nội, trong 21.960 thanh thiếu niên đã phát hiện 3,7% các
em có rối loạn hành vi thoả mãn các tiêu chuẩn ICD 10[7].
Mckelvey và cộng sự nghiên cứu tỷ lệ của các vấn đề hành vi, cảm xúc
và các điểm mạnh của trẻ từ độ tuổi 4 đến 18 sống tại Hà Nội. Kết quả nghiên
cứu cho thấy nếu dựa trên điểm tiêu chuẩn của Mỹ, từ độ tuổi từ 4-11 tuổi có
5,3% trẻ nam và 7,7% ở trẻ nữ, từ độ tuổi từ 12 đến 18 có 9,5% trẻ nam và
10,1% trẻ nữ được coi là mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần[46].


×