Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.37 KB, 35 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ
TOÁN BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
1.1 Đặc điểm bán hàng trong doanh nghiệp thương mại và yêu cầu quản lý
về kế toán bán hàng
1.1.1 Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh thương mại
Hoạt động thương mại là hoạt động kinh doanh mua, bán hàng hóa nhằm
mục đích tạo ra lợi nhuận. Khác với hoạt động sản xuất, hoạt động thương mại
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất mà nó là giai đoạn cuối cùng của chu trình
tái sản xuất, nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, phục vụ nhu cầu sản
xuất cũng như tiêu dùng của họ. Hoạt động thương mại ra đời và phát triển từ rất
sớm. Qua mỗi thời kỳ phát triển, hoạt động thương mại mang những đặc trưng
riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, thương mại không chỉ phản ánh trực tiếp tới sản
xuất mà nó còn ảnh hưởng tới tất cả các chỉ tiêu kinh tế của một doanh nghiệp.
Doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được nếu mà sản phẩm mà mình sản
xuất ra không tiêu thụ được. Có thể nói hoạt động thương mại đã làm cho nền kinh
tế sôi nổi hơn, tốc độ luân chuyển hàng hóa, tiền tệ diễn ra nhanh chóng hơn.
Trong thời đại ngày nay, hoạt động thương mại không chỉ là hoạt động mua bán
trong nước mà nõ còn được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Thông qua thương
mại quốc tế các mối liên hệ kinh tế được thiết lập, liên kết giữa các quốc gia với
nhau.
Do điều kiện lịch sử của từng thời kỳ mà hiện nay thương mại nói chung và
thương mại quốc tế nói riêng còn chịu sự chi phối của các điều luật kinh tế mà khi
tham gia tất cả các quốc gia đều phải chấp thuận. Chính điều đón đã tạo ra sự ổn
định và cùng tồn tại phát triển bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh.
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp thương mại
Do các doanh nghiệp thương mại chỉ tham gia vào quá trình lưu thông hàng
hoá nên trong hoạt động kinh doanh thương mại không có chi phí sản xuất mà
trong các doanh nghiệp này chỉ liên quan đến giá mua, chi phí thu mua, chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.


Giá mua thường ổn định và tuân theo quy luật của thị trường. Việc hạ thấp giá
mua chỉ phụ thuộc vào việc tìm kiếm nguồn cung cấp. Do vậy, các nhà quản lý
thường chú ý đến việc hạ thấp chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
thông qua việc quản lý có hiệu quả các khoản chi phí này.
Tổ chức quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại hầu hết đều có
nhiều chi nhánh, bộ phận kinh doanh phụ thuộc dù là doanh nghiệp kinh doanh
chuyên doanh hay kinh doanh tổng hợp. Do vậy, bộ máy quản lý thường được tổ
chức giống nhau. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì giữa các phòng ban
trong doanh nghiệp phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Bộ máy kế toán tuỳ theo tuỳ theo điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp có thể
được tổ chức theo mô hình tập trung, phân tán hoặc vừa tập trung vừa phân tán.
Việc đi trước đón đầu, nắm bắt được thông tin thị trường một cách kịp thời, phân
tích và dự đoán các tình huống trong kinh doanh là yếu tố quan trọng, giúp các
doanh nghiệp đưa ra các quyết định chiến lược trong tương lai.
1.1.3 Vai trò của bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong hoạt động
của doang nghiệp thương mại
Quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra qua 4 giai đoạn: Sản xuất – Trao đổi –
Phân phối – Tiêu thụ.
Tiêu thụ là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện giá trị
và giá trị sử dụng của hàng hoá.
Doanh nghiệp thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất với người
tiêu dùng. Chính vì vậy các doanh nghiệp thưong mại có nhiệm vụ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng thường xuyên và liên tục của xã hội. Đồng thời với việc đáp ứng nhu
cầu xã hội đã giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp thương mại được thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu là tiêu thụ
hàng hóa và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá, sản phẩm lao vụ,
dịch vụ cho khách hàng, doanh nghiệp thu đượcc tiền hoặc quyền thu tiền. Tiêu thụ
chính là quá trình trao đổi thông tin qua các phương tiện thanh toán để thực hiện
giá trị của hàng hoá, dịch vụ. Quá trình tiêu thụ là quá trình chuyển vốn kinh doanh

từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị.
Kết quả tiêu thụ hàng hoá là phần chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ hàng hoá
thuần và các khoản chi phí bỏ ra ( bao gồm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và
chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho phần doanh thu hàng bán trong kỳ).
Khoản chênh lệch đó là biểu hiện lãi hoặc lỗ trong kinh doanh hàng hoá và nó góp
phần vào lãi hoặc lỗ trong kinh doanh chung của doanh nghiệp. Khi kết quả tiêu
thụ hàng hoá có lãi sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh
doanh, ngược lại khi kết quả tiêu thụ hàng hoá là lỗ nó sẽ ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh chung của doanh nghiệp, thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản.
Như vậy, kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng, còn bán hàng là một trong
những phương tiện để thực hiện mục tiêu đó. Thông qua hoạt động tiêu thụ hàng
hoá, doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi được vốn kinh doanh đồng thời tạo ra lợi
nhuận. Lúc này doanh nghiệp đã phối hợp hài hoà được ba lợi ích :
Lợi ích của Nhà nước thông qua khoản thuế, phí và lệ phí
Lợi ích của doanh nghiệp thông qua lợi nhuận
Lợi ích của người lao động thông qua tiền lương và các khoản ưu đãi.
Và trong nền kinh tế thị trường hiện na, trước sự canh tranh ngày càng khốc liệt
thì việc xác định đúng vai trò tiêu thụ của công tác tiêu thụ hàng hoá và xác định
kết quả tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý, cung cấp thông
tin cho các nhà lãnh đạo có thể đưa ra những quyết định đúng đắn kịp thời từ đó
nâng cao hiệu quả kinh doanh và vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.4 Nhiệm vụ kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
Để đáp ứng được nhu cầu quản lý về tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu
thụ hàng hoá tại doanh nghiệp thương mại, kế toán phải thực hiện các nhiệm vụ
sau:
* Thứ nhất, phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình tiêu thụ
hàng hoá theo các chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị của chúng.
* Thứ hai, kế toán phải phản ánh và ghi chép đầy đủ kịp thời và chính xác các
khoản doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu và các khoản chi phí liên quan đến
xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá cuối kỳ. Đặc biệt, kế toán cần xác định đúng

thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời lập báo cáo bán hàng và phản
ánh doanh thu.
* Thứ ba, kế toán thường xuyên kiểm tra các khoản nợ, phải mở sổ chi tiết
từng khách hàng để theo dõi chi tiết tình hình thanh toán của từng khách hàng, từ
đó đánh giá khả năng thu hồi để lập dự phòng cho phù hợp.
* Thứ tư, tính toán chính xác và sử dụng nhất quán phương pháp tính giá vốn
của hàng hoá tiêu thụ, từ đó tính toán chính xác kết quả tiêu thụ hàng hoá.
* Thứ năm, tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản và sổ sách phù hợp với chế
độ kế toán hiện hành và phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó cung cấp các thông tin cho nhà quản lý đưa ra các biện pháp kịp thời
nhằm năng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2 Kế toán bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại
1.2.1 Khái niệm và vai trò hoạt động bán hàng
1.2.1.1 Khái niệm hoạt động bán hàng
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là luôn tồn tại và diễn ra sự trao đổi, mua
bán qua lại giữa nhà cung ứng, nhà sản xuất, nhà trung gian và người tiêu dùng…
cùng nhiều thành viên khác của thị trường. Vì thế, thuật ngữ “ bán hàng” là vô
cùng quen thuộc. Có nhiều cách tiếp cận về khái niệm bán hàng:
Thứ nhất: Theo cách tiếp cận khái niệm “bán hàng” dưới góc độ một phạm trù
kinh tế: Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Thông qua bán hàng giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được
thực hiện; vốn của doanh nghiệp được chuyển hoá từ hình thái hiện vật là hàng hoá
sang hình thức giá trị (tiền tệ), doanh nghiệp thu hồi vốn bỏ ra bù đắp được chi phí
và có nguồn tích luỹ để mở rộng hoạt động kinh doanh.[4]
Thứ hai: Hoạt động bán hàng được tiếp cận như một quá trình, từ việc thiết
lập mục tiêu bán hàng đến việc xác định các biện pháp thực hiện mục tiêu và các
nguồn lực cho phép để đạt được mục tiêu. Trong đó, người bán hàng tiến hành các
bước như: Tìm hiểu, khám phá, gợi tạo và đáp ứng nhu cầu hay mong muốn của
người mua để đạt được quyền lợi thoả đáng và lâu dài cho cả hai bên (người mua
được thoả mãn nhu cầu chính đáng của mình qua việc sở hữu hàng hoá dịch vụ,

còn người bán thu về giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền).
Thứ ba: Tiếp cận bán hàng như một giai đoạn của quá trình kinh doanh: Giá
trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đều được tạo ra trong khâu sản xuất nhưng giá
trị hàng hoá được thực hiện trong khâu lưu thông, gắn liền với hoạt động mua bán.
Còn giá trị sử dụng của hàng hoá lại được thực hiện trong khâu tiêu dùng, nằm
ngoài lưu thông. Do đó, bán hàng phải là một khâu không thể thiếu trong quá trình
kinh doanh của các doanh nghiệp, vì nó giúp dịch chuyển quyền sở hữu hàng hoá
cho người mua (để thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá trong tiêu dùng), đồng
thời người bán có thể thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng (thực
hiện giá trị của hàng hoá) để tiếp tục thực hiện các giai đoạn khác, các nhiệm vụ
khác trong quá trình kinh doanh của mình.[1]
Thứ tư: Tiếp cận dưới góc độ hành vi: Bán hàng được hiểu là một hành động
cụ thể, trực tiếp thực hiện việc trao đổi hàng, tiền. Chủ thể của hoạt động trao đổi
là người sản xuất hay Doanh nghiệp Thương mại, người trung gian (nếu có) và
người tiêu dùng cuối cùng. Việc trao đổi gắn liền với một món hàng hoá cụ thể của
người có hàng bán và mỗi người tham gia vào quá trình trao đổi chỉ có thể vai trò
là người bán hoặc người mua.
Và cuối cùng, hoạt động bán hàng được tiếp cận như một khâu quan trọng
cũng là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Hoạt động này được diễn ra khi doanh nghiệp đưa vào thị trường một khối lượng
vật tư hàng hoá và được thị trường chấp nhận, người mua chấp nhận trả tiền (thanh
toán ngay hoặc thanh toán chậm), doanh nghiệp thu được vốn, có lợi nhuận và tiếp
tục quay vòng, tái sản xuất kinh doanh mở rộng… Khi đó có thể coi quá trình bán
hàng đã được thực hiện và đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh.
Tóm lại Bán hàng là hoạt động đặc trưng, chủ yếu trong các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, là mối quan tâm thường xuyên của tất cả các doanh
nghiệp khi tham gia vào thị trường hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
và theo đuổi mục đích lợi nhuận. Từ đó cho thấy, vai trò quan trọng của “bán
hàng” là không thể phủ nhận, cần được đề cập và đánh giá một cách nghiêm túc.

1.2.1.2 Vai trò hoạt động bán hàng
a. Đối với xã hội
Bán hàng là hoạt động trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá, góp
phần tác động đến quá trình tái sản xuất xã hội, phục vụ đời sống xã hội. Hoạt
động bán hàng phát triển sẽ thúc đẩy sức mua, bán nhanh hơn trên thị trường, dẫn
tới sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Bán hàng góp phần điều tiết nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa trên thị trường, tạo ra sự ổn
định và thúc đẩy lưu thông tiền tệ, thúc đẩy cung cầu. Điều hoà giá cả, đảm bảo sự
phát triển cân đối trong từng ngành hàng theo định hướng phát triển của nhà nước,
tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
người dân.
b. Đối với người tiêu dùng
Hoạt động bán hàng trở thành cầu nối trung gian giúp hàng hoá của doanh
nghiệp sản xuất ra đến tới người tiêu dùng và thoả mãn nhu cầu, mong muốn của
người tiêu dùng. Và khách hàng sẽ được cung cấp những hàng hóa dịch vụ có chất
lượng và giá cả hợp lý thông qua hoạt động bán hàng. Nhu cầu của con người ngày
một tăng kéo theo sự phát triển của hoạt động sản xuất hàng hoá, hoạt động bán
hàng có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó trong điều kiện nguồn nhân lực cho phép
của xã hội.
c. Đối với doanh nghiệp
- Bán hàng là một chỉ tiêu quan trọng, cung cấp những thông tin cần thiết về
những ưu điểm, hạn chế của mặt hàng mà doanh nghiệp đang cung cấp cùng sự cần
thiết của các dịch vụ sau bán hàng. Giúp các doanh nghiệp xác định thêm thị
trường mới, khách hàng mới.
- Bán hàng là phương thức cơ bản thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp, vừa là khâu cuối cùng, vừa là khâu quan trọng nhất chi phối các hoạt động
khác của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu lâu dài và quan trọng nhất chính là
lợi nhuận.
- Kết quả bán hàng tốt sẽ phản ánh đúng đắn mục tiêu và chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, thể hiện trình độ tổ chức và năng lực của doanh nghiệp

trên thương trường cũng như nâng cao uy tín của doanh nghiệp… tất cả được biểu
hiện qua doanh số bán hàng, giúp doanh nghiệp định hướng sản xuất và kinh doanh
trong những chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
1.2.2 Các phương thức bán hàng và hình thức thanh toán
2.1.2.1 Các phương thức bán hàng
Trong thực tế sản xuất kinh doanh hiện nay, các doanh nghiệp áp dụng nhiều
hình thức bán hàng khác nhau, phổ biến nhất là hai hình thức: Bán hàng cổ điển và
bán hàng hiện đại.
a. Hình thức bán hàng cổ điển
* Khái niệm: Bán hàng cổ điển là hình thức bán hàng chỉ diễn ra khi người
bán và người mua trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, thoả thuận về tên hàng, số lượng, chất
lượng, giá cả và các điều kiện khác… đối với một loại hàng hoá nhất định.
* Đặc điểm:
- Vai trò trung tâm của khách hàng càng trở nên nổi bật. Người mua chủ động
tìm người bán, còn người bán thụ động chờ người mua. Vì thế, nếu không có khách
hàng thì hoạt động bán hàng sẽ không xảy ra.
- Việc bán và phục vụ khách hàng đều do nhân viên bán hàng thự hiện, từ tiếp
khách. Xác định nhu cầu của khách, giới thiệu, hướng dẫn khách chọn và thử hàng,
bao gói, chuẩn bị hàng hoá để giao… đến tính tiền, giao hàng. Do vậy, hình thức
bán hàng này đòi hỏi nhân viên bán hàng của doanh nghiệp phải có những phẩm
chất tốt, có năng lực chuyên môn cao, có khả năng giao tiếp…
- Hình thức bán hàng này được áp dụng phổ biến cho tất cả các mặt hàng, đặc
biệt là những mặt hàng lương thực, thực phẩm, nông sản có giá trị cao và những
mặt hàng tiêu thụ tương đối chậm.
* Phân loại: Hình thức bán hàng cổ điển có thể được tổ chức thực hiện theo
hai phương pháp:
- Bán hàng cố định: Là phương pháp bán hàng mà việc mua bán được diễn ra
ở một địa điểm cố định nào đó (trong quầy hàng hay cửa hàng) thực chất là các cửa
hàng bán lẻ. Vị trí nơi bán được phân bố mang tính ổn định cao sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để nâng cao được trình độ tổ chức lao động nơi bán. Nơi bán phải đảm

bảo yêu cầu: Thu hút được sự chú ý của khách hàng, thuận tiện cho việc đi lại và
lui tới thường xuyên của công chúng người tiêu dùng. Thông thường các cửa hàng
bán lẻ theo hình thức cổ điển hay được đặt tại các mối giao thông, trên các mặt
phố… với cách bố trí hàng hoá trong quầy phải hấp dẫn, dễ quan sát, dễ phát hiện.
- Bán hàng lưu động: Là phương pháp bán hàng mà việc mua bán được thực
hiện với những hàng hoá được bày bán trên các phương tiện có thể di chuyển được
như: gánh hàng rong, xe đẩy – kéo, xe ôtô, trên các toa tàu… chứ không diễn ra tại
các quầy hàng hay cửa hàng cố định. Việc các phương tiện bán hàng thường xuyên
di chuyển, thay đổi địa điểm bán sẽ giúp cho người bán có thể chủ động tìm kiếm
khách hàng với mặt hàng kinh doanh đa dạng, linh hoạt, có khả năng đáp ứng một
số nhu cầu xác định. Tuy nhiên việc các phương tiện bán hàng theo phương pháp
này sẽ gặp một số hạn chế như: người bán hàng phải tốn nhiều công sức hơn do
phải di chuyển nhiều, quy mô cũng như cơ cấu mặt hàng bị hạn chế hơn do sự đòi
hỏi của đặc tính gọn nhẹ, dễ di chuyển. Mặt khác, điều kiện giữ gìn thuộc tính của
hàng hoá không thuận lợi (dễ bị va đập, khó bảo quản...), giá cả hàng hoá lại cao
hơn so với giá bán ở các cửa hàng cố định... cũng là những điểm rất khó khắc phục
của hình thức này.
b. Hình thức bán hàng hiện đại
* Khái niệm: Hình thức bán hàng hiện đại là hình thức bán hàng mà người
bán và người mua không cần tiếp xúc trực tiếp với nhau mà việc mua bán vẫn có
thể thực hiện được.
* Đặc điểm:
- Việc thiết kế phòng bán là tương đối phức tạp, đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Hàng
hoá phải được chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng (có bao gói, định lượng, giá cả...) và
được trưng bày để ngỏ tại các giá trưng bày.
- Hình thức bán hàng này thoả mãn nhu cầu lựa chọn hàng hoá của khách
hàng là cao nhất. Nhưng thường chỉ được áp dụng đối với việc tiêu thụ một số
hàng hoá nhất định: hàng hoá thông dụng hàng ngày, giản đơn, không cần đến sự
hướng dẫn của người bán về phẩm chất, tính năng, công dụng và cách sử dụng sản
phẩm.

- Khách hàng chủ động, trực tiếp tiếp cận với hàng hoá, cho phép họ có quyết định
mua nhanh chóng hơn, đáp ứng tốt nhu cầu người tiêu dùng và khắc phục sự nghi ngờ
của khách hàng đối với người bán (vì được tự tay chọn hàng cần mua).
- Tiết kiệm chi phí bán hàng do giảm bớt được số lượng nhân viên bán và
năng suất lao động tăng lên. Nhưng để thực hiện phương thức bán hàng này, yêu
cầu doanh nghiệp phải đảm bảo sự tương thích giữa hàng hoá dịch vụ cung ứng với
trang thiết bị, với trình độ của nhân viên bán hàng và với trình độ nhận thức của
khách hàng. Do đó, doanh nghiệp cần huấn luyện và đào tạo nhân viên về kỹ thuật
chào hàng, giới thiệu sản phẩm, phát hiện nguyện vọng của khách hàng, sử dụng
nhân viên thanh toán thành thạo cùng những thiết bị tính tiền nhanh chóng... đồng
thời áp dụng cụ thể các chế độ chịu trách nhiệm vật chất về tiền và hàng, có sự
kiểm tra, giám sát thường xuyên.
* Phân loại: Hình thức bán hàng hiện đại được triển khai dưới nhiều phương
thức cụ thể như:
- Bán hàng theo hình thức tự chọn: Là phương thức bán hàng mà khách hàng
tự chọn cho mình những món hàng cần mua và tự mình mang hàng ra thanh toán ở
nơi thu tiền. Hàng hoá giao bán phải được bao gói, định lượng sẵn, có giá sẵn và
được trưng bày trên giá hay bục, tủ, kệ để sẵn sàng cho khách lựa chọn, thanh toán.
Nhân viên bán hàng tại các quầy hàng, cửa hàng tự phục vụ có nhiệm vụ chủ yếu
là bảo quản, trông coi hàng trên quầy, thanh toán, đôi khi tư vấn cho khách hàng.
- Bán hàng qua điện thoại: Với hình thức bán hàng này. Doanh nghiệp sử
dụng chủ yếu phương tiện viễn thông là điện thoại để chào hàng ít có thời gian
mua sắm hoặc những khách hàng có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp từ lâu...
Họ chỉ việc gọi điện đặt hàng và sẽ được phục vụ tại nhà, có trường hợp không
phải chịu cước phí điện thoại và được phục vụ mọi lúc mọi nơi. Ở nước ta bán
hàng qua điện thoại ngày càng phổ biến và đã tiên phong áp dụng cho một số mặt
hàng như: đặt đồ sẵn, gọi ga, gửi quà...
- Bán hàng qua mạng internet (thương mại điện tử): Là phương pháp bán hàng
hiện đại nhất hiện nay, mới chỉ áp dụng ở một số nước có nền kinh tế và công nghệ
điện tử phát triển cao, nhưng trong tương lai không xa phương thức bán hàng qua

mạng sẽ được phổ cập và phát triển mạnh mẽ rộng khắp trên toàn thế giới. Nhờ sự
phát triển công nghệ tin học và hệ thống máy tính điện tử, khách hàng có thể xem
trước những thông tin về hàng hoá mình cần mua (giá cả, chủng loại, kích cỡ, số
lượng...) đã xó trên trang Web điện tử của doanh nghiệp sản xuất và phân phối. Sau
khi đã lựa chọn xong, khách hàng chỉ việc gửi yêu cầu của mình tới nơi bán hàng
bằng một số thao tác đơn giản trên máy tính. Nếu đạt được những thoả thuận về
mua bán, nhà cung cấp sẽ đưa hàng đến tận nơi cho khách hàng.
- Bán hàng qua hội chợ triển lãm: Đây là hình thức bán hàng phổ biến và
thường xuyên ở nước ta, với mục đích là giúp cho doanh nghiệp tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng của mình, tìm kiếm khách hàng tiềm năng, ký kết các hợp đồng
mua bán đồng thời mở rộng bán lẻ nhằm tăng doanh thu.
2.1.2.2 Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán thể hiện sự tín nhiệm lẫn nhau giữa các đối tác đồng
thời cũng nói lên sự vận động giữa hàng hóa và tiền vốn, đảm bảo cho bên bán bên
mua cùng có lợi. Việc quản lý tiền hàng rất quan trọng trong công tác kế toán. Nếu
quản lý tốt sẽ tránh được tổn thất tiền hàng, giúp doanh nghiệp không bị chiếm
dụng vốn tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh giữ uy tín với khách hàng. Vì vậy tùy từng trường hợp, từng mối quan
hệ mà các doanh nghiệp áp dụng các phương thức thanh toán khác nhau. Có hai
hình thức thanh toán chủ yếu đó là: thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không
dùng tiền mặt.
Thanh toán bằng tiền mặt (thanh toán trực tiếp)
Thanh toán bằng tiền mặt là hình thức thanh toán thông qua việc nhập hoặc
xuất quỹ tiền mặt của doanh nghiệp không qua nghiệp vụ thanh toán của ngân
hàng.
Hình thức thanh toán này được áp dụng phổ biến trong quan hệ thanh toán
giữa doanh nghiệp với tư nhân không có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, giữa
doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp khi trả lương, thưởng,
phạt hoặc giữa doanh nghiệp với các đơn vị kinh tế khác, tiền mặt được sử dụng
trong thanh toán thường là đồng Việt Nam.

Hình thức thanh toán này đơn giản, không phải làm các thủ tục qua ngân
hàng, tuy nhiên với hình thức thanh toán này, nhà nước không thể trực tiếp quản
lý, kiểm soát lưu chuyển tiền tệ của các Doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, gây lãng phí và chi phí tốn kém trong việc vận chuyển và bảo quản
tiền mặt, trong trường hợp thanh toán với số tiền lớn sẽ gây khó khăn cho cả bên
thanh toán và bên được thanh toán.
Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt:
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán được tiến hành thông
qua việc thực hiện bút toán trên tài khoản tiền giửi ngân hàng của các đơn vị, các
Doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác nhau, tùy thuộc vào
từng thương vụ, từng loại khách hàng mà việc thanh toán có thể được thực hiện
theo một số hình thức sau:
 Thanh toán theo phương thức chuyển tiền
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng
(người trả tiền, người mua, người mắc nợ...) ủy nhiệm cho ngân hàng phục vụ
mình trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định chuyển cho một người khác
ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
Phương tiện thanh toán theo phương thức này thường là trả tiền bằng điện
(T/T) hoặc bằng thư (M/T) thông qua ngân hàng trung gian, doanh nghiệp phải chi
trả tiền thủ tục phí.
 Thanh toán bằng séc
Séc là lệnh vô điều kiện do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của
ngân hàng, yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của chủ tài khoản một số tiền nhất
định để trả cho đơn vị được hưởng có tên trong séc hoặc người cầm séc. Đơn vị
được hưởng séc đem tờ séc đó nộp vào ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện thanh
toán chuyển tiền cho người được hưởng séc.
 Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
Giấy tờ thu là lệnh của bên bán nhờ ngân hàng nơi bên mua thu hộ số tiền ghi
trong hóa đơn, có hoặc không có kèm theo các chứng từ hàng hóa. Thanh toán theo

ủy nhiệm thu có thể dùng trong thanh toán giữa các đơn vị có cùng tài khoản tiền
gửi ngân hàng ở một ngân hàng hoặc có tài khoản tiền gửi ngân hàng ở hai ngân
hàng khác nhau.
 Thanh toán theo ủy nhiệm chi
Uỷ nhiệm chi là lệnh của chủ tài khoản, lập trên mẫu in sẵn của ngân hàng để
yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản giao dịch của doanh
nghiệp để trả cho người được hưởng hoặc chuyển vào một tài khoản khác của mình
ở ngân hàng khác.
 Thanh toán theo thư tín dụng (L/C)
Thư tín dụng là lệnh của ngân hàng bên bán đề nghị ngân hàng bên mua trả
tiền cho bên bán số hàng hóa đã giao và lao vụ đã cung ứng cho bên mua theo các
điều kiện đã ghi trong hợp đồng kinh tế và giấy xin mở thư tín dụng.
 Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là thẻ điện tử của ngân hàng cấp cho người mua để làm công
cụ thanh toán thông qua mạng điện toán của ngân hàng. Người muốn sử dụng thẻ
thanh toán phải làm thủ tục với tổ chức phát hành thẻ về dịch vụ thẻ thanh toán để
nhận thẻ thanh toán mang về sử dụng, thẻ thanh toán bao gồm các loại thẻ như: thẻ
rút tiền tự động, thẻ ghi nợ tự động hay thẻ tín dụng.
 Thanh toán bù trừ
Là hình thức thanh toán mà định kỳ 2 bên tiến hành đối chiếu giữa số tiền
được thanh toán với số tiền phải thanh toán. Các bên tham gia thanh toán bù trừ chỉ
cần phải ghi số chênh lệch sau khi đã bù trừ. Hình thức này được áp dụng trong
trường hợp hai bên có quan hệ mua bán hàng hóa với nhau.
Trong nền kinh tế thị trường việc thanh toán nhanh gọn là một nhân tố góp
phần thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa và sự thắng lợi của doanh nghiệp
trong cạnh tranh.
2.1.3 Phương thức tính giá hàng xuất kho
a. Phương pháp bình quân gia quyền
Theo phương pháp này giá thực tế của hàng xuất kho được tính trên cơ sở số
lượng hàng hóa xuất kho và đơn giá bình quân của hàng hóa đầu kỳ và nhập trong

kỳ.
Phương pháp này được áp dụng khi không xác định được hàng hóa xuất kho
thuộc lần nào.
Trị giá thực tế Trị giá thực tế
hàng tồn đầu kỳ nhập trong kỳ
Số lượng hàng Số lượng hàng
tồn đầu kỳ nhập trong kỳ
Trị giá thực tế hàng của Số lượng hàng Đơn giá bình quân
hàng xuất kho xuất kho
b. Phương pháp thực tế đích danh
Khi áp dụng phương pháp này, trị giá của hàng tồn kho cuối kỳ chịu ảnh
x
=
Đơn giá bình quân
x
=
x

×