Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tổng quan về công ty cổ phần thuỷ điện Thác Bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.13 KB, 9 trang )

Tổng quan về công ty cổ phần thuỷ điện Thác Bà.
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần thuỷ điện Thác
Bà.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng
lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền
Bắc phấn khởi bắt tay vào công cuộc khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh,
cải tạo nền kinh tế, đi lên xây dựng CNXH. Xuất phát từ quan điểm điện phải đi
trước một bước so với các ngành kinh tế khác, coi điện là hạ tầng cơ sở quan
trọng để phát triển các ngành kinh tế, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương xây
dựng nhà máy Thuỷ điện Thác Bà, nhằm cung cấp điện năng phục vụ cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ CNXH ở miền Bắc, góp phần chi viện cho miền Nam
đánh thắng Mỹ, Nguỵ tiến tới thống nhất đất nước.
Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng đã nêu: “Trong kế hoạch phát
triển 5 năm, công nghiệp điện lực đi trước một bước, chú trọng phát triển công
nghiệp gang thép, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây
dựng và bước đầu xây dựng công nghiệp hoá”.
Các nhà máy nhiệt điện của chúng ta lúc đó có công suất phát điện nhỏ,
không đủ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, tổng sản lượng điện năm của các
nhà máy chỉ đạt 40.324.000 kWh, nhiều thị xã, xóm thợ chưa có điện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dưới sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước,
nghành điện đã góp phần quan trọng vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh
tế ở miền Bắc. Thời kỳ 1961 – 1965, một số nhà máy nhiệt điện đã được xây
dựng như: Việt Trì, Thái Nguyên, Hà Bắc, Uông Bí. Tuy nhiên, so với yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc thì nguồn điện năng hiện có của
chúng ta vẫn chưa thể đáp ứng được sản xuất và tiêu dùng. Chủ trương của Đảng
và Nhà nước ta là phát triển công nghiệp điện lực, trong đó chú trọng tới thuỷ
điện, nhằm khai thác hiệu quả nguồn thuỷ năng dồi dào của nước ta. Dựa vào vị
thế của Thác Bà, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nhà máy thuỷ điện
Thác Bà trên sông Chảy với công suất thiết kế 108 MW, sản lượng điện bình
quân khoảng 400 triệu kWh/năm. Xây dựng nhà máy thuỷ điện Thác Bà còn tạo
nên một hồ nhân tạo với sức chứa dung tích xấp xỉ 3 tỷ m


3
nước, có tác dụng cắt
lũ tích cực cho đồng bằng sông Hồng vào mùa mưa, giúp cho nhân dân ở miền
xuôi hạn chế được một phần lũ lụt.
Công việc khảo sát và thiết kế nhà máy được Liên Xô giúp đỡ. Tháng
7/1959, đoàn chuyên gia thuộc Viện Điện khí hoá nông nghiệp Liên Xô cùng
đoàn cán bộ của Bộ Thuỷ lợi nước ta đi khảo sát trên sông Lô, sông Chảy, sông
Gâm… Mục đích của cuộc khảo sát là tìm điểm thích hợp nhất, tập trung tối đa
những thuận lợi để xây dựng nhà máy. Công việc khảo sát phải diễn ra nhiều
ngày ở nơi rừng sâu, địa hình núi đồi hiểm trở, đi lại rất khó khăn. Mặc dù cuộc
sống và công việc gian khổ, song các cán bộ và công nhân Việt Nam cùng các
chuyên gia Liên Xô đã tỏ rõ quyết tâm cao và khắc phục mọi khó khăn để làm
việc. Sau một thời gian dài đi khảo sát thực địa, tính toán cân đối, các chuyên gia,
cán bộ công nhân của ta đã hoàn thành bản báo cáo kinh tế – kỹ thuật của 5 địa
điểm có khả năng xây dựng được nhà máy với các mức công suất: Quảng Cư trên
sông Phó Đáy-17 MW; Lang Hít trên sông Cỗu-25MW; Thác Bà trên sông Chảy-
100 MW; Thác Cái trên sông Lô-280 MW và Lực Hành trên sông Gâm-485 MW.
Những kết quả khảo sát chứng tỏ tiềm năng về thuỷ điện của Việt
Nam thật dồi dào. Các chuyên gia cùng cán bộ của Bộ Thuỷ lợi nước ta thống
nhất phương án chọn điểm Thác Bà có quy mô và hữu ích phù hợp với khả năng
xây dựng và bước phát triển của nền kinh tế miền Bắc nước ta thời kỳ đó. Tuy
nhiên phải tiếp tục giải quyết một số việc mới khẳng định được sự lựa chọn trên,
đó là tìm hiểu nền móng của công trình đầu mối, đặc trưng thuỷ văn của sông
Chảy; việc thẩm thấu của vùng hồ. Các yếu tố nêu trên rất quan trọng đối với sự
lựa chọn của nhà máy, quyết định đến tuổi thọ của công trình. Năm 1960, các
chuyên gia Liên Xô và cán bộ công nhân nước ta tới Thác Bà. Hai chuyến xà lan
được neo chắc ở tuyến khoan cùng đội ngũ công nhân trẻ hăng hái làm việc.Kết
quả tổng hợp về khoan ở vị trí Thác Bà trên sông Chảy được kết luận: Là một vị
trí rất tốt về mặt địa chất và không nghi ngờ gì nữa, hoàn toàn có thể xây dựng
một nhà máy thuỷ điện ở đây.

Xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Thác Bà là một quá trình lâu dài và khó
khăn đối với đội ngũ cán bộ công nhân xây dựng Việt Nam và các chuyên gia
Liên Xô. Phải thi công trên một địa hình đồi núi phức tạp, hiểm trở là một thử
thách lớn đối với những người xây dựng. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh
phá hoại miền Bắc thì công trường xây dựng nhà máy còn là chiến trường ác liệt
giữa ta và địch. Năm 1961, những người xây dựng đầu tiên đến Thác Bà đó là
ngững đơn vị bộ đội từ khắp các chiến trường trong cả nước sau chiến thắng thực
dân Pháp tập trung về Thác Bà để xây dựng nhà máy. Trong số bộ đội phần đông
thuộc sư đoàn 308. Cũng như trong chiến đấu, trong lao động khó khăn gian khổ,
bộ đội lại là những người đầu tiên vào cuộc với khí thế mạnh mẽ, quyết tâm
chiến thắng thiên nhiên như họ đã chiến thắng kẻ thù xâm lược. Biến Thác Bà
trên sông Chảy trở thành nhà máy thuỷ điện phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất
nước. Sau bộ đội là lực lượng thanh niên nam nữ từ các tỉnh miền xuôi Hải Hưng,
Nam Định, Thái Bình… lần lượt tập trung về Thác Bà. Nhiệm vụ của họ là cùng
với các đơn vị bộ đội khai phá khu vực rừng núi Thác Bà hoang vu để trở thành
công trường xây dựng nhà máy. Chỉ huy toàn bộ lực lượng công nhân xây dựng
Việt Nam trên công trường là Đại tá quân đội Vũ Nhất. Đến công trường xây
dựng nhà máy còn có hơn 100 chuyên gia Liên Xô từ khắp các nước cộng hoà
Nga, Ucraina, Udơbếch… Họ là những chuyên gia phụ trách kỹ thuật, trực tiếp
làm việc và hướng dẫn các kỹ sư và công nhân kỹ thuật Việt Nam tiếp thu những
tiến bộ khoa học kỹ thuật mới phục vụ cho ngành thuỷ điện non trẻ của chúng ta.
Sự có mặt của các chuyên gia Liên Xô thể hiện mối tình đoàn kết, hợp tác hữu
nghị của Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam – Liên Xô. Với sự
giúp đỡ to lớn về mặt vật chất và kỹ thuật, việc xây dựng nhà máy nhanh chóng
được thực hiện.
Theo dự tính, công trình sẽ được hoàn thành trong khoảng bốn, năm năm.
Nhưng nghiệt ngã thay, công tác chuẩn bị thực hiện quá lâu, từ khâu khảo sát, mở
công trường, mở đường khai thác vật liệu, khoan nổ mìn phá núi Hoàng Thi khai
thác khoảng một triệu rưỡi mét khối đá và chuyển về trạm nghiền sàng đá, dựng
trạm trộn bê tông, xưởng cưa xẻ, xây nhà cho chuyên gia, dựng lán trại cho công

nhân ở. Rồi lại san núi, đắp đê quai, đào hố móng sâu đến dưới lòng sông hàng
chục mét. Những máy ủi, máy xúc, máy khoan hối hả làm việc để đào xong cái
hố móng khổng lồ hàng chục mét khối đất đá, rồi lại phải khoan sâu vài chục
mét, với tổng chiều dài các lỗ khoan hơn hai mươi nghìn mét, phụt vữa xi măng
hàng nghìn tấn để biến cái nền đá thành một khối bê tông vững chắc, công việc
chuẩn bị kéo dài đến ba, bốn năm trời.
Cho đến ngày 19 tháng 8 năm 1964, ngày chính thức khởi công công trình,
đó là ngày đáng ghi nhớ. Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đã trịnh trọng đặt những
đồng tiền mang hình Bác Hồ dưới nền móng công trình,tượng trưng cho thời đại
Hồ Chí Minh, đồng thời Phó Thủ tướgn là người đổ mẻ bê tông đầu tiên vào hố
móng. Không như ở các công trình khác, ngày khởi công là ngày động thổ. Còn ở
đây, người ta động thổ trước đó mấy năm với nhịp hối hả suốt đêm ngày.
Năm 1966, máy bay Mỹ đánh phá ác liệt vào công trường. Hai ngày 8 và
21/7/1966, máy bay Mỹ ném bom dọc công trường với chiều dài 3-4 km, làm gần
100 công nhân đang lao động hy sinh. Đảng bộ, Ban giám đốc công trường, đã
quán triệt sâu sắc chiến tranh nhân dân của Đảng, nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm
quan trọng của nhiệm vụ xây dựng CNXH ở nước ta. Công tác phòng không
phân tán cất giấu tài sản, chuyển thời gian sản xuất theo thời chiến và giữ vững
trận địa sản xuất được khẩn trương triển khai.
Ngày 5/10/1971 là ngày khánh thành Tổ máy số 1 Nhà máy Thuỷ điện Thác
Bà, là đứa con đầu lòng và là cái nôi của ngành Thuỷ điện Việt Nam.
Khi nhà máy mới ra đời có 5 phòng ban và 2 phân xưởng:
-Phòng tổ chức.
-Phòng hành chính.
-Phòng kế hoạch – kỹ thuật.
-Phòng tài vụ.
-Phân xưởng điện.
-Phân xưởng máy.
Năm 1976, Nhà máy sáp nhập với một bộ phận của Ban A (Bộ Thuỷ lợi)
thành lập phân xưởng thuỷ lực. Năm 1978, để bố trí hợp lý hơn các phân xưởng

sản xuất, từ phân xưởng điện tách thành phân xưởng cơ điện và phân xưởng vận
hành. Năm 1989, phòng tổ chức sáp nhập với phòng hành chính. Sự hợp nhất này
làm cho cơ cấu Nhà máy gọn nhẹ hơn.
Ta có thể tóm tắt những mốc son lịch sử của Nhà máy Thuỷ điện Thác Bà
như sau:
• Năm 1959 - 1961: Khảo sát thiết kế công trình.
• Năm 1962 - 1964: Xây dựng công trình phụ trợ (xí nghiệp nghiền sàng
đá, trộn bê tông, cốt thép, sửa chữa ô tô, xưa xẻ gỗ…). Xây dựng các công trình
hạ tầng (hệ thống đường thi công, hệ thống điện công trường, nhà ở cho chuyên
gia và cán bộ, công nhân viên). Đào hố móng công trình.
• Ngày 19/8/1964: Lễ khởi công xây dựng công trình Thuỷ điện Thác Bà.
Phó thử tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị đã tham gia đổ mẻ bê tông đầu tiên cho
nền móng công trình.
• Ngày 8/7 và 21/7/1966: Giặc Mỹ ném bom trên toàn bộ công trình đang
thi công làm chết gần 100 cán bộ công nhân viên xây dựng công trình (chưa kể số
bị thương), công trình tạm dừng thi công, đến tháng 8/1968 tiếp tục thi công công
trình.
• Ngày 22/2/1970: Hội lấp sông, nắn dòng sông Chảy qua các cửa tràn
của Nhà máy. Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đã dự hội nghị lấp sông.
• Ngày 5/10/1971: Lễ khánh thành và khởi động tổ máy số 1 của Nhà
máy. Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị đã tham gia khởi động tổ máy số 1
và bắt đầu phát điện lên lưới điện quốc gia.
• Ngày 10/3/1972: Khởi động chạy tổ máy số 2.
• Ngày 19/5/1972: Khởi động tổ máy số 3.
• Dự kiến khánh thành Nhà máy vào cuối năm 1972.

×