Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY AMECO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.2 KB, 19 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN NHẬP
KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY AMECO
3.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI
CÔNG TY AMECO
Nhìn lại chặng đường ra đời và phát triển của công ty Tự động hoá- Cơ khí-
Môi trường, một chặng đường chưa dài của một doanh nghiệp, có thể nói là một
doanh nghiệp trẻ, ra đời trong cơ chế mới. Đất nước trong công cuộc đổi mới, công
cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Bước đầu công ty gặp rất nhiều khó khăn trong
việc thích ứng và tồn tại, tuy nhiên cùng với sự cố gắng của toàn bộ cán bộ, công
nhân viên, công ty đã dần khẳng định vị trí, uy tín của mình trên thương trường.
Qua thời gian thực tập tại công ty, em xin đưa ra một số nhận xét về tình hình
hoạt động kinh doanh hàng hoá nhập khẩu và tổ chức công tác hạch toán nghiệp vụ
nhập khẩu hàng hoá của công ty như sau:
3.1.1. Ưu điểm
Về tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá:
+ Công ty AMECO là một doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu tương đối
lớn. Công ty có quan hệ ngoại thương với khá nhiều nước trên thế giới như Nhật,
Mỹ, Hàn Quốc... Ngoài ra công ty còn có một đội ngũ cán bộ kinh doanh nhiều
kinh nghiệm, có trình độ và có trách nhiệm.
Bên cạnh những ưu điểm, trong hoạt động kinh doanh hàng hoá nhập khẩu
của công ty còn tồn tại những vấn đề sau:
+ Thị trường tiêu thụ và hình thức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu của công ty
còn hạn hẹp, chủ yếu là tại Hà Nội và chủ yếu là bán buôn.
+ Công ty chưa có kế hoạch dự phòng cho hàng hoá để đề phòng, tạo thế chủ
động cho công ty trong trường hợp có những nhân tố khách quan làm giảm giá
hàng hoá của công ty.
Về tổ chức công tác kế toán và tổ chức hạch toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng
hoá tại công ty AMECO
+Thứ nhất: Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh và tổ chức hệ thống kinh
doanh của mình, công ty đã chọn cho mình hình thức tổ chức bộ máy kế toán vừa
tập trung, vừa phân tán. Hình thức này tạo nhiều điều kiện kiểm tra, giám sát của


kế toán đối với các hoạt động của các bộ phận, ở các chi nhánh và các đơn vị trực
thuộc cũng như trong toàn công ty. Hạn chế bớt những khó khăn trong việc phân
công lao động, chuyên môn hoá, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên kế
toán cũng như có thể trang bị áp dụng phương tiện tính toán và thông tin trong
công tác kế toán.
+ Thứ hai: Việc tổ chức hệ thống bộ máy kế toán và phân công công việc
trong bộ máy kế toán của công ty tương đối tốt, phù hợp với khối lượng công việc
và đáp ứng được các yêu cầu quản lí đặt ra Trình độ lao động kế toán 100% tốt
nghiệp đại học, có khả năng sử dụng máy vi tính, giao tiếp bằng tiếng Anh. Kế
toán trưởng của công ty là người có kinh nghiệm trong nghề, có trình độ toàn diện
về kế toán, hiểu biết và nắm chắc các chế độ về kế toán và kiểm toán, có khả năng
hướng dẫn, chỉ đạo kế toán viên trong thực hiện phần nghiệp vụ của mình, nhờ đó
mà các hoạt động của phòng Kế toán - Tài chính được thực hiện nhịp nhàng, đúng
theo chế độ qui định, đáp ứng được nhu cầu quản lý về mặt tài chính.
+ Thứ ba: Về hệ thống chứng từ: công ty sử dụng theo đúng mẫu qui định của
Bộ Tài Chính và cũng tuân thủ đúng các thủ tục ngoại thương và thông lệ quốc tế.
Thông tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được ghi chép đầy đủ, kịp thời.
Chứng từ được quản lí chặt chẽ, có qui trình luân chuyển tương đối tốt, được lưu
trữ cẩn thận, khi cần có thể tìm và đối chiếu, kiểm tra nhanh chóng, thuận tiện.
+Thứ tư: Về hệ thống tài khoản: Hệ thống tài khoản của công ty sử dụng
trong công tác tổ chức nhập khẩu hàng hoá được chi tiết tương đối phù hợp. Ví dụ
như các tài khoản 131,331, kế toán chi tiết cho từng đối tượng bạn hàng nên thuận
tiện cho việc theo dõi với từng bạn hàng.
+ Thứ năm:Về phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Phương pháp hạch toán
mà công ty áp dụng trong các nghiệp vụ nhập khẩu là phương pháp kê khai thường
xuyên. Phương pháp này tạo điều kiện cho việc phản ánh, ghi chép và theo dõi
thường xuyên sự biến động hàng ngày hàng giờ của tài sản, hàng hoá, không phụ
thuộc vào kết quả kiểm kê. Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh nhập khẩu được
thực hiện trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết, việc mua bán đươc thực hiện theo
từng lô hàng và nhập về thường được giao thẳng cho khách hàng nên phương pháp

giá thực tế đích danh dùng để xác định trị giá vốn hàng bán là đơn giản và chính
xác. Tỷ giá dùng trong hạch toán các nghiệp vụ nhập khẩu là tỷ giá mua ngoại tệ
thực tế của ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Cuối mỗi kỳ khi phải lập các báo
cáo tài chính, kế toán tiến hành điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo tỷ giá thực tế do
ngân hàng công bố ngày cuối kỳ. Số chênh lệch tỷ giá được phản ánh trên tài
khoản 413 được xử lý vào tài khoản 515 - thu nhập hoạt động tài chính hoặc tài
khoản 635 – chi phí hoạt động tài chính.
+ Thứ sáu: Hình thức ghi sổ được áp dụng tại công ty AMECO là Nhật ký
chung. Hình thức này đơn giản về qui trình hạch toán, khối lượng công việc phân
đều trong tháng. Số lượng sổ phù hợp với qui mô của doanh nghiệp và thuận tiện
cho việc áp dụng kế toán máy.
+ Thứ bảy: Về hệ thống sổ chi tiết: Công ty có hệ thống sổ chi tiết khá hoàn
chỉnh. Kế toán mở sổ theo dõi từng đối tượng, chẳng hạn đối với hàng tồn kho, kế
toán chi tiết từng loại hàng theo từng hợp đồng ngoại, với các khoản phải thu, phải
trả: chi tiết theo đối tượng cần thanh toán, với tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ: chi
tiết theo từng loại ngoại tệ và từng ngân hàng nơi đơn vị có quan hệ giao dịch.
Cuối tháng, kế toán sẽ tổng hợp chi tiết theo khoản mục, làm cơ sở để đối chiếu
với Sổ Cái. Với hệ thống sổ chi tiết như vậy, qui trình hạch toán của công ty tỏ ra
khá chặt chẽ, khả năng kiểm tra kiểm soát cao.
+ Thứ tám: Việc áp dụng 100% kế toán máy giúp cho việc ghi chép sổ sách
đơn giản hơn rất nhiều, giảm sai sót trong khâu tính toán so với kế toán thủ công.
Ngoài ra, nhờ sử dụng máy vi tính, việc lọc, tìm kiếm dữ liệu, xử lý thông tin
nhanh hơn, chính xác hơn.
3.1.2. Tồn tại, nguyên nhân chủ yếu:
Cùng với những ưu điểm mà công ty đã đạt được trong tổ chức bộ máy kế
toán và công tác kế toán hàng nhập khẩu thì vẫn còn một số tồn tại đòi hỏi cần phải
được quan tâm, xem xét nhằm không ngừng hoàn thiện công tác kế toán hàng nhập
khẩu. Cụ thể là:
+ Thứ nhất: Trong hạch toán nghiệp vụ nhập khẩu trực tiếp, theo chế độ kế
toán hiện hành, khi hàng nhập khẩu đã làm xong thủ tục hải quan, nhưng cuối

tháng hàng chưa về tới kho của đơn vị thì ghi Nợ TK 151, nếu đã nhập kho trong
kỳ thì ghi Nợ TK 1561. Như vậy bên nợ của tài khoản 151 chỉ được ghi khi cuối
tháng, hàng chưa về nhập kho nhưng đã làm xong thủ tục hải quan để xác định
quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với hàng nhập khẩu. Còn TK 1561 chỉ ghi bên
Nợ khi hàng đã kiểm nhận nhập kho, thủ kho đã lập Phiếu nhập.
Thực tế tại công ty AMECO, khi chuyển tiền mua hàng, kế toán đã phản ánh
ngay vào bên Nợ TK 151, khi hàng về, làm xong thủ tục hải quan rồi mới chuyển
sang TK 1561. Cách hạch toán này là không đúng, kế toán đã phản ánh sai nội
dung kinh tế của nghiệp vụ. Việc chuyển tiền mua hàng xảy ra trước khi nhận được
hàng, do đó đây là nghiệp vụ ứng trước tiền cho người bán chứ không phải là
nghiệp vụ mua hàng trả tiền ngay. Ngoài ra khi chuyển tiền mua hàng, kế toán căn
cứ vào sổ phụ của ngân hàng để ghi Nợ TK 151. Việc sử dụng chứng từ này là sai
qui định vì căn cứ để ghi Nợ TK 151 là tờ khai hải quan và bộ chứng từ của bên
bán gửi.
+ Thứ hai: Khi hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ, kế toán đã
không sử dụng TK 007 để theo dõi nguyên tệ các loại, mà chỉ phản ánh ở cột
nguyên tệ trên TK 1122 mặc dù nghiệp vụ nhập khẩu sử dụng rất nhiều loại ngoại
tệ. Việc này làm giảm khả năng đối chiếu, rà soát tình hình tăng, giảm từng loại
ngoại tệ hiện doanh nghiệp đang sử dụng.
+ Thứ ba: Về tỷ giá trong nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá: Công ty sử dụng tỷ
giá thực tế. Tỷ giá này phản ánh được đúng giá trị của hàng hoá, các khoản phải
thu, các khoản phải trả... nhưng cũng tương đối phức tạp đối với một doanh nghiệp
có nhiều nghiệp vụ phát sinh liên quan đến ngoại tệ.
Theo qui định của Bộ Tài Chính, nếu sử dụng tỷ giá thực tế thì mọi nghiệp vụ
liên quan đến ngoại tệ đều ghi sổ theo tỷ giá thực tế bình quân liên ngân hàng công bố tại
thời điểm phát sinh. Đối với nghiệp vụ nhập khẩu trực tiếp, giá trị hàng được tính theo tỷ
giá thực tế khi hàng làm xong thủ tục hải quan.
Tại công ty AMECO, nếu mua hàng không theo phương thức trả trước, bán
hàng không có khoản ứng trước của khách thì kế toán phản ánh đúng theo chế độ.
Ngoài các trường hợp đó, kế toán qui đổi giá trị hàng hoá nhập khẩu theo tỷ giá

thực tế ngân hàng ngoại thương công bố tại thời điểm công ty mua ngoại tệ chuyển
tiền trả trước cho người bán hoặc mua ngoại tệ ký quĩ mở L/C (ký 100% giá trị
L/C). Mục đích của việc sử dụng tỷ giá như vậy nhằm hạn chế tối đa việc điều
chỉnh chênh lệch tỷ giá song lại không phản ánh đúng giá trị thực của doanh thu và
giá vốn, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
+ Thứ tư: Kế toán công ty không sử dụng tài khoản nào để theo dõi hàng
nhập khẩu uỷ thác trong trường hợp công ty tổ chức tiếp nhận hàng tại cửa khẩu,
đưa về nhập kho rồi vận chuyển đến cho khách hàng. Toàn bộ giá trị hàng nhập
khẩu uỷ thác đều được phản ánh vào TK 3388 khi hàng về, làm xong thủ tục hải
quan. Cách hạch toán này tuy đơn giản, giảm được một số tài khoản trung gian song
không rõ ràng, dễ nhầm lẫn. Ngoài ra việc ghi nhận giá trị hàng uỷ thác nhập khẩu
chỉ ghi bên Nợ TK 3388 khi bên giao uỷ thác đến tận cửa khẩu để nhận hàng. Với
cách hạch toán trên, kế toán đã bỏ sót nghiệp vụ.
+ Thứ năm: Mọi khoản chi phí liên quan đến quá trình mua hàng nhập khẩu như
chi phí bốc dỡ hàng, phí hải quan, phí vận chuyển đến kho của công ty, phí giao dịch
với ngân hàng liên quan đến việc nhập khẩu như phí mở L/C, phí chuyển tiền... không
được hạch toán vào TK 1562 mà tập hợp hết vào TK 641, TK 642. Điều đó làm cho
việc phản ánh giá vốn của công ty không chính xác.
Cuối kỳ, toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được kết chuyển hết sang TK 911
mà không phân bổ cho hàng chưa tiêu thụ cuối kỳ. Chính vì vậy chi phí trong kỳ sẽ
tăng lên, không tương xứng với doanh thu bán hàng, gây ra sự thiếu chính xác
trong việc xác địng kết quả kinh doanh từng mặt hàng cũng như từng hợp đồng, và
khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động, lập kế hoạch, chiến lược kinh
doanh của công ty.
+ Thứ sáu: Về hạch toán dự phòng giảm giá hàng tồn kho và nợ phải thu khó
đòi: hiện nay công ty chưa áp dụng phương pháp dự phòng giảm giá tài sản, mà
đây là phương pháp thể hiện nguyên tắc thận trọng trong kinh doanh. Dự phòng
giảm giá tài sản nếu được lập hợp lí sẽ làm tăng chi phí, do vậy tạm thời làm giảm
thu nhập ròng của niên độ báo cáo – niên độ lập dự phòng. Tuy nhiên điều đó lại
hết sức cần thiết nhất là trong điều kiện giá cả hàng hoá trên thị trường luôn biến

động do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, đặc biệt với các loại thiết bị hiện
đại. Quá trình lưu chuyển dài sẽ làm giảm giá trị hàng hoá do hao mòn vô hình.
Đối với người mua, việc lập dự phòng phải thu khó đòi cũng là yêu cầu cần
xem xét vì các hợp đồng công ty ký với khách hàng thường có giá trị lớn, hình
thức thanh toán chậm cũng nhiều.
Việc lập dự phòng đối với hàng hoá và khách hàng giúp cho công ty có sự
chuẩn bị trước những tổn thất có khả năng xảy ra và nếu không gặp các rủi ro đó,
công ty sẽ có lợi hơn.
+ Thứ bảy: Khi hạch toán thuế nhập khẩu và thuế GTGT của hàng nhập khẩu,
kế toán căn cứ vào tờ khai hải quan để ghi sổ. Để đơn giản và thuận tiện cho việc
ghi chép, kế toán thường phản ánh bút toán nộp thuế trước. Đến cuối kỳ, kế toán
tổng hợp lại và ghi một lần bút toán thuế. Cách ghi này mặc dù giảm được số lần
ghi chép trùng lắp song lại nảy sinh những vấn đề như: khi xác định giá hàng nhập
bao gồm giá mua + thuế nhập khẩu - giảm giá hàng mua (nếu có). Nếu cuối kỳ mới
ghi bút toán tính thuế nhập khẩu thì giá hàng nhập trong kỳ không có thuế. Vì vậy,
khi xuất hàng, việc tính giá vốn lại trở nên phức tạp, khó đối chiếu với hạch toán
chi tiết.

×