Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nâng cao chất lượng giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 101 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ SỸ HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐINH THẾ ĐỊNH

Nghệ An, 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ SỸ HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Nghệ An, 2017


3

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến: Ban Lãnh đạo nhà trường,
Phòng đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được học tập, rèn luyện trong thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình giảng
dạy, giúp đỡ chúng tơi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt,
PGS. TS. Đinh Thế Định - người hướng dẫn khoa học đã tận tình, quan tâm
định hướng, hỗ trợ tơi trong suốt q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh,
Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh và các đồng nghiệp đã cung cấp cho tôi
những tư liệu hết sức q báu để tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến những người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã ln động viên, khích lệ,
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện đề tài này.
Nghệ An, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Hồ Sỹ Hùng


4


MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

1

LỜI CẢM ƠN

2

MỤC LỤC

3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

4

MỞ ĐẦU

5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ CHẤT

12

LƯỢNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1.Vị trí, vai trị và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

12

1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

18

1.3.Tiêu chí đánh giá chất lượng và yếu tố đảm bảo chất lượng giám sát của Hội

30

đồng nhân dân cấp tỉnh
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ CHẤT LƯỢNG

40

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
2.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động giám sát và chất lượng hoạt động giám

40

sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An

47

2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An 71
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT


77

CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An

77

3.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân

79

tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN

98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

101


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. HĐND: Hội đồng nhân dân
2. UBND: Ủy ban nhân dân
3. VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân
4. TAND: Tòa án nhân dân



6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội đồng nhân dân ở nước ta được thành lập từ cuối năm 1945 theo Sắc
lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Chủ tịch
Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hơn bảy mươi năm qua, vị
trí vai trị của HĐND các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước và đời
sống xã hội ngày càng được khẳng định. Với vai trò là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, HĐND đã góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ, đảm bảo mối quan hệ
hai chiều được dung hoà giữa yếu tố quyền lực Nhà nước và yếu tố ý chí của
nhân dân.
Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức
năng giám sát. Trong đó, chức năng giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng
bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. HĐND
thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, Uỷ ban
nhân dân, Toà án nhân dân, VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương.
Thời gian qua, hoạt động giám sát của HĐND đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Nội dung giám sát khá toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong
từng thời gian. Hình thức giám sát, phương thức tổ chức hoạt động giám sát
được đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, nâng cao tính cơng khai, minh bạch,
có sự tham gia ý kiến của nhân dân, sự tham gia, phối hợp giám sát của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Hoạt động giám sát
đã phát huy tính chủ động, tích cực của các cơ quan thực hiện giám sát, bảo đảm


7

quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng chịu sự giám sát. Qua giám sát đã đưa ra
nhiều kiến nghị đóng góp vào hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và của địa phương, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong cơ chế, chính sách và quản lý điều hành kinh tế - xã hội, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước, được dư luận và nhân dân đồng tình, ủng hộ, quan
tâm, đánh giá cao, góp phần nâng cao vai trị, uy tín, chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các cơ quan dân cử.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát, HĐND vẫn cịn
có những hạn chế, đó là: Việc xác định nội dung giám sát một số còn dàn trải,
thiếu trọng tâm trọng điểm; việc xây dựng chương trình, thực hiện quy trình
giám sát nhiều lúc chưa thực sự khoa học; một số kết luận, kiến nghị sau giám
sát chưa được các cơ quan hữu quan giải quyết; chưa có những chế tài, biện
pháp xử lý đối với các chủ thể bị giám sát không thực hiện các kiến nghị sau
giám sát... nên hiệu quả giám sát chưa khẳng định được vai trò quyền lực của
HĐND như mong muốn của cử tri.
Trong hoạt động giám sát HĐND thì hoạt động giám sát HĐND cấp tỉnh
được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội ở địa phương. Do đó, nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu hoạt động giám sát của HĐND các cấp
khác. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác
giả chọn đề tài "Nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn thạc sỹ Chính trị học.
Hiện nay, Giám sát và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của
cơ quan dân cử ở nước ta được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn

đàn khoa học, đã đề cập đến nhiều nội dung về HĐND và chức năng của HĐND,
về chức năng giám sát của HĐND như:
- Các cơng trình nghiện cứu về HĐND và chức năng của HĐND:


8

+ Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND và Ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 6/2002.
+ Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các Ban của Hội đồng
nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
+ Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005.
+ Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và Uỷ ban
nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp
luật, 2004.
+ Nguyễn Hồng Sơn, Vai trị của chính quyền cấp huyện trong xây dựng
nông thôn mới ở Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Đại
học Vinh, 2016.
+ Lê Quốc Dũng, Quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công
nghệ ở tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Đại học Vinh, 2016
Nhận xét: Các đề tài đã đi sâu vào nghiên cứu về HĐND và chức năng
của HĐND, đã đề ra được một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
của HĐND các cấp trên các lĩnh vực hoạt động theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, so với nhiệm vụ và các quy định mới của pháp luật về chức năng của
HĐND thì vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Các cơng trình nghiên cứu về chức năng giám sát của HĐND:
+ Vũ Mạnh Thông, Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong
điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.

+ Nguyễn Khắc Thắng, Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của
HĐND, Nội san trường Chính trị Tỉnh Nghệ An, 2016.
+ Kha Thị Tím, Hoạt động giám sát của Hội Đồng Nhân Dân Huyện đối
với thực hiện chính sách an sinh xã hội ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Đại học Vinh, 2015


9

+ Nguyễn Ngọc Kỳ, Quyền giám sát của hội đồng nhân dân và kỹ năng
giám sát cơ bản, Nhà xuất bản Tư pháp, 2007.
+ Nguyễn Khắc Bộ, Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân. Kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, Văn phòng Quốc hội, 2001.
+ Trần Hữu Đức, "Nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân".
Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội, 2006.
+ Hà Thị Mai Hiên, Cơ chế kiểm tra giám sát trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Trong sách: "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền
lực nhà nước ở nước ta", Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2003.
+ Trần Đình Huề, Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát. Kỷ yếu nâng cao
năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội,
2001.
+ Nguyễn Ngọc Kỳ, Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng
giám sát cơ bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2007.
+ Nguyễn Văn Tri, Chất vấn và trả lời chất vấn, một hình thức giám sát
quan trọng của Hội đồng nhân dân, Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả. Kỷ yếu nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân,
Văn phịng Quốc hội, 2001...
Các cơng trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt

động một cách chung chung, còn về chức năng giám sát của HĐND được tác
giả Vũ Mạnh Thơng đề cập trong luận văn thạc sĩ của mình, nhưng chỉ khai thác
ở khía cạnh nâng cao hiệu lực; hoạt động giám sát được tác giả Nguyễn Ngọc
Kỳ đề cập nhưng chủ yếu đưa ra những kỹ năng giám sát. Hơn nữa, luận văn,
cuốn sách đó được viết từ năm 1998 và 2007, so với điều kiện đất nước ta hiện
nay đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt sau khi Luật Giám sát của Quốc Hội và


10

HĐND (ban hành năm 2015), Luật Tổ chức Chính Quyền Địa phương (ban
hành năm 2015) thì hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề
mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa có một cơng trình khoa
học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện và đầy đủ. Vì vậy, nghiên
cứu chất lượng giám sát của HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam nói chung và Nghệ An
nói riêng là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Nghệ An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận; phân tích đặc điểm, nội dung và
hình thức giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND
tỉnh Nghệ An .
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, Thường trực HĐND tỉnh, các Ban
HĐND tỉnh, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các lĩnh vực sau:
- Tổ chức và hoạt tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh Nghệ An nhiệm
kỳ 2011- 2016;
- Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, Thường trực HĐND tỉnh,
các Ban HĐND tỉnh, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm
kỳ 2011 - 2016 (bao gồm: bản thân các hoạt động giám sát của HĐND; các nhân
tố tác động đến chất lượng của những hoạt động này như: chất lượng chuẩn bị


11

báo cáo của UBND tỉnh; trình độ, năng lực của đại biểu HĐND, cơ cấu, số
lượng đại biểu chuyên trách; thời gian thẩm định; sự phối hợp giữa HĐND và
UBND tỉnh trong quá trình chuẩn bị tài liệu trình kỳ họp; chất lượng triển khai
thực hiện các Nghị quyết được HĐND quyết định, việc thực hiện kết luận giám
sát…).
- Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND năm 2015; các tài liệu, tư liệu, văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức
và hoạt động của HĐND; các tài liệu, báo cáo liên quan đến tổ chức và hoạt
động của HĐND tỉnh Nghệ An nói chung và hoạt động giám sát nói riêng; các
báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Ban Công tác đại biểu của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, của Chính phủ và các loại văn bản khác có liên quan đến
hoạt động giám sát của HĐND.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của triết học Mác – Lê nin, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ta về HĐND.

Các phương pháp cụ thể mà tác giả đã áp dụng trong quá trình thực hiện
đề tài là:
Thu thập các tài liệu văn bản có liên quan đến nội dung nghiên cứu, như
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Phân tích, so sánh và đánh gíá về thực trạng họat động của HĐND các cấp.
Tổng hợp vấn đề và biên tập hiệu đính tài liệu tổng kết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ về mặt lý luận khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, cũng
như các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh.


12

- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng hoạt động giám sát và
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm kỳ 20112016.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ CHẤT LƯỢNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Lịch sử hình thành chính quyền địa phương ở Việt Nam, chỉ 2 tháng sau
khi cách mạng tháng tám năm 1945 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945, Điều 1 Sắc lệnh nói rõ: “Để thực
hiện chính quyền nhân dân địa phương trong nước Việt Nam, sẽ đặt hai thứ cơ

quan: HĐND và Uỷ ban hành chính. HĐND do dân bầu ra theo lối phổ thông và
trực tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho dân.”. Sắc lệnh cũng xác định sự
hình thành của HĐND cấp tỉnh [5, Điều 32], mối quan hệ giữa Uỷ ban hành
chính và HĐND, giữa HĐND cấp tỉnh và chính quyền cấp trên. Uỷ ban hành
chính tỉnh do HĐND tỉnh bầu ra, HĐND có quyền bỏ phiếu tín nhiệm Uỷ ban
hành chính, quyết nghị của HĐND hàng tỉnh không được trái với chỉ thị của các
cấp trên [5, Điều 43, 48, 49, 53].
Như vậy, ngay từ văn bản đầu tiên, vị trí và vai trò của HĐND cấp tỉnh đã
được xác nhận, theo đó, HĐND tỉnh là cơ quan do cử tri bầu ra, nằm trong hệ
thống bộ máy nhà nước thống nhất, chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban hành chính cấp
trên (cấp kỳ) và HĐND tỉnh bầu ra cơ quan hành chính ở địa phương là Uỷ ban


13

hành chính tỉnh. Tư tưởng này xuyên suốt các lquy định của pháp luật về tổ chức
HĐND và UBND sau này. Sắc lệnh 63 là văn bản đầu tiên của nhà nước cách
mạng cơng nơng để thành lập chính quyền ở địa phương, đặt nền móng cho việc
thành lập chính quyền địa phương ở nước ta.
Tiếp sau Sắc lệnh 63 năm 1945, Hiến pháp 1946 đã có một chương riêng
(chương VI gồm 6 điều, từ Điều 57 đến Điều 62) quy định rất rõ về việc thành
lập HĐND và Uỷ ban hành chính (UBND), trong đó, quy định HĐND được
thành lập ở cấp tỉnh và cấp xã [33]. Hiến pháp là văn bản quy định những vấn đề
cơ bản, nên quy định một đạo luật khác sẽ quy định hoạt động của HĐND. Sau
12 năm, đến ngày 31 tháng 5 năm 1958, Quốc hội thơng qua Luật tổ chức chính
quyền địa phương gồm 5 chương, 43 điều. Tổ chức chính quyền đại phương ở
Việt Nam lúc đó cũng khác so với bây giờ, đó là có những khu tự trị, trong các
khu tự trị có các tỉnh, thành phố trực thuộc. Chính quyền lúc đó khơng được tổ
chức như một hệ thống chính quyền thống nhất. Tuy nhiên, Luật tổ chức chính
quyền địa phương 1958 đã khẳng định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở

địa phương do nhân dân bầu ra. Như vậy, ở Việt Nam, bắt đầu từ 1958, HĐND
được xác định là cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương [34].
Trong thời gian từ 1946 đến 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một số
sắc lệnh như sắc lệnh 254, 255 ngày 19-11-1948 để chỉ ra cách tổ chức chính
quyền trong các vùng kháng chiến và trong các vùng tranh chấp. Trong đó, Sắc
lệnh 255 quy định đối với những vùng bị địch tạm kiểm sốt hay uy hiếp chưa
có HĐND, thì có thể chỉ định ra một HĐND lâm thời [8]. Như vậy, dù trong
thời kỳ chiến tranh, việc bầu cử HĐND rất khó khăn nhưng về mặt tổ chức
chính quyền vẫn phải tuân thủ nguyên tắc ở bất cứ nơi nào có dân, có chính
quyền thì phải có HĐND.
Hiến pháp 1959 cũng có một chương với 19 điều quy định về cách thức tổ
chức của HĐND, chế độ hoạt động cũng như các mối quan hệ của HĐND. Hiến
pháp 1959 cũng như Luật tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính năm 1962 đều


14

quy định vị trí của HĐND cấp tỉnh vẫn được giữ ngun, hầu như khơng có thay
đổi so với Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958.
Hiến pháp 1980 đã hoàn thiện quy định về tổ chức HĐND và UBND lên
một bước rõ rệt. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 1983 gồm 9 chương, 71 điều. Tuy nhiên, cũng như trước đây, HĐND chỉ
hoạt động chủ yếu thông qua kỳ họp, cơ quan chịu trách nhiệm chung giữa hai
kỳ họp HĐND là UBND và kỳ họp HĐND do UBND triệu tập. Như vậy, vai trò
của HĐND là tương đối mờ nhạt, việc quy định quyền hạn phần nhiều mang
tính hình thức.
Trong khi đang thực hiện Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1983, Đảng có chủ trương đổi mới, trong đó có việc sửa đổi về tổ
chức bộ máy nhà nước ở địa phương, dẫn đến việc ban hành Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 1989. Lần sửa đổi này, một cơ quan mới, tổ chức mới đã

xuất hiện trong HĐND, đó là Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện, tổ
chức này được hiểu là cơ quan hoạt động thường xuyên của HĐND giữa 2 kỳ
họp. Sự xuất hiện của Thường trực HĐND ở cấp tỉnh là bước ngoặt rất quan
trọng trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh, thúc đẩy hoạt động của HĐND đến
một bước mới, tạo cho hoạt động của HĐND linh hoạt hơn so với trước kia.
HĐND cấp tỉnh đã ngày càng có vai trị và vị trí trong hệ thống cơ quan nhà
nước, giảm bớt tính hình thức thơng qua hoạt động thường xun.
Hiến pháp 1992, tại Điều 119, một lần nữa khẳng định “HĐND là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”. Năm 1994, khi sửa đổi
Luật tổ chức HĐND và UBND thì Thường trực HĐND cấp tỉnh vẫn giữ ngun
nhưng về tổ chức thì khơng cịn chức danh Uỷ viên Thư ký mà gồm Chủ tịch và
Phó Chủ tịch HĐND, số Phó Chủ tịch do Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quyết định [41, Điều 35]. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ HĐND 1994-


15

1999 và 1999-2004, do Chính phủ trình chỉ có 1 Phó Chủ tịch nên Thường trực
HĐND cấp tỉnh gồm: Chủ tịch và 1 Phó Chủ tịch. Năm 2003, Luật tổ chức
HĐND và UBND được ban hành thay thế luật năm 1994, vị trí và vai trị của
HĐND cấp tỉnh nói riêng và HĐND nói chung vẫn được giữ nguyên nhưng có
bước phát triển mới với nhiều quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn của
HĐND, nhằm làm cho hoạt động của HĐND thực quyền hơn. Ngoài ra, về tổ
chức, Thường trực HĐND gồm 3 thành viên, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên
thường trực HĐND [42, Điều 52] . Ngày 19/6/2015, Quốc hội đã thông qua Luật
Tổ chức Chính quyền đại phương, Luật quy định rõ hơn về thẩm quyền của
HĐND các cấp, về cơ cấu tổ chức của HĐND tạo cơ sở pháp lý để củng cố,
hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp,

theo đó Thường trực HĐND tỉnh gồm có có Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các
Ban và Chánh Văn phòng HĐND tỉnh [45, Điều 18].
Xuất phát từ vị trí, vai trị đó, HĐND có 2 chức năng chính là: quyết định
và giám sát. Hai chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau.
HĐND quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát việc thực hiện các quyết
định đó, thơng qua hoạt động giám sát, phát hiện vấn đề cần sửa đổi, HĐND ban
hành nghị quyết quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương.
Như vậy, HĐND nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng dần dần từ
những bước sơ khai ban đầu đã được xác định rõ ràng vai trị, vị trí trong Hiến
pháp và trong Luật tổ chức HĐND và UBND. Trong đó, HĐND cấp tỉnh ln
được đề cao và có vị trí, vai trị to lớn trong bộ máy chính quyền địa phương, đã
có thời kỳ cấp kỳ, cấp khu tự trị và cấp huyện không có cơ quan dân cử nhưng
từ khi thành lập nước đến nay, chưa thời điểm nào khơng có HĐND cấp tỉnh.
Cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và chính quyền
địa phương, nếu phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương thì cấp tỉnh là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương. Nếu cấp trung
ương là cấp đề ra chính sách thì cấp địa phương là cấp thực hiện chính sách và


16

cấp tỉnh là cấp quan trọng chuyển tải chính sách từ trung ương xuống tới người
dân và quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Xét dưới góc độ tự
chủ, quyền tự quản của nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự chủ tương đối
cao so với cấp huyện và cấp xã, quyền quyết định lớn, có tác động tới hoạt động
của bộ máy nhà nước nói chung. Chính vì vậy, HĐND cấp tỉnh càng khẳng định
vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy nhà nước.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân
dân cử ra, quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới
cấp trung ương. Vì vậy, HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trị to lớn trong bộ máy

chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương, giải
quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định đường hướng
phát triển cho kinh tế – xã hội ở địa phương mình.
Như vậy, HĐND có vai trò là cầu nối giữa cơ quan nhà nước cấp trên với
nhân dân địa phương, đồng thời có tính hai mặt: vừa đại diện cho nhân dân địa
phương, vừa đại diện cho quyền lực nhà nước ở cấp trên. Tổ chức quyền lực ở
Việt Nam theo mơ hình phân công, phân nhiệm trong cùng cấp và thống nhất
quyền lực từ trung ương xuống địa phương. Như vậy, HĐND cấp tỉnh cũng nằm
trong mối quan hệ đó, HĐND cấp tỉnh có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng ở địa phương nhưng phải tuân thủ quy định của Quốc hội, Chính phủ theo
hệ thống dọc. Xét theo chiều ngang, HĐND bầu ra cơ quan chấp hành là UBND,
và gần như có sự “phân cơng” nhiệm vụ giữa HĐND và UBND, HĐND quyết
định vấn đề quan trọng và UBND chịu trách nhiệm thi hành. Khi đã có sự phân
cơng rồi thì tất yếu phải có theo dõi, kiểm tra, giám sát để bảo đảm cho các cơ
quan hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ và hồn thành tốt cơng việc. HĐND
cấp tỉnh cũng giám sát một phần hoạt động của HĐND cấp huyện bởi có sự
phân cấp, phân quyền giữa cấp tỉnh và cấp huyện.
Vị trí, vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh phụ thuộc rất
nhiều vào mô hình của chính quyền địa phương và mối quan hệ giữa cấp tỉnh và


17

trung ương. Có thể thấy rằng về cơ bản, sự phát triển của HĐND cấp tỉnh, vị trí
và vai trị trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ hầu như khơng có
sự thay đổi, cụ thể như sau:
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do cử tri trong tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước ở
trung ương, chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Uỷ ban thường vụ

Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của chính phủ trong việc thực hiện các
văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương.
- HĐND cấp tỉnh bầu ra UBND cùng cấp là cơ quan chấp hành của
HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong hệ thống dọc,
UBND cấp tỉnh lại chịu sự chỉ đạo của Chính phủ.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân có hai chức năng chủ yếu:
Một là, chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, như
là: Quyết định các biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội, cũng cố quốc phòng,
an ninh theo quy định của pháp luật; các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác;
phòng, chống quan liêu, tham nhũng; phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học,
cơng nghệ, văn hóa, thơng tin, thể dục, thể thao: y tế, lao động và thực hiện
chính sách xã hội: Quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số,
bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương;
Hai là, thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh; giám sát hoạt động của
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, Ban của HĐND cấp


18

mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và văn bản của
HĐND cấp huyện.
Ngoài ra, HĐND còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định
của pháp luật.
Trên cơ sở các chức năng của HĐND nêu trên, tại Điều 19 Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của

HĐND cấp tỉnh trên các lĩnh vực: tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật, xây dựng chính quyền, lĩnh vực kinh tế, tài nguyên, môi trường,
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, văn hóa, thơng tin, thể dục, thể
thao, lĩnh vực y tế, lao động và thực hiện chính sách xã hội, công tác dân tộc,
tôn giáo, lĩnh vực quốc phịng, an ninh, bảo đảm trật tự, an tồn xã hội. Bên
cạnh đó, các luật, văn bản pháp luật chuyên ngành đã quy định nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của HĐND cấp tỉnh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Chủ thể và đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1.1. Chủ thể giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chủ thể giám sát của HĐND tỉnh bao gồm:
- Hội đồng nhân dân tỉnh: các đại biểu HĐND tỉnh được bầu tại các đơn
vị bầu cử trong tỉnh.
- Thường trực HĐND tỉnh: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban và
Chánh Văn phịng HĐND tỉnh.
- Các Ban HĐND tỉnh: HĐND tỉnh có từ 3 Ban, gồm Ban Pháp chế, Ban
Văn hóa – Xã hội, Ban Kinh tế - Ngân sách. Đối với HĐND thành phố trực
thuộc Trung ương, ngồi 03 Ban này, cịn thành lập thêm Ban Đơ thị. Nơi nào
có nhiều đồng bào dân tộc thì thành lập Ban Dân tộc, tuy nhiên, nếu như trước
đây, việc thành lập Ban Dân tộc do HĐND quyết định thì hiện nay theo Luật Tổ
chức chính quyền địa phương, việc thành lập Ban Dân tộc của HĐND cấp tỉnh,


19

cấp huyện do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về tiêu chuẩn, điều kiện
thành lập.
- Các Tổ đại biểu HĐND tỉnh: HĐND thành lập các tổ đại biểu theo đơn
vị bầu cử
- Đại biểu HĐND tỉnh: là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của

Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước HĐND
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
1.2.1.2. Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND, đối tượng giám sát của HĐND bao gồm:
- Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp.
- Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án
TAND, Viện trưởng VKSND cùng cấp.
- Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng các Ban HĐND và
Chánh văn phòng HĐND tỉnh.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, đối tượng giám sát của HĐND rất
phong phú và đa dạng.
1.2.1.3. Mục đích giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của HĐND nhằm hướng tới các mục đích như sau:
- Hoạt động giám sát nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối tượng
chịu sự giám sát phải thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Hiến pháp
và pháp luật, nghị quyết của HĐND. Mọi hoạt động vi phạm Hiến pháp và pháp
luật đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh
Để thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước đã phân công và
phân cấp hoạt động quản lý nhà nước cho những cơ quan trong bộ máy nhà
nước những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực thi quyền lực
nhà nước . Những cơ quan này sử dụng quyền lực nhà nước trong quá trình thực


20

thi cơng vụ nhằm đạt tới những nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước đã xác định
trong từng giai đoạn phát triển của xã hội.
Nhiệm vụ của những cơ quan này là phải tuyệt đối chấp hành và tuân theo

những quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
của mình. Tuy nhiên, do ảnh hưởng và tác động của những lợi ích cá nhân hoặc
lợi ích cục bộ của các nhóm lợi ích khác nhau hoặc xung đột với nhau trong một
cơ quan, một tổ chức hoặc thậm chí trong một nhóm cộng đồng xã hội mà
những cá nhân, cơ quan, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước có xu hướng lạm
dụng quyền lực, vi phạm những quy định của Hiến pháp và pháp luật để đạt tới
những lợi ích của cá nhân hoặc cục bộ. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý
của nhà nước từ Đông sang Tây, từ xưa tới nay đều phải có những quy định của
pháp luật, những thiết chế và tổ chức để đặt những cơ quan nhà nước luôn luôn
nằm trong sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước và của nhân dân nhằm mục đích
chống lại xu hướng lạm dụng quyền lực nhà nước, chống lại những hành vi vi
phạm Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho những cơ quan nhà nước trong quá
trình thực thi công vụ phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Từ đó có thể nhận thấy người làm cơng tác giám sát khơng những phải có
trình độ chun mơn, nghiệp vụ cao mà cịn phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng vì những kết luận của hoạt động giám sát có ảnh hưởng và tác động trực
tiếp đến quyền và lợi ích, uy tín của cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự giám
sát. Nếu có một sơ suất dù nhỏ trong quá trình tiến hành hoạt động giám sát thì
cá nhân và cơ quan chịu sự giám sát vốn là những cơ quan và con người rất
thành thạo trong việc sử dụng quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để
quản lý xã hội sẽ phản ứng lại cơ quan giám sát, có thể làm vơ hiệu hố kết quả
giám sát hoặc giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của họ [27].
- Hoạt động giám sát nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa hợp lý
trong tổ chức và hoạt động quản lý của các cơ quan chịu sự giám sát và kiến


21

nghị những biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý
đó

Với những quy định của Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước đã xác định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước và xác
định cả những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của những cơ quan đó.
Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội trong
từng giai đoạn, thực tiễn hoạt động quản lý của Nhà nước có nhu cầu phải luôn
luôn tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động quản lý. Những quy định của pháp
luật thường chậm hơn những biến đổi và địi hỏi của hoạt động thực tiễn, do đó,
ngay cả những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước cũng cần được sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời.
Hoạt động giám sát không chỉ nhằm phát hiện những hành vi vi phạm Hiến
pháp và pháp luật của các cơ quan chịu sự giám sát mà còn nhằm phát hiện
những những điểm chưa hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
chịu sự giám sát và kiến nghị những giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả
những điểm chưa hợp lý đó. Kết quả của hoạt động giám sát là một trong những
nguồn thông tin quan trọng cung cấp căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi và bổ
sung những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước [27].
- Hoạt động giám sát nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa phù hợp
với thực tiễn đời sống xã hội trong những quy định của pháp luật và kiến nghị
những biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó
Mặc dù khi xây dựng các văn bản luật cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật khác, các nhà hoạch định chính sách và các chun gia làm cơng tác
xây dựng luật đã tuân theo quy trình rất nghiêm ngặt và khoa học, nhưng khi áp
dụng vào thực tiễn những dự tính đó mới được kiểm nghiệm và bộc lộ những


22

điểm chưa phù hợp hoặc chưa đáp ứng đúng nhu cầu của đời sống xã hội cần

phải được phát hiện và bổ sung kịp thời.
Những kết quả của hoạt động giám sát đặc biệt là những kết quả trong việc
giám sát việc thi hành các văn bản pháp luật là một trong những nguồn thông tin
quan trọng, cung cấp cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội ở Việt Nam giúp cho
các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng pháp
luật trong quá trình soạn thảo ở tất cả các khâu: từ xác định nhu cầu lập pháp tức
là xác định sự cần thiết phải ban hành một văn bản luật đến việc xác định những
mục đích cần đạt được của dự án và tính khả thi của dự án luật đó.
Tóm lại, từ sự phân tích một cách cụ thể và sâu sắc nội dung và bản chất
của khái niệm giám sát thì giám sát khơng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là
theo dõi, xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của các đối
tượng chịu sự giám sát, mà hoạt động giám sát cùng một lúc có thể đem lại
nhiều kết quả phục vụ cho cơng tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp
luật, phục vụ cho việc không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước [27].
1.2.2. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.2.1. Giám sát trong lĩnh vực kinh tế
- Giám sát việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung
hạn và hằng năm của tỉnh; quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực trên
địa bàn tỉnh trong phạm vi được phân quyền;
- Giám sát việc thực hiện dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự
toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự tốn ngân sách cấp mình; điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết
toán ngân sách địa phương.
- Giám sát việc thực hiện đầu tư, chương trình dự án của tỉnh theo quy định
của pháp luật;


23


- Giám sát việc thực hiện các nội dung liên quan đến phí, lệ phí theo quy
định của pháp luật; các khoản đóng góp của Nhân dân; việc vay các nguồn vốn
trong nước thông qua phát hành trái phiếu địa phương, trái phiếu đơ thị, trái phiếu
cơng trình và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật;
- Giám sát việc thực hiện chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích,
huy động các thành phần kinh tế tham gia cung cấp các dịch vụ công trên địa
bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;
- Giám sát việc thực hiện các biện pháp khác để phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;
- Giám sát việc thực hiện quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; việc liên
kết kinh tế vùng giữa các cấp chính quyền địa phương phù hợp với tình hình, đặc
điểm của địa phương và bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân;
- Giám sát việc thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống tổ chức khuyến công,
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch,
mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật [45, Điều 19].
1.2.2.2. Giám sát trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thơng tin,
thể dục, thể thao:
- Giám sát việc thực hiện biện pháp phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và
các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giáo dục, đào tạo trong phạm vi được phân
quyền; về giá dịch vụ giáo dục, đào tạo đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập;
- Giám sát việc thực hiện biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin,
thể dục, thể thao; biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương;
biện pháp bảo đảm cho hoạt động văn hóa, thơng tin, quảng cáo, báo chí, xuất
bản, thể dục, thể thao trên địa bàn tỉnh trong phạm vi được phân quyền.
- Giám sát việc thực hiện biện pháp phát triển hệ thống cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh thuộc tuyến tỉnh, tuyến huyện, tuyến xã;
- Giám sát việc thực hiện giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước;



24

- Giám sát việc thực hiện biện pháp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân;
bảo vệ và chăm sóc người mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người
nghèo, trẻ mồ côi không nơi nương tựa và người có hồn cảnh khó khăn khác;
biện pháp phịng, chống dịch bệnh; biện pháp thực hiện chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh;
- Giám sát việc thực hiện biện pháp quản lý, sử dụng và phát triển nguồn
nhân lực ở địa phương; biện pháp tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng
thu nhập và cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động;
- Giám sát việc thực hiện chính sách thu hút, khuyến khích đối với cán bộ,
cơng chức, viên chức, người lao động làm việc tại địa phương phù hợp với điều
kiện, khả năng ngân sách của địa phương và quy định của cơ quan nhà nước cấp
trên;
- Giám sát việc thực hiện biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi đối với
người có cơng với cách mạng; biện pháp thực hiện chính sách an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, biện pháp xóa đói, giảm nghèo [45, Điều 19].
1.2.2.3. Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài
nguyên và môi trường
- Giám sát việc thực hiện biện pháp khuyến khích phát triển nghiên cứu
khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ trên địa bàn tỉnh;
- Giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh; biện
pháp quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác, bảo vệ môi trường [46, Điều 19].
1.2.2.4. Giám sát trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội
- Giám sát việc thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; giữ vững an ninh chính trị, đấu tranh,



25

phòng, chống tham nhũng, tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh;
- Giám sát việc thực hiện chủ trương, biện pháp nhằm phát huy tiềm năng
của địa phương để xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững
mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc đáp ứng yêu cầu thời bình và thời
chiến;
- Giám sát việc thực hiện chủ trương, biện pháp xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ, dự bị động viên, công an xã ở địa phương; quyết định chủ trương,
biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, chuyển hoạt động kinh tế xã hội của địa phương từ thời bình sang thời chiến;
- Giám sát việc thực hiện biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, trật tự an
tồn giao thơng trên địa bàn tỉnh [45, Điều 19].
1.2.2.5. Giám sát về công tác dân tộc, tôn giáo
- Giám sát việc thực hiện biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số,
bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương;
- Giám sát việc thực hiện biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo trong
phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng giữa các tơn
giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo trên địa bàn tỉnh [45, Điều 19].
1.2.2.6. Giám sát trong việc bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật
- Giám sát việc bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh, phịng, chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng;
biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự,
nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cơng dân trên địa bàn
tỉnh;
- Giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước
cấp trên phân cấp; quyết định việc phân cấp cho chính quyền địa phương cấp



×