BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐÀM VĂN THƠNG
VAI TRỊ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN
CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
THÁI Ở NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HĨA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
NGHỆ AN, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐÀM VĂN THƠNG
VAI TRỊ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN
CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
THÁI Ở NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HĨA
Chun ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
GVC. TS. PHẠM THỊ BÌNH
NGHỆ AN, 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Chính trị học - Trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giúp đỡ,
góp ý kiến.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.GVC Phạm Thị Bình,
người trực tiếp hướng dẫn tơi thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn cán bộ Ban Dân tộc và miền núi tỉnh Thanh Hóa,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa, phịng Văn hóa và Thơng
tin huyện Như Xn, Trung tâm Văn hóa - Thể dục- Thể thao huyện Như
Xuân, Chi cục Thống kê huyện Như Xuân, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện; Cảm ơn sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh đạo các xã, thị trấn trên địa
bàn huyện.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã
khích lệ, động viên tơi trong q trình thực hiện luận văn.
Mặc dù cố gắng nhưng do năng lực nghiên cứu, nguồn tài liệu hạn chế
nên chắc chắn luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô và bạn đọc.
Nghệ An, ngày
tháng 8 năm 2017
Học viên
Đàm Văn Thông
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG .................................................................................................. 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC..... 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài: ...................................... 8
1.2. Quản lý nhà nước về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống .......... 16
1.3. Nâng cao vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện trong
việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong
giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan ............................................. 21
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH
QUYỀN CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở NHƯ
XUÂN, TỈNH THANH HÓA ....................................................................... 33
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như Xn, tỉnh Thanh Hóa .............. 33
2.2. Tình hình về vai trị quản lý của chính quyền cấp huyện trong việc giữ
gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hóa .................................................................................. 44
Kết luận chương 2 ........................................................................................ 74
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN
TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN
THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA..... 76
3.1. Quan điểm nhằm nâng cao vai trò quản lý của chính quyền huyện trong
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Thái ở
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa ............................................................... 76
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của chính quyền cấp
huyện trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc Thái ở huyệnNhư Xuân, tỉnh Thanh Hóa .............................................. 81
Kết luận chương 3 ........................................................................................ 99
C. KẾT LUẬN ............................................................................................. 100
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 103
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam có lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Nhân dân ta rất anh hùng trong chiến đấu và cần cù, thông minh trong lao
động sản xuất, sáng tạo trong văn học nghệ thuật, đã để lại nhiều giá trị vật
chất và tinh thần đặc sắc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc đáng tự hào. Bản
sắc văn hóa của dân tộc là những giá trị vật chất và tinh thần đặc trưng trường
tồn cùng dân tộc. Một mặt, bản sắc văn hóa của dân tộc phản ánh sinh động
đời sống kinh tế - xã hội của dân tộc, mặt khác, đó cũng là dấu hiệu đặc trưng
của từng dân tộc.
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và trước sự phát triển như
vũ bão của khoa học - công nghệ hiện đại, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa truyền thống càng có ý nghĩa sống cịn đối với mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia trên thế giới. Đối với nước ta, mỗi một tộc người trong đại gia đình Việt
Nam đều có những nét văn hóa riêng đặc sắc, góp phần làm phong phú, đa
dạng nền văn hóa của cả dân tộc việt Nam. Do vậy, việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa truyền thống, chống sự “hịa tan”, “lai căng”, “học đòi”, đánh
mất giá trị truyền thống, tiếp nhận những điều khơng phù hợp, có hại cho lối
sống lành mạnh, làm xói mịn các và suy yếu sức mạnh của dân tộc càng được
chú trọng và quan tâm hơn bao giờ hết.
Sau hơn 30 năm đất nước đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam cùng với sự đồn kết một lịng của cả dân tộc, vị thế của đất nước
ngày càng được khẳng định và đời sống của nhân dân ngày càng được nâng
cao. Chúng ta đang trong q trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thực hiện nền kinh tế thị
trường tăng cường hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực với khu vực, thế giới và
2
toàn cầu. Trên con đường đổi mới ấy, chúng ta vừa có nhiều thuận lợi, nhiều
cơ hội những cũng vừa gặp khơng ít khó khăn, thậm chí là phải đối mặt với
rất nhiều thách thức, nguy cơ. Một trong những thách thức, nguy cơ đối với
sự phát triển bền vững của dân tộc là vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống. Tình trạng nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị
mai một, bị lãng quên hoặc bị thương mại hóa đang ngày một gia tăng, làm
ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện và lâu dài của xã hội. Các giá trị văn
hóa truyền thống bị suy giảm, bị coi thường diễn ra nhiều nơi, nhiều địa
phương, nhiều dân tộc đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của cả xã hội. Bởi
đó là những biểu hiện của suy thối văn hóa, là nguyên nhân sâu xa làm suy
giảm sự bền vững của quốc gia, dân tộc trên nhiều phương diện kinh tế,
chính trị…
Chính vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống ở
nước ta đã được luật hóa đặt dưới sự kiểm sốt của pháp luật. Trong những
năm qua, Đảng ban hành nhiều Nghị quyết, Nhà nước đã ban hành nhiều đạo
luật trực tiếp và gián tiếp liên quan đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc như...
Thực hiện quản lý nhà nước về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc ở cấp huyện, Ủy ban Nhân dân - cơ quan chủ quản phân cấp Phịng Văn
hóa và Thơng tin chủ trì, trực tiếp tham mưu các nội dung về về giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, phối hợp với các cơ quan liên
quan, các ban, ngành, đoàn thể trong huyện xây dựng, triển khai các nội dung
về về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn tồn huyện.
Vai trị quản lý nhà nước của chính quyền huyện trong việc giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đã bước đầu phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên, công tác tham mưu và phối hợp triển khai thực hiện các nội dung
trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nảy
sinh nhiều vấn đề còn bất cập, thiếu tính khoa học và tính thực tiễn nên kết
3
quả đạt được chưa cao; vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực này vẫn còn
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn; tình trạng các giá trị văn hóa truyền
thống bị mai một, bị biến tướng vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, theo nhiều
chiều hướng khó kiểm soát.
Như Xuân là một huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa có tới 61,81% dân
số là người dân tộc thiểu số, trong đó 42,40 % là cộng đồng dân tộc Thái với
những giá trị văn hóa phong phú, độc đáo và chứa đựng tính nhân văn sâu
sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là sự ủng
hộ chung sức của cộng đồng các dân tộc nói chung và dân tộc Thái trên địa
bàn huyện Như Xuân nói riêng, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc Thái ở đây đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như
Xuân vẫn còn chứa đựng nhiều tồn tại, thiếu sót cần được khắc phục kịp thời.
Là một cán bộ đang cơng tác trong ngành văn hóa huyện, tơi tự thấy mình
phải có trách nhiệm nghiên cứu và tìm ra các giải pháp để góp phần giữ gìn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái. Vì vậy, tơi chọn
vấn đề “Vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện trong việc
giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
chuyên ngành Chính trị học.
Là dân tộc có dân số đơng thứ 3 trong 54 dân tộc anh em của đất nước
Việt Nam và dân tộc Thái có nhiều đặc trưng văn hóa, vì vậy, đã thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức và cá
nhân các nhà khoa học, nhà quản lý và những người hoạt động trong một số
lĩnh vực liên quan.
Thứ nhất, các văn bản của Đảng và Nhà nước: Nghị quyết số: 33-NQ/W
ngày 09/06/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
4
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước; Quốc hội đã thông qua Luật Di sản văn hố
năm 2001, Luật số 32/2009/QH khóa XII về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật di sản; Nghị định số 702/2012/NĐ-CP ngày 18/09/2012 của Chính phủ
quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch dự án bảo
quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; Nghị
định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo…
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về người Thái trên đất nước Việt
Nam nói chung như: Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái; Lê Ngọc
Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục người Thái, Nxb Văn hóa dân tộc; Cầm
Trọng và Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc; Cầm Trọng (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc; Ngơ Đức Thịnh, Cầm Trọng (2003), Luật tục Thái ở Việt Nam,
Nxb Văn hóa dân tộc... Các cơng trình nghiên cứu trên ở nhiều góc độ khác
nhau đã giúp chúng ta hiểu về phong tục tập quán, nguồn gốc, lịch sử, hình
thái kinh tế... của người Thái.
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về dân tộc Thái trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa: Vương Anh (2001), Tiếp cận văn hóa Thái xứ Thanh, Nxb Văn
hóa Thể thao, Thanh Hóa; Lê Thị Ngọc Ái (1994), Trang phục của phụ nữ
Thái ở miền tây Thanh Hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, số 10; Vi Văn
Biên (2006), Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Lê Sỹ Giáo (1995), Lần tìm cội nguồn lịch sử của
người Thái ở Thanh Hóa, Tạp chí Dân tộc học; Lê sỹ Giáo (1979), Tổ chức xã
hội của người Thái Mường Ca Gia (Thanh Hóa), Tạp chí Dân tộc học, số 2;
Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2005) Văn hóa phi vật thể
Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa; Nguyễn Thị Thanh Hiền (2001), Đề cương
trưng bày "Đặc trưng văn hóa Thái ở Thanh Hóa", Bảo tàng Thanh Hóa; Sở
5
Văn hóa - Thơng tin Thanh Hóa (1985)... Các cơng trình trên đã có nhiều
đóng góp to lớn, giúp cho chúng tôi hiểu sâu hơn về thực trạng các giá trị
truyền thống văn hóa dân tộc Thái nói chung và ở địa bàn huyện Như Xuân
nói riêng.
Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách tồn diện về vấn đề quản lí nhà nước (QLNN) của chính quyền cấp
huyện về giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái
và đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trị quản lý của
chính quyền địa phương để ngăn chặn có hiệu quả tình trạng các giá trị văn
hóa truyền thống bị mai một, bị biến tướng ở địa phương. Đối với vấn đề vai
trò quản lý nhà nước của chính quyền địa phương trong việc việc giữ gìn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trên địa bàn huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hóa cũng vậy. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là việc
làm rất cần thiết để tìm ra những giải pháp khoa học, khả thi nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý của chính quyền huyện trong cơng tác giữ gìn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đối với tác giả, những cơng trình nghiên cứu trên là những tài liệu rất bổ ích
cho q trình nghiên cứu, tham khảo để thực hiện đề tài.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà
nước của chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện
trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái.
6
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về vai trị quản lý nhà nước của
chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Thái tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trị quản lý
nhà nước của chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái tại huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vai trị quản lý nhà nước mà cụ thể là tập trung vào vai trị
của chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Thái tại Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 20102015 và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn 2017 - 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật Mác-xít.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp lịch sử - logic
- Phương pháp mô tả, giải thích
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh
- Phương pháp quan sát, thu thập thông tin...
7
5. Đóng góp khoa học của luận văn:
Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò quản lý nhà nước của chính quyền cấp
huyện trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc Thái.
Đề xuất một số giải pháp đồng bộ và có tính khả thi nhằm nâng cao vai
trò quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện trong việc giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hóa thời gian tới.
Đề tài là tư liệu bổ ích đối với sinh viên, học viên chuyên ngành Chính
trị học và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của đề tài gồm 3 chương, 7 tiết.
8
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH
QUYỀN CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Quản lý nhà nước
Muốn nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái
niệm “quản lý”. Quản lý là lĩnh vực được nhiều ngành khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên quan tâm nghiên cứu. Thuật ngữ “quản lý” thường được
hiểu theo những cách khác nhau tuỳ theo góc độ khoa học cũng như cách tiếp
cận của người nghiên cứu. Mỗi lĩnh vực khoa học dưới góc độ nghiên cứu đều
có cách định nghĩa riêng và do vậy, khái niệm “quản lý” ngày càng đa dạng
và được hoàn thiện dần phù hợp với các hoạt động của đời sống xã hội.
C.Mác khẳng định: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mơ tương đối lớn đều cần có sự
quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ
thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập
của cơ thể đó. Một nhạc cơng tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải
có nhạc trưởng…”[10, tr.523].
Như vậy, theo C.Mác, quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để
đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây, C.Mác đã tiếp
cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Trong quan niệm của nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay, nay,
quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục
9
đích đã đề ra và đúng với ý chí của người quản lý. Theo đó, quản lý là việc tổ
chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một mục đích của
người quản lý. Cách tiếp cận này đã nhấn mạnh cách thức và mục đích của
quản lý.
Như vậy, quản lý là sự tác động của chủ thể lên đối tượng nhằm đạt được
mục tiêu. Còn việc tác động theo cách nào là tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu
của từng khoa học khác nhau, lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của
nhà nghiên cứu. Do vậy, có quan niệm quản lý là q trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng kế hoạch hoá, tổ chúc, chỉ đạo
và kiểm tra.
Trên cơ sở phân tích cách tiếp cận khác nhau của các quan niệm khác
nhau về quản lý như trên, chúng ta có thể thống nhất định nghĩa về quản lý
nhà nước trong Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước của Học viện Chính
trị như- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh: “Quản lý nhà nước là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối
quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [24, tr.207].
Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước
trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt. Quản lý
nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng
quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, quản lý nhà
nước được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của nhà nước,
được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan nhà nước tiến hành để thực
hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
10
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính
quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp.
Trong đề tài này, quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính
pháp quy đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn
đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản
lý nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà
nước, song có thể các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân
dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện
chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Giá trị văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống
1.1.2.1. Giá trị văn hóa
Nhà xã hội học hiện đại Mỹ - J.H.Fichter đã có một định nghĩa giản lược
về giá trị như sau: “theo cách mô tả chúng ta có thể nói rằng tất cả những gì
có ích lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với con người hoặc
nhóm người đều là một giá trị”.
Trong cuốn “Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam”, GS.TS Ngô
Đức Thịnh trên cơ sở nghiên cứu chuyên sâu đã đề xuất định nghĩa tương đối
toàn diện về khái niệm giá trị. Theo ông, “giá trị là quan niệm về cái có ý
nghĩa, được cộng đồng xã hội lựa chọn, cùng nhau chia sẻ và tôn vinh. Đối
với mỗi thành viên trong nhóm, giá trị là cái đáng ước ao, cần phải ước ao và
khi đạt được sẽ bùng nở sự thăng hoa tinh thần. Chính vì vậy, thực thi giá trị
có tác dụng điều tiết đối với hoạt động của con người, tìm hiểu giá trị giúp ta
tiếp cận với các động lực ẩn tàng trong đời sống xã hội ”[37; 3].
Như vậy có thể hiểu, giá trị bao gồm tất cả những gì có ích cho mọi
người, cho cộng đồng, cho quốc gia dân tộc và cho nhân loại. Nhà giáo dục
Mỹ Lyda Judson Hannifan ngay từ năm 1916 đã xác định rằng “ Những giá trị
11
hiện thực có tác dụng lên hầu hết cuộc sống hàng ngày của con người ”, là cái
được gọi là khái niệm “vốn xã hội”. Còn Ngân hàng thế giới năm 1999 lại xác
định “bằng chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội là rất
thiết yếu cho các xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát
triển tiến lên không ngừng”. Theo cách hiểu này ta thấy, giá trị thực hiện hai
chức năng căn bản là: Liên kết xã hội, gắn bó cộng đồng và định hướng, chi
phối tư duy, hành động của cộng đồng và quốc gia. Đó chính là lý do vì sao
người ta đề cao, tơn vinh giá trị văn hóa như là loại “tài sản đặc biệt” vốn xã
hội hay “vốn văn hóa” cho phát triển. Trong q trình sáng tạo văn hóa, các
cá nhân được nhập thân vào cộng đồng và xã hội, được tiếp nhận một hệ
thống giá trị và chuẩn mực cho phép cá nhân có khả năng tồn tại với tư cách
là thành viên có chất lượng của cộng đồng. Có nghĩa là các cá nhân thực hiện
q trình “xã hội hóa”, “văn hóa hóa” chính bản thân mình. Xã hội tác động
tới việc hình thành nhân cách cá nhân thơng qua văn hóa và ngược lại cá nhân
sẽ tiếp nhận và làm theo nguyện vọng và mong muốn của xã hội; qua đó mà
tác động tích cực trở lại, thúc đẩy tiến bộ xã hội, đặc biệt là những cá nhân
xuất chúng, có đạo đức cao đẹp. Đó là các danh nhân văn hóa kiệt xuất của
nhân loại. Các vị đó mất đi nhưng tư tưởng, tấm gương đạo đức của họ còn
mãi mãi đồng hành cùng nhân loại dưới dạng “di sản ký ức” hay các giá trị
văn hóa.
Các nhà khoa học cịn tiếp cận giá trị văn hóa từ hai cấp độ: Nhân loại và
quốc gia dân tộc. Từ thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, với Chân - Thiện - Mỹ và
tới cách mạng tư sản Pháp, với Tự do - Bình đẳng - Bác ái được coi là những
giá trị văn hóa mang tính phổ qt tồn nhân loại. Nhưng trong phạm vi từng
quốc gia, tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể, người ta xác định mơt hệ giá trị văn
hóa riêng làm mục tiêu phát triển. Chẳng hạn, người Nhật đề cao tính Thiện,
Ích, Mỹ; còn người Singapore lại đặt quốc gia lên trên hết, lấy gia đình là gốc,
đề cao vai trị cá nhân, tơn giáo khoan dung và dân tộc hài hịa. Người Việt
12
Nam chúng ta lựa chọn 3 tiêu chí Dân chủ, Công bằng, Văn minh và xác định
được hệ giá trị văn hóa tiêu biểu của quốc gia là :
- Ý thức liên kết cộng đồng qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
- Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và sự phản ứng quyết liệt đối với
những hành vi đi ngược lại lợi ích của dân tộc.
- Chủ nghĩa nhân văn và lòng nhân ái đậm chất Việt “thương người như
thể thương thân”.
Từ đặc trưng lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước cũng như
bối cảnh quốc tế nói chung và khu vực Đơng Nam Á nói riêng, đối với người
Việt Nam, giá trị văn hóa mang tính bất biến và thiêng liêng mãi mãi sẽ là
tinh thần “Khơng có gì q hơn Độc Lập, Tự Do” và chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia. Có thể coi đây là yếu tố bất biến trong văn hoá Việt Nam.
Chúng ta phải lấy “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là nguyên tắc ứng xử văn hóa
trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống do các thế hệ
tiền bối trao truyền đến hôm nay. Chỉ như thế Việt Nam mới có thể hội nhập
với nhân loại mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2.2. Giá trị văn hóa truyền thống
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hoá là những giá
trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn
mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua khơng gian và
được cố định hố dưới những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư
luận…” [27, tr. 133].
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay
thấp, dù đã phát triển hay đang phát triển, cũng đều có những truyền thống
đặc trưng của riêng mình và do đó có hệ thống giá trị văn hố truyền thống
riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp
nhất qua các thời đại lịch sử khác nhau của dân tộc để làm nên bản sắc riêng.
13
Nó được truyền lại cho thế hệ sau và cùng với thời gian và sự biến thiên của
lịch sử sẽ được bổ sung, được làm giàu bằng các giá trị mới.
Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Giá trị truyền thống được biểu
hiện là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí
khơng phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị; mà phải là cái tốt cơ bản,
phổ biến có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận
định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý
nghĩa của khái niệm “giá trị truyền thống” [37, tr. 132].
Như vậy, ta thấy rằng truyền thống văn hoá là các giá trị do lịch sử để
lại, được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời đại mới. Khi đã
hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng,
đánh giá và điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng.
Khi nói đến giá trị văn hố truyền thống là nói đến những truyền thống
tốt cơ bản, phổ biến đã có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của
thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của
chúng đối với cộng đồng trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên,
do tính lịch sử của chúng nên các giá trị văn hóa truyền thống có tính hai mặt,
vì vậy, u cầu chúng ta phải đứng trên quan điểm phát triển và tính biện
chứng, phải nhìn nhận, đánh giá các giá trị một cách tồn vẹn. Khơng được lý
tưởng hóa giá trị văn hố truyền thống cũng như khơng được tuyệt đối hóa
các hạn chế, tiêu cực. Nếu lý tưởng hóa các giá trị truyền thống, xem chúng là
bất biến, là khuôn mẫu, khơng thay đổi thì sẽ dẫn đến ý chí bảo thủ, bằng lòng
với quá khứ, quay lưng lại với hiện tại, ngăn cản sự vận động và phát triển
của xã hội. Còn nếu phủ nhận một cách sạch trơn các giá trị văn hóa truyền
thống, coi truyền thống là nguyên nhân của sự lạc hậu, nghèo nàn của xã hội
và hiện đại hóa bằng con đường ngoại nhập các giá trị văn hóa bên ngồi thì
sớm muộn cũng tự đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, hủy
hoại sức mạnh nội sinh, làm mất tính bền vững và ổn định của sự phát triển.
14
Tính chất của văn hóa truyền thống: Văn hóa truyền thống tự thân nó
mang rất nhiều tính chất. Với phạm vi luận văn, chúng tơi chỉ tập trung vào
phân tích và làm rõ một số tính chất cơ bản sau:
Tính giá trị
Văn hóa và văn hóa truyền thống hướng tới mục đích là các giá trị nhân
bản, sự hồn thiện của cá nhân, của cả xã hội. Văn hóa truyền thống là tấm
gương phản chiếu cho mọi hành động của các cá nhân trong cộng đồng đó soi
vào. Nó là những nguyên lý mà các cá nhân, cộng đồng, dân tộc trong các giai
đoạn lịch sử dựa vào đó mà phân biệt đúng, sai, phải, trái nhằm định hình
hướng hoạt động, nhằm hướng tới các giá trị: Chân - Thiện - Mỹ.
Tính ổn định
Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta từ trước đến nay và cả
tương lai nữa là những giá trị đã có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm
ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích
cực của chúng đối với dân tộc và nó là một thành tố ổn định của ý thức xã hội
dưới các dạng: phong tục tập quán, nghi lễ, dư luận xã hội, pháp luật…
Tính lưu truyền
Văn hóa phát triển như dịng sơng chảy liên tục. Các giá trị của văn hóa
truyền thống được chuyển giao nối tiếp cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc.
Dưới thời đại mới truyền thống được bổ sung, được nâng lên tầm cao mới cho
phù hợp với thời đại.
1.1.3. Quản lý nhà nước về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống
Quản lý nhà nước về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc cần được tiếp cận từ giác độ quản lý nhà nước về lĩnh vực văn
hóa. Thực chất quản lý nhà nước về văn hoá là quản lý các hoạt động văn hố
bằng chính sách và pháp luật Đó là hoạt động hành chính nhà nước dựa trên
hệ thống các văn bản pháp lý, văn bản hành chính để quản lý những vấn đề cơ
15
bản thuộc về giá trị văn hóa nhằm định hướng, kiểm sốt sự phát triển văn
hóa theo mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ những khái niệm về quản lý nhà nước, khái niệm về giá trị văn hóa
truyền thống, ta có thể hiểu được rằng quản lý nhà nước về giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống chính là sự tác động và điều chỉnh mang tính
quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước mà thực chất là việc thực thi
pháp luật, chính sách của nhà nước liên quan đảm bảo để giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát triển theo đúng mục tiêu
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Thông qua
các hoạt động của cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương và các
biện pháp được triển khai nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là các giá trị văn
hóa truyền thống của 54 dân tộc chung sống trên dải đất hình chữ S được bảo
vệ, giữ gìn và phát huy vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước giàu
mạnh, phồn vinh.
Chủ thể quản lý nhà nước về giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống như trên đã trình bày là cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở.
Ở Trung ương:
Cơ quan Trung ương được Chính phủ giao: Bộ Văn hóa – Thể thao và Du
lịch.
Cơ quan tham mưu có: các bộ, ban, ngành Trung ương tham gia phối
hợp theo chức năng nhiệm vụ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và
Truyền thông, TW Mặt trận Tổ quốc, TW Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Ban Tun giáo TW, Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư…
Ở địa phương: Cơ quan quản lý nhà nước là Ủy ban Nhân dân các cấp
(tỉnh, huyện, xã).
16
Cơ quan tham mưu cấp tỉnh: Ban Văn hóa – Xã hội của Hội đồng Nhân
dân tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các Sở, ban, ngành, đoàn thể tham
gia phối hợp theo chức năng nhiệm vụ: Sở Giáo dục đào tạo, Sở Tài chính, Sở
Kế hoạch và Đầu tư; Tỉnh Đoàn thanh niên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đài
Phát thanh - Truyền hình…
Cơ quan tham mưu cấp huyện: Ban Văn hóa - Xã hội, Phịng Văn hóa và
Thơng tin và các phịng, ban, ngành, đồn thể của huyện tham gia phối hợp
theo chức năng, nhiệm vụ.
Cơ quan tham mưu cấp xã: Ban Văn hóa, các đồn thể của xã tham gia
phối hợp theo chức năng, nhiệm vụ.
Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện là Ủy ban Nhân dân huyện.
Cơ quan tham mưu cấp huyện gồm có Ban Văn hóa - xã hội của Hội đồng Nhân
dân huyện, Phịng Văn hóa và Thơng tin và các phịng, ban, ngành, đồn thể của
huyện tham gia phối hợp theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
1.2. Quản lý nhà nước về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Quản lý nhà nước về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hố Việt
Nam. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về văn hoá là quản lý các hoạt
động văn hố bằng chính sách và pháp luật. Hoạt động quản lý nhà nước về
văn hoá bao gồm các mảng cơ bản sau: Quản lý nhà nước đối với văn hoá
nghệ thuật; Quản lý nhà nước đối với văn hoá - xã hội; Quản lý nhà nước đối
với di sản văn hố.
Việc thực thi vai trị quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc phải dựa trên những nguyên tắc cơ
bản. Cũng như nguyên tắc quản lý về các lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền của
nhà nước, quản lý nhà nước về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
17
thống của dân tộc phải tuân theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước nói
chung để thực thi luật pháp, chính sách, chương trình của nhà nước liên quan
đến lĩnh vực giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Các nguyên tắc đó bao gồm:
- Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;
- Nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ;
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Quản lý nhà nước về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về văn hố là quản lý các hoạt
động văn hố bằng chính sách và pháp luật. Nội dung quản lý nhà nước trong
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bao gồm
những nội dung sau:
Một là, xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp luật về giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Chính sách văn hoá được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư
tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát
triển nền văn hố. Chính sách văn hoá đặt ra các nguyên tắc chung của sự
nghiệp phát triển văn hoá phù hợp với mục tiêu phát triển văn hố chung của
đất nước. Các chính sách về quản lý và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể
đến: sáng tạo các giá trị văn hố; bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển
văn hoá cơ sở; giao lưu văn hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức
18
sản xuất, phân phối sản phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn
nghệ sỹ; đảm bảo ngân sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hố; nâng
cao tính tự quản và phân cấp quản lý văn hố... Chính sách văn hố có ý nghĩa
quan trọng trong cơng tác quản lý nhà nước về văn hố song chính sách văn
hố khơng thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật
về văn hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân cách,
nâng cao chất hượng cuộc sống tinh thần của con người. Cụ thể:
Trong quản lý nhà nước về văn hoá nghệ thuật:
Nhà nước ban hành các chính sách phát triển văn hố sâu rộng trong
quần chúng nhân dân, phát huy khả năng sáng tạo. Hay, nhà nước cịn thực
hiện chính sách bảo trợ vật chất ở mức độ khác nhau cho những loại hình văn
hố nghệ thuật không tự tồn tại và phát triển trong quan hệ kinh tế thị trường
như sân khấu, tuồng cổ, nghệ thuật chèo… Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho
mọi công dân có quyền bình đẳng trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và sáng
tạo nghệ thuật thì phải được quy định rõ trong luật. Cụ thể, Điều 60 Hiến
pháp quy định: “Cơng dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát
minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất, sáng tác, phê
bình văn học, nghệ thuật… Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
cơng nghiệp”…
Trong quản lý nhà nước về văn hố - xã hội:
Nhà nước ban hành các chính sách nhằm ổn định trật tự xã hội, giữ gìn
những nét đẹp của văn hoá truyền thống, xây dựng nếp sống văn hố mới…
Bên cạnh đó cũng ban hành nhiểu văn bản pháp luật quy định những khuôn
mẫu ứng xử trong xã hội như Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hơn nhân gia đình; hay Quy chế
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội do Thủ
tướng Chính phủ ban hành ngày 25/11/2005…
Trong quản lý nhà nước về di sản văn hoá:
19
Nhà nước ban hành các chính sách và pháp luật để phát triển sự nghiệp
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Luật Di sản văn hoá năm 2001, Luật
số 32/2009/QH khóa XII về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản là
những văn bản pháp lý quan trọng. Nghị định số 702/2022/NĐ-CP ngày
18/09/2012 của chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê
duyệt quy hoạch dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh; Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể
thao, du lịch và quảng cáo…
Hai là, tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Uỷ ban Nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hố trong địa phương mình theo
quy định của pháp luật. Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; xây dựng và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch; ban hành và tổ chức
thực hiện các văn bản pháp quy; hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy
phép, giấy chứng nhận… trong lĩnh vực văn hóa. Đây là những hoạt động trên
thực tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về văn hố theo mục đích
và nhiệm vụ đã đặt ra. Trong đó, hoạt động đầu tư tài chính cho văn hố đóng
vai trị đặc biệt quan trọng. Hiện nay, xuất phát từ vấn đề quan tâm đến phát triển
nguồn nhân lực nên nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục, xem đây
cũng là hoạt động đầu tư tài chính cho văn hóa. Tất nhiên, trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, đẩu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là đầu tư cho
hoạt động sản xuất nên các chủ thể cần tính toán đến hiệu quả đầu tư. Nhưng cơ
quan quản lý nhà nước một mặt phải nhận thức được vấn đề đầu tư cho văn hoá
cũng tạo ra lợi nhuận cho nhà nước, cho nhân dân, nhưng mặt khác cũng cần có
những cách thức để kiểm sát được tác động của cơ chế thị trường cho sự phát
triển văn hoá đúng hướng và bền vững.
20
Ba là, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đây là một hoạt động có vai trị quan trọng của cơng tác quản lý nhà
nước về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự
tác động trực tiếp của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trị đặc biệt quan
trọng. Bởi vì văn hố có mối quan hệ trực tiếp với chính trị và nó có tác động
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường và xu
hướng xã hội hoá văn hoá hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh ngày càng
nhiều, vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được quan tâm
thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt động một
cách chặt chẽ với các bộ, ngành khác. Như vậy, chính quyền các cấp ở địa
phương mới có khả năng thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ mà công tác
quản lý nhà nước về văn hoá đã đề ra.
1.2.3. Phương thức quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Trên cơ sở các nội dung quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đã nêu, ta có thể phân ra các
nhóm phương thức quản lý nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc như sau:
Quản lý bằng phương thức giáo dục,tuyên truyền, thuyết phục.
Tuyên truyền chủ trương của Đảng, phổ biến, giáo dục kiến thức và các
quy định của pháp luật về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc nhằm nâng cao ý thức và hiểu biết của của người dân, của cán bộ
công chức, viên chức trong việc triển khai và thực hiện.
Quản lý bằng phương thức hành chính.
Dùng mệnh lệnh hành chính buộc đối tượng của quản lý nhà nước trong lĩnh
vực giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc phải phục
21
tùng, tuân theo đúng quy định của pháp luật (ban hành các văn bản, các quyết định
quản lý cụ thể từng vụ việc, kịp thời chính xác, đúng thẩm quyền và có hiệu quả).
Quản lý nhà nước bằng phương thức xử lý pháp luật.
Dùng các quyết định quản lý, xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực văn hóa nói chung, trong lĩnh vực giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói riêng. Phương thức này thể hiện
tính nghiêm minh của pháp luật trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc.
Như vậy, đòi hỏi chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cần phải nắm vững các nội
dung và phương thức để quản lý có hiệu quả, thiết thực và nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ, công
chức. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hố truyền thống đã từng được đặt ra và sau mỗi giai đoạn thử thách
đó, chúng ta lại có được những bài học kinh nghiệm quý báu. Hiện nay, Việt
Nam đang đứng trước xu thế tồn cầu hố như một cơ hội để phát huy các giá
trị truyền thống, đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Với truyền thống vẻ vang của dân tộc, với đường lối,
chính sách phát triển đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta có cơ sở để tin tưởng vào bản lĩnh và thắng lợi của nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong q
trình tồn cầu hố hiện nay.
1.3. Nâng cao vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện
trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan
1.3.1. Xuất phát từ vai trị quản lý nhà nước của chính quyền cấp
huyện đối với việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc