Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.48 KB, 37 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT
1.1 Khái niệm
Theo Mác: “Tất cả mọi vật trong thiên nhiên ở quanh ta mà lao động có ích có thể tác
động vào để tạo ra của cải vật chất cho xã hội đều là đối tượng lao động. Đối tượng lao
động trở thành nguyên vật liệu khi có lao động của con người tác động vào”. Chính vì vậy
không phải bất kỳ đối tượng nào cũng là nguyên vật liệu (NVL).Ví dụ như: sắt nằm trong
quặng, than nằm trong lòng đất, dầu nằm dưới biển,... không phải là NVL mà chỉ sau khi
con người tiêu hao lao động để tìm ra nó, cung cấp cho ngành công nghiệp thì sắt, than,
dầu,... mới được gọi là NVL.
Trong các doanh nghiệp sản xuất (DNSX), NVL là đối tượng lao động, là một trong ba
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể sản phẩm.
1.2 Đặc điểm nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu có 3 đặc điểm cơ bản sau:
Nguyên vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh không giữ nguyên hình
thái vật chất ban đầu;
Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu trình sản xuất kinh doanh;
Giá trị của nguyên vật liệu được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới
tạo ra hoặc vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
1.3 Vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất
Bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại đều có đặc trưng chung là sự tác
động của con người vào các yếu tố lực lượng tự nhiên nằm thoả mãn những nhu cầu nào
đó. Vì vậy sản xuất luôn là sự tác động qua lại của ba yếu tố cơ bản: lao động của con
người, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con người có sức lao động sử dụng tư
liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất (hay còn gọi là
sản phẩm).
Như vậy nguyên vật liệu chính là đối tượng lao động cấu thành nên thực thể sản
phẩm. Khác với tài sản cố định là khi tham gia quá trình sản xuất nguyên vật liệu không


giữ nguyên hình thái ban đầu, giá trị của nó chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm
mới được tạo ra.
Trong doanh nghiệp sản xuất, nguyên vật liệu bao gồm rất nhiều loại thậm chí còn có
cả những vật liệu quý hiếm. Mỗi loại nguyên vật liệu lại có tính chất hoá lý khác nhau,
nếu không có biện pháp quản lý sẽ dẫn đến hiện tượng hao hụt mất mát. Ở những doanh
nghiệp này chi phí về nguyên vật liệu lại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí và giá
thành sản phẩm được tạo ra. Do vậy, nếu không quản lý tốt sẽ làm tăng chi phí nguyên
vật liệu, tăng giá thành sản phẩm làm ảnh hưởng không tốt tới lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Xét về hình thái vật chất, nguyên vật liệu là biểu hiện của một phần tài sản lưu động.
Nhưng về mặt giá trị, nó chính là vốn lưu động của doanh nghiệp. Hiệu quả của việc sử
dụng nguyên vật liệu, chính là hiệu quả của việc sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của
chính doanh nghiệp, mà cụ thể ở đây chính là vốn lưu động.
Từ những lý luận trên cho thấy nguyên vật liệu có một vị trí rất quan trọng trong sản
xuất, nó là một trong ba yếu tố cơ bản của quát trình sản xuất, giúp cho quá trình sản
xuất được liên tục. Vì vậy việc quản lý và sử dụng nguyên vật liệu phải được đảm bảo
tính hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.
2 .YÊU CẦU CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGUYÊN VẬT LIỆU
Để sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định ta phải sử dụng rất nhiều thứ, nhiều loại
NVL khác nhau. Ví dụ để sản xuất ra một máy công cụ như máy tiện T630, máy khoan
K252,... thì phải có sắt, thép, đồng, tôn,... mà mỗi thứ NVL lại có thể mua từ nhiều nguồn
khác nhau và xuất phát từ vai trò, đặc điểm của NVL trong quá trình sản xuất đòi hỏi phải
quản lý chặt chẽ cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị ở tất cả mọi khâu, từ khâu thu mua, bảo
quản, dự trữ đến khâu sử dụng. NVL là tài sản dự trữ sản xuất thường xuyên biến động.
Các doanh nghiệp thường xuyên phải tiến hành thu mua NVL để đáp ứng kịp thời cho sản
xuất, chế tạo sản phẩm và các nhu cầu khác trong doanh nghiệp.
Do đó, ở khâu thu mua đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ về số lượng, chất lượng, qui
cách, chủng loại, giá mua, chi phí thu mua và cả tiến độ về thời gian phù hợp với kế hoạch
sản xuất kinh doanh của DN.
Ở khâu bảo quản dự trữ, DN phải tổ chức tốt hệ thống kho tàng, bến bãi, trang bị đầy

đủ các phương tiện cân đo, thực hiện đúng chế độ bảo quản và xác định mức dự trữ tối
thiểu, tối đa cho từng loại NVL để giảm bớt hư hỏng, hao hụt, mất mát, đảm bảo an toàn,
giữ được chất lượng của NVL và đảm bảo cho quá trình SXKD được diễn ra bình thường
không bị gián đoạn, ngừng việc do việc cung ứng, mua không kịp thời hoặc gây tình trạng
ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều.
Ở khâu sử dụng, đòi hỏi phải thực hiện việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở các
định mức têu hao, dự toán chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm. Nhằm hạ giá
thành sản phẩm tăng lợi nhuận cho DN, do vậy trong khâu này cần tổ chức việc ghi chép,
phản ánh tình hình xuất dùng và sử dụng NVL trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tóm lại, quản lý chặt chẽ NVL từ khâu thu mua tới khâu bảo quản dự trữ và sử dụng là
một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý tài sản ở DN.
3 NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU
Để đáp ứng được yêu cầu quản lý, kế toán nguyên vật liệu trong DN cần phải thực hiện
tốt các nhiệm vụ sau:
- Thực hiện việc phân loại, đánh giá NVL phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế
toán đã qui định và yêu cầu quản trị DN;
- Tổ chức chứng từ, tài khoản kế toán, sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng
tồn kho áp dụng trong DN để ghi chép, phân loại tổng hợp số liệu đầy đủ, kịp thời số
hiện có và tình hình biến động tăng, giảm của NVL trong quá trình hoạt động SXKD
nhằm cung cấp thông tin kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh, xác định trị
giá vốn hàng bán và giá thành sản phẩm;
- Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về mua NVL, kế hoạch sử dụng
NVL cho quá trình SXKD.
II. PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU
1. PHÂN LOẠI NGUYÊN VẬT LIỆU
Trong mỗi DN, do tính chất đặc thù trong hoạt động SXKD nên cần phải sử dụng nhiều
loại, nhiều thứ NVL khác nhau. Mỗi loại NVL lại có vai trò, công dụng, tính chất lý, hóa
học khác nhau. Do đó việc phân loại NVL có cơ sở khoa học là điều kiện quan trọng để có
thể quản lý NVL phục vụ cho yêu cầu quản trị DN.

Việc phân loại NVL tùy thuộc vào từng loại hình DN cụ thể, nội dung kinh tế và chức
năng của NVL trong quá trình SXKD của từng DN mà DN có sự phân loại khác nhau.
Thông thường có các cách phân loại như sau:
1.1 Căn cứ vào nội dung kinh tế và yêu cầu quản trị doanh nghiệp thì NVL được
chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu chính: Là những đối tượng lao động cấu thành nên thực thể sản phẩm.
Trong các doanh nghiệp khác nhau, nguyên vật liệu cũng gồm các loại khác nhau: ở
doanh nghiệp cơ khí nguyên vật liệu chính là: sắt, thép, tôn,...
- Vật liệu phụ: Là các loại vật liệu được sử dụng để làm tăng chất lượng sản phẩm hoàn
chỉnh sản phẩm hoặc phục vụ cho công việc quản lý sản xuất bao gói sản phẩm như:
thuốc nhuộm, thuộc tẩy, sơn,...
- Nhiên liệu: Được sử dụng phục vụ cho công nghệ sản xuất sản phẩm, cho phương tiện
vận tải, máy móc thiết bị hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh như : xăng dầu,
than, củi, khí gas,...
- Phụ tùng thay thế: Gồm các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để sửa chữa những
máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải.
- Thiết bị xây dựng cơ bản: dùng cho công tác xây lắp, xây dựng cơ bản. Bao gồm các
loại thiết bị cần lắp và thiết bị không cần lắp, công cụ, dụng cụ, vật kết cấu.
- Vật liệu khác: Là các loại vật liệu không được xếp vào các loại kể trên, các loại vật liệu
do quá trình sản xuất loại ra, phế liệu thu hồi từ việc thanh lý tài sản cố định.
1.2 Căn cứ vào nguồn gốc hình thành nguyên vật liệu được chia thành:
- Nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài: Là các loại nguyên vật liệu do mua ngoài, nhận góp
vốn liên doanh, nhận biếu tặng,…
- Nguyên vật liệu tự chế: Là các loại nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự sản xuất. Ví dụ:
Doanh nghiệp chế biến chè có tổ chức đội trồng chè cung cấp nguyên liệu cho bộ phận
chế biến.
Cách phân loại này có tác dụng làm căn cứ cho việc lập kế hoạch thu mua và kế hoạch
sản xuất nguyên vật liệu, là cơ sở để xác định trị giá vốn thực tế nguyênvật liệu nhập kho.
1.3 Căn cứ vào mục đích và nơi sử dụng của nguyên vật liệu có thể chia thành:
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu SXKD gồm:

+ Nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản phẩm;
+ Nguyên vật liệu dùng cho công tác quản lý ở các phân xưởng, dùng cho bộ phận bán
hàng, bộ phận quản lý doanh nghiệp.
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác:
+ Nhượng bán;
+ Đem góp vốn liên doanh;
+ Đem quyên tặng,...
2 ĐÁNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU
2.1 Khái niệm:
Đánh giá nguyên vật liệu là việc xác định giá trị của nguyên vật liệu ở những thời điểm
nhất định và theo những nguyên tắc quy định.
2.2 Những nguyên tắc đánh giá nguyên vật liệu
- Nguyên tắc giá gốc: Nguyên vật liệu phải được đánh giá theo giá gốc. Giá gốc hay còn
được gọi là trị giá vốn thực tế của NVL; là toàn bộ các chi phí mà DN đã bỏ ra để có
được NVL đó ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
- Nguyên tắc thận trọng: Nguyên vật liệu được đánh giá theo gá gốc, nhưng trường
hợp giá trị thuần có thể thực hiện thấp hơn giá gốc thì tính theo giá trị thuần có thể
được thực hiện.
Giá trị thuần có thể thực hiện được: là giá bán ước tính của hàng tồn kho trong kỳ
SXKD trừ (-) đi chi phí ước tính để hoàn thành sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho
việc tiêu thụ chúng.
Thực hiện nguyên tắc thận trọng bằng cách trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho:
Kế toán ghi sổ theo giá gốc và phản ánh khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Do đó,
trên báo cáo tài chính trình bày thông qua hai chỉ tiêu:
+ Trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu;
+ Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
- Nguyên tắc nhất quán: Các phương pháp kế toán áp dụng trong đánh giá vật tư phải
đảm bảo tính nhất quán. Tức là kế toán đã chọn phương pháp nào thì phải áp dụng
phương pháp đó nhất quán trong suốt niên độ kế toán. Doanh nghiệp có thể thay đổi
phương pháp đã chọn, nhưng phải đảm bảo phương pháp thay thế cho phép trình bầy

thông tin kế toán một cách trung thực và hợp lý hơn, đồng thời phải giải thích được ảnh
hưởng của sự thay đổi đó.
- Sự hình thành trị giá vốn thực tế của NVL: được phân biệt ở các thời điểm khác
nhau trong quá trình SXKD.
+ Thời điểm mua xác định trị giá vốn thực tế hàng mua;
+ Thời điểm nhập kho xác định trị giá vốn hàng nhập;
+ Thời điểm xuất kho xác định trị giá vốn thực tế xuất kho;
+ Thời điểm tiêu thụ xác định trị giá vốn thực tế hàng tiêu thụ.
2.3 Phương pháp xác định trị giá vốn của nguyên vật liệu nhập kho.
Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho được xác định theo từng nguồn nhập:
* Nhập kho do mua ngoài:
Trị giá vốn thực tế nhập kho bao gồm: giá mua, các loại thuế không hoàn lại, chi phí
vận chuyển bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan
trực tiếp đến việc thu mua vật tư, trừ (-) đi các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá
hàng mua do không đúng quy cách, phẩm chất.
Trường hợp NVL mua vào được sử dụng cho đối tượng chịu thuế GTGT tính theo
phương pháp khấu trừ, thì giá mua là giá chưa có thuế GTGT.
Trường hợp NVL mua vào được sử dụng cho các đối tượng không chụ thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ, hoặc sử dụng cho các mục đích phúc lợi, các dự án,... thì giá mua
bao gồm cả thuế GTGT (là tổng giá thanh toán).
* Nhập do tự sản xuất:
Trị giá vốn thực tế nhập kho là giá thành sản xuất của vật tư tự gia công chế biến.
* Nhập do thuê ngoài gia công chế biến:
Trị giá vốn thực tế nhập kho là trị giá vốn thực tế của vật liệu xuất kho thuê ngoài gia
công chế biến cộng (+) số tiền phải trả cho người nhận gia công chế biến cộng (+) các chi
phí vận chuyển bốc dỡ khi giao nhận.
* Nhập vật tư do góp vốn liên doanh:
Trị giá vốn thực tế nhập kho là trị giá do hội đồng liên doanh thỏa thuận cộng (+) các
chi phí vận chuyển khi giao nhận.
* Đối với phế liệu nhập kho: Giá thực tế là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá

trị thu hồi tối thiểu.
...
2.4 Các phương pháp xác định trị giá vốn của nguyên vật liệu xuất kho
Nguyên vật liệu được nhập kho từ nhiều nguồn khác nhau, ở nhiều thời điểm khác nhau
nên có nhiều giá khác nhau. Do đó, khi xuất kho NVL tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động,
yêu cầu, trình độ quản lý và điều kiện trang bị phương tiện kỹ thuật tính toán ở từng DN
mà lựa chọn một trong các phương pháp sau để xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật
liệu xuất kho:
Các phương pháp theo chuẩn mực kế toán:
* Phương pháp tính theo giá đích danh: Theo phương pháp này khi xuất kho NVL
thì căn cứ vào số lượng xuất kho thuộc lô hàng nào và đơn giá thực tế của lô hàng đó để
tính trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho. Phương pháp này, được áp dụng cho những DN
có chủng loại NVL ít và có thể nhận diện được từng lô hàng.
* Phương pháp bình quân gia quyền: trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho
được tính căn cứ vào số lượng nguyên vật liệu xuất kho và đơn giá bình quân gia quyền,
theo công thức:
Trị giá vốn thực
tế NVL xuất kho
=
Số lượng NVL
xuất kho
x
Đơn giá bình
quân gia quyền
Trong đó:
Đơn giá bình
quân gia quyền
=
Trị giá thực tế NVL tồn đầu kỳ + Trị giá thực tế NVL nhập trong kỳ
Số lượng NVL tồn đầu kỳ + Số lượng NVL nhập trong kỳ

- Đơn giá bình quân thường được tính cho từng thứ NVL.
- Đơn giá bình quân có thể xác định cho cả kỳ được gọi là đơn giá bình quân cả kỳ hay
đơn giá bình quân cố định.Theo cách tính này, khối lượng tính toán giảm nhưng chỉ tính
được trị giá vốn thực tế của NVL vào thời điểm cuối kỳ nên không cung cấp thông tin
kịp thời.
- Đơn giá bình quân có thể được xác định sau mỗi lần nhập, gọi là đơn giá bình quân liên
hoàn hay đơn giá bình quân di động; theo cách tính này, xác định được trị giá vốn thực
tế NVL hàng ngày, cung cấp thông tin được kịp thời. Tuy nhiên, khối lượng công việc
tính toán sẽ nhiều hơn nên phương pháp này rất thích hợp với những công ty đã làm kế
toán máy.
* Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO): Phương pháp này giả thiết số nguyên
vật liệu nào nhập kho trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo
giá thực tế của từng số hàng xuất. Cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của nguyên
vật liệu mua trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế nguyên vật liệu xuất trước và
do vậy giá trị nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số nguyên vật liệu mua
vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu
hướng giảm.
* Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO): Phương pháp này giả thiết số nguyên
vật liệu mua sau cùng thì sẽ được xuất kho trước tiên, nguyên vật liệu xuất kho thuộc lô
nào thì lấy đơn giá mua thực tế của lô đó để tính. Do đó, nếu giá vật liệu trên thị trường có
xu hướng tăng thì giá trị vật liệu xuất dùng sẽ tăng, lúc này trị giá vật liệu tồn kho thấp hơn
giá thị trường và lợi nhuận trong kỳ sẽ giảm.
Ngược lại, nếu giá vật liệu trên thị trường có xu hướng giảm thì giá trị vật liệu xuất
dùng giảm, giá trị vật liệu tồn kho cao và lợi nhuận trong kỳ tăng.
* Các phương pháp khác:
+ Phương pháp tính theo đơn giá tồn đầu kỳ;
+ Phương pháp đánh giá nguyên vật liệu theo giá hạch toán;
III. KẾ TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU
1.YÊU CẦU HẠCH TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU
Nguyên vật liệu là một trong những đối tượng kế toán phải được tổ chức hạch toán chi

tiết đồng thời ở cả hai mặt: giá trị và hiện vật, không chỉ thế mà còn phải quản lý theo từng
kho và chi tiết đến từng nhóm, từng loại, từng thứ nguyên vật liệu một và phải được tiến
hành quản lý đồng thời ở cả kho và phòng kế toán trên cùng cơ sở là các chứng từ: phiếu
nhập kho, phiếu xuất kho. Các DN phải tổ chức hệ thống chứng từ, mở các sổ kế toán chi
tiết và lựa chọn, vận dụng phương pháp kế toán chi tiết NVL phù hợp với tình hình, đặc
điểm của DN mình nhằm tăng cường công tác quản lý tài sản nói chung, và công tác quản
lý NVL nói riêng.
2. CHỨNG TỪ VÀ SỔ KẾ TOÁN SỬ DỤNG
Nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp gồm nhiều loại khác nhau. Để cho việc quản lý
được chặt chẽ, cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ về tình hình nhập, xuất,
tồn nguyên vật liệu cả chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu thành tiền kế toán tiến hành hạch toán
chi tiết nguyên vật liệu đến từng thứ, từng nhóm, từng loại ở từng nơi bảo quản sử dụng
nguyên vật liệu.
Theo chế độ chứng từ kế toán ban hành theo QĐ 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995
và theo QĐ 885/1998/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng BTC, các loại chứng từ, sổ
sách kế toán phục vụ cho việc hạch toán chi tiết NVL bao gồm:
- Phiếu nhập kho (Mẫu 01 – VT);
- Phiếu xuất kho (Mẫu 02 – VT);
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (Mẫu 03 – VT);
- Phiếu xuất vật tư theo hạn mức (Mẫu 04 – VT);
- Biên bản kiểm nghiệm (Mẫu 05 – VT);
- Thẻ kho (Mẫu 06 – VT);
- Phiếu nhập kho Báo vật tư còn lại cuối kỳ (Mẫu 07 – VT);
- Biên bản kiểm kê vật tư,sản phẩm hàng hóa (Mẫu 08 – VT);
- Sổ (thẻ) kế toán chi tiết nguyên vật liệu
- Sổ số dư
- Sổ đối chiếu luân chuyển
- Bảng kê nhập xuất tồn vật tư
- Bảng luỹ kế nhập vật tư
- Bảng luỹ kế xuất vật tư

- Báo cáo vật tư
Thẻ kho: Được sử dụng để theo dõi số lượng nhập – xuất – tồn kho của từng thứ NVL
theo từng kho.
Các sổ kế toán chi tiết NVL, sổ đối chiếu luân chuyển, sổ số dư NVL được sử dụng để
hạch toán tình hình nhập, xuất, tồn kho NVL về mặt giá trị và số lượng tùy thuộc vào
phương pháp kế toán chi tiết NVL áp dụng tại doanh nghiệp.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU
Để hạch toán chi tiết nguyên vật liệu, kế toán sử dụng các phương pháp khác nhau. Mỗi
doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng có và yêu cầu quản lý của mình để chọn một
trong các phương pháp thích hợp. Các phương pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu bao
gồm:
3.1. Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp ghi thẻ song song :
*Nội dung:
Ở kho: Thủ kho dùng “ thẻ kho ” để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn kho của từng
thứ vật tư theo chỉ tiêu số lượng.
Khi nhận chứng từ nhập, xuất vật tư thủ kho phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của
chứng từ rồi tiến hành ghi chép số thực nhập, thực xuất vào chứng từ và thẻ kho; cuối ngày
tính ra số tồn kho để ghi vào cột “số tồn” trên thẻ kho. Định kỳ, thủ kho gửi các chứng từ
nhập – xuất đã phân loại theo từng thứ vật tư cho phòng kế toán.
Ở phòng kế toán: Kế toán sử dụng sổ (thẻ) kế toán chi tiết để ghi chép tình hình nhập –
xuất cho từng thứ vật tư theo cả hai chỉ tiêu số lượng và giá trị.
Kế toán khi nhận dược chứng từ nhập-xuất của thủ kho gửi lên, kế toán kiểm tra lại
chứng từ, hoàn chỉnh chứng từ; sau đó căn cứ vào các chứng từ nhập, xuất kho để ghi vào
sổ (thẻ) kế toán chi tiết vật tư, mỗi chứng từ được ghi một dòng.
Cuối tháng, kế toán chi tiết lập bảng kê nhập – xuất – tồn, sau đó đối chiếu: Sổ kế toán
chi tiết với thẻ kho của thủ kho; Số liệu dòng tổng cộng trên bảng kê nhập – xuất – tồn với
số liệu trên sổ kế toán tổng hợp; Số liệu trên sổ kế toán chi tiết với số liệu kiểm kê thực tế.
Phiếu nhập kho
Sổ kế toán tổng hợp
Thẻ kho

Phiếu xuất kho
Sổ kế toán
chi tiết vật tư
Bảng kê nhập xuất tồn kho vật tư
Hình 1: Sơ đồ hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp ghi thẻ song song
Ghi chú : Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
3.2. Hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
* Nội dung:
Theo phương pháp này, tại kho thủ kho vẫn sử dụng thẻ kho để ghi chép. Phòng kế toán
sau khi nhận được chứng từ về nhập, xuất nguyên vật liệu, kế toán kiểm tra tính hợp lý,
hợp pháp của chứng từ và hoàn chỉnh chứng từ. Sau đó, tiến hành tập hợp và phân loại
chứng từ theo chứng từ nhập và chứng từ xuất.
Trong từng loại nhập, xuất kế toán chi tiết đến từng thứ nguyên vật liệu. Ngoài ra, kế
toán còn có thể lập bảng kê nhập hoặc bảng kê xuất nguyên vật liệu để thuận tiện cho việc
ghi sổ đối chiếu luân chuyển.
Cuối tháng, kế toán tiến hành tổng hợp số liệu từ các chứng từ hoặc bảng kê để ghi vào
sổ đối chiếu luân chuyển, và tính ra số tồn cuối tháng.Việc đối chiếu số liệu giống như
phương pháp ghi thẻ song song nhưng chỉ tiến hành vào cuối tháng.
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Sổ đối chiếu luân chuyển
Sổ kế toán tổng hợp
Bảng kê nhập
Bảng kê xuất
Hình 2: Sơ đồ hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
Ghi chú : Ghi hàng ngày
Quan hệ đối chiếu

Ghi cuối tháng
3.3. Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp sổ số dư
* Nội dung:
Theo phương pháp, tại kho thủ kho vẫn sử dụng thẻ kho để ghi chép, đồng thời dùng sổ
số dư để ghi chép số tồn kho cuối kỳ của từng nguyên vật liệu vào cột số lượng. “Sổ số
dư” do kế toán lập cho từng kho, sổ được mở cho cả năm. Trên “sổ số dư”, nguyên vật liệu
được sắp xếp theo từng thứ, nhóm, loại; sau mỗi nhóm, loại, có dòng cộng nhóm, cộng
loại. Cuối mỗi tháng, “sổ số dư” được chuyển cho thủ kho để ghi chép.
Phòng kế toán: kế toán định kỳ xuống kho kiểm tra việc ghi chép trên “thẻ kho” của thủ
kho và trực tiếp nhận chứng từ nhập, xuất kho nguyên vật liệu. Sau đó, kế toán ký xác nhận
vào từng thẻ kho và ký vào phiếu giao nhận chứng từ.
Tại phòng kế toán, nhân viên kế toán kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ, hoàn
chỉnh chứng từ và phân loại chứng từ theo từng nhóm nguyên vật liệu. Sau đó, tiến hành
tổng hợp giá trị của các chứng từ và ghi vào các cột “số tiền” trên “phiếu giao nhận chứng
từ”, số liệu này được ghi vào “Bảng kê lũy kế nhập” và “Bảng kê lũy kế xuất” nguyên vật
liệu.
Cuối tháng, căn cứ vào số liệu trên các bảng kê này để ghi vào cột nhập, xuất trên “Bảng
kê nhập - xuất - tồn” và tính ra số tồn. Đồng thời, căn cứ vào số dư do thủ kho chuyển lên
để tính ra giá trị nguyên vật liệu tồn kho và ghi vào cột số tiền trên sổ số dư.
Phiếu nhập kho
Sổ kế toán tổng hợp
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Sổ số dư
Bảng kê nhập xuất tồn
Phiếu giao nhận chứng từ nhập

×