NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN
XUẤT HIỆN NAY
I. Đặc điểm, yêu cầu quản lý và nhiệm vụ của kế toán nguyên vật
liệu (NVL) trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
1. Đặc điểm và vai trò của NVL trong các doanh nghiệp sản xuất
Trong xã hội loài người, sản xuất luôn là cơ sở để tồn tại và phát triển.
Mác đã nói “ Nếu sản xuất chỉ ngừng một ngày thôi chứ không nói đến ngừng
vài tuần, một năm thì xã hội sẽ bị tiêu vong “. Để tiến hành quá trình sản xuất
thì không thể thiếu được một trong ba yếu tố cơ bản là : tư liệu lao động, sức
lao động và đối tượng lao động.
NVL là một loại đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá
như cát, sỏi trong doanh nghiệp xây lắp; vải trong doanh nghiệp may mặc, rau
quả trong các doanh nghiệp chế biến thực phẩm..., là tài sản dự trữ của doanh
nghiệp nhằm phục vụ sản xuất liên tục.
Khi nói rằng NVL là một loại đối tượng lao động điều này cũng có nghĩa
là không phải mọi đối tượng lao động đều là NVL. Chỉ trong điều kiện đối
tượng lao động có thể phục vụ cho quá trình sản xuất hay tạo ra sản phẩm và
đối tượng lao động đó do lao động có ích của con người tạo ra mới trở thành
NVL. Ví như than, dầu khi còn nằm trong lòng đất, nó được coi là tài nguyên,
nhưng khi con người khai thác để sử dụng, chúng trở thành các NVL. Trong
quá trình sản xuất, NVL được bao gồm các yếu tố được đưa vào phục vụ quá
trình vận hành chung, chịu sự tác động gián tiếp của con người thông qua tư
liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra. NVL có thể trực tiếp tạo ra sản phẩm
như bột mì, trứng, sữa... để sản xuất ra bánh các loại hoặc có thể tham gia gián
tiếp như các loại dầu, mỡ bôi trơn, phụ tùng thay thế...phục vụ cho sự hoạt
động liên tục và bình thường của máy móc, thiết bị, giảm thiệt hại do ngừng
sản xuất gây ra. Trong quá trình tác động của lao động về mặt hiện vật, NVL
hoặc bị hao mòn toàn bộ như nhiên liệu, chất đốt..., hoặc chỉ thay đổi hình thái
vật chất ban đầu như mía để sản xuất đường..., hoặc vẫn giữ nguyên trạng thái
vật chất ban đầu như vải để sản xuất quần, áo...
Như vậy, NVL luôn được thể hiện dưới hình thái vật hoá có nghĩa là nó
tồn tại ở trạng thái vật chất cụ thể, có thể sờ mó cảm nhận bằng trực quan.
Nhờ đó có thể cân, đong, đo, đếm được nên NVL và sự biến động của nó được
kiểm soát thường xuyên bằng việc kiểm kê xác định số lượng thông qua các
đơn vị đo lường.
Một đặc điểm nổi bật của NVL là nó chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất
kinh doanh, giá trị của nó được chuyển một lần và toàn bộ vào giá thành sản
phẩm tron kì. Chính vì thế chỉ khi sản phẩm được tiêu thụ, toàn bộ chi phí về
NVL sẽ được bù đắp tạo tiền đề cho quá trình tái sản xuất tiếp theo.
Mặt khác, trong doanh nghiệp NVL còn là một loại tài sản lưu động
thuộc nhóm hàng tồn kho. Đây là bộ phận dự trữ cho sản xuất đề mỗi khi sản
xuất có yêu cầu là sẵn sàng cung ứng ngay. Nó giúp quá trình sản xuất diễn ra
liên tục, bình thường không bị gián đoạn. Từ đó giảm các tổn thất kinh tế do
phải ngừng sản xuất gây ra. Hơn thế nữa nó còn đồng thời là số vốn lưu động
mà doanh nghiệp bỏ ra đầu tư. Song do không được đưa vào sản xuất ngay mà
được lưu tại kho nên phát sinh thêm các chi phí cho bảo quản, dự trữ nên có
thể nói đây là một lượng vốn ứ đọng không sinh lời cho chủ sở hữu. Nhưng với
vai trò không thể thiếu được trong việc duy trì sản xuất, doanh nghiệp luôn
phải tính toán để xác định được số lượng vốn này một cách có hiệu quả phù
hợp với cơ cấu vốn và đặc điểm hoạt đông của doanh nghiệp.
Từ các đặc điểm trên đây cho thấy, NVL có vai trò hết sức quan trọng
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ tác động trực tiếp
tới khối lượng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm mà còn ảnh hưởng rất lớn tới
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong các doanh nghiệp sản xuất nói
chung, chi phí NVL thường chiếm tỷ trọng lớn từ 60% đến 70% giá trị sản
phẩm tạo ra. NVL có đảm bảo được chất lượng cao, đúng yêu cầu về quy cách,
chủng loại thì chi phí về NVL mới được hạ thấp, định mức tiêu hao trong quá
trình sản xuất giảm, khi đó sản phẩm tạo ra mới đạt yêu cầu về chất lượng và
giá thành hạ. Mặt khác, với ý nghĩa là một loại vốn lưu động, NVL là thành
phần quan trọng trong cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp đặc biệt là vốn
dự trữ. Vì loại vốn này có đặc điểm là vòng quay của nó rất ngắn, chỉ trong một
kì kinh doanh khi tạo ra doanh thu là có thể thu hồi được, nên nó có ý nghĩa
quan trọng trong việc mang lại lợi nhuận và tạo ra hiệu quả sản xuất kinh
doanh cho DN. Khi lượng vốn này được quản lý và sử dụng đúng mục đích,
đúng liều lượng nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất tạo ra những sản phẩm chất
lượng ngày càng cao trong khi gía thành lại giảm, điều này sẽ nâng tính cạnh
tranh cho sản phẩm, qua đó tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho DN.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của NVL ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất cũng như hiệu quả kinh tế của DN, đòi hỏi DN cần phải quản lý chặt chẽ
NVL.
2. Yêu cầu quản lý nguyên vật liệu
Bắt nhịp cùng với xu thế chung của đất nước bước sang nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng chịu
tác động của nhiều quy luật kinh tế, trong đó cạnh tranh là yếu tố khách quan,
nó gây ra cho doanh nghiệp không ít những khó khăn, nhưng cũng là động lực
để các doanh nghiệp sản xuất tồn tại và phát triển. Để có thể vươn lên khẳng
định vị trí của mình trong điều kiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp sản xuất phải làm ăn có hiệu quả. Một trong những giải pháp cho vấn
đề này là doanh nghiệp phải quản lý thật tốt các yếu tố đầu vào mà cụ thể là
yếu tố nguyên vật liệu.
Để công tác quản lý này đạt hiệu quả cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải có đầy đủ thông tin tổng hợp vật liệu cả về hiện vật và giá trị, về
tình hình nhập , xuất, tôn kho.Tuỳ theo điêu kiện và yêu cầu quản lý của từng
doanh nghiệp mà có thể cần những thông tin chi tiết hơn.
- Phải tổ chức hệ thống kho tàng đảm bảo an toàn cho vật liệu cả về số
lượng và chất lượng. Phát hiện và ngăn ngừa những biểu hiện vi phạm làm
thất thoát vật liệu.
- Quản lý định mức dự trữ vật liệu, tránh tình trạng ứ đọng hoặc khan
hiếm vật liệu, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và tiến độ sản xuất của doanh
nghiệp.
Trên cơ sở các yêu cầu quản lý đó, nội dung công tác quản lý nguyên vật
liệu tại các khâu như sau:
+ Khâu thu mua: lập kế hoạch và tìm nguồn thu mua nguyên vật liệu,
đảm bảo đáp ứng theo yêu cầu của sản xuất cả về số lượng và chất lượng với
chi phí tối thiểu, đáp ứng kịp thời tránh việc thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất
+Khâu bảo quản: xây dựng và bố trí hệ thống kho tàng, thiết bị kỹ
thuật đầy đủ trên cơ sở phân loại theo tính chất cơ, lý, hoá của từng loại
nguyên vật liệu để có biện pháp bảo quản tốt nhất.. Nhìn chung các loại vật
liệu thường rất dễ hỏng dưới tác dụng của môi trường, khí hậu… và dễ mất
mát, hao hụt nên rất khó khăn cho công tác bảo quản. Chi phí cho việc bảo
quản đôi khi rất lớn, do vậy doanh nghiệp nên tính đến hiệu quả của chi phí
này có nghĩa là phải tính được tỷ lệ hợp lý giữa trị giá vật liệu với chi phí bảo
quản chúng
+ Khâu dự trữ: Tại khâu này doanh nghiệp cần xác định các mức dự
trữ tối đa, mức dự trữ tối thiểu và mức dự trữ trung bình cho doanh nghiệp
mình căn cứ vào yêu cầu và đặc điểm của hoạt động sản xuất.
+ Khâu xuất nguyên vật liệu : bên cạnh việc đảm bảo xuất đúng, xuất
đủ cho sản xuất cần phải xác định được chính xác giá xuất kho thực tế của
nguyên vật liệu phục vụ cho công tác tính giá thành một cách chính xác.
Ngoài ra để công tác quản lý nguyên vật liệu khoa học và chính xác, các
doanh nghiệp nên tiến hành mã hoá các loại nguyên vật liệu có nghĩa là quản
lý chúng thông qua các ký hiệu bằng số, bằng chữ hoặc kết hợp cả hai bằng
cách lập sổ danh điểm vật liệu
SỔ DANH ĐIỂM VẬT LIỆU
Ký hiệu
nhóm
Danh điểm
vật liệu
Tên, nhãn hiệu, quy cách
vật liệu
Đơn
vị
tính
Đơn giá
hạch
toán
1521-1
1521-2
1521-01-01
1521-01-02
…
1521-02-01
1521-02-02
…
Mỗi loại nguyên vật liệu sử dụng 1 hoặc một số trang trong sổ danh
điểm vật liệu để ghi đủ các nhóm, thứ của nguyên vật liệu đó. Sổ này được xây
dựng trên cơ sơ số liệu của loại, nhóm và đặc tính thứ vật liệu. Tuỳ theo số
lượng nhóm vật liệu mà xây dựng nhóm vật liệu gồm 1,2 hoặc3 chữ số( Nếu số
lượng dưới 10: sử dụng 1 chữ số, nếu dưới 100: sử dụng 2 chữ số…). Các
doanh nghiệp hoàn toàn có thể tự xây dựng cho mình cách đặt ký hiệu cho
từng danh điểm vật liệu của doanh nghiệp mình miễn sao thuận lợi và đơn
giản hơn cho công tác quản lý trên cơ sở sự kết hợp nghiên cứu giữa bộ phận
kỹ thuật, bộ phận cung ứng và phòng kế toán, đồng thời báo cáo cho các cơ
quan chủ quản.
3. Vai trò và nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu
3.1. Vai trò của kế toán nguyên vật liệu
Hạch toán kế toán là môn khoa học thu thập, xử lý và cung cấp toàn bộ
thông tin của các hoạt động kinh tế nhằm đề ra các biện pháp kiểm tra, giám
sát toàn bộ hoạt động kinh tế của một đơn vị một cách đúng đắn.Kế toán
nguyên vật liệu cũng là sự ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về tình hình thu
mua, bảo quản, dự trữ, tình hình nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu.
Thông qua các số liệu kế toán, doanh nghiệp có thể nắm được tình hình
cụ thể về số lượng, gía trị của từng danh điểm vật liệu để từ đó có kế hoạch thu
mua cung cấp kịp thời cho sản xuất, làm cơ sở xây dựng các định mức tiêu hao
nguyên vật liệu phù hợp và tiết kiệm. Đồng thời cũng thấy được tình hình sử
dụng vật liệu cho sản xuất, giảm thiểu tình trạng sử dụng sai mục đích dẫn đến
hao hụt, lãng phí vật liệu. Thông tin mà kế toán cung cấp là những con số hết
sức cụ thể và cập nhật đã tạo điều kiện cho nhà quản lý có các biện pháp xử lý
kịp thời và hiệu quả nhất. Vì thế mà kế toán là công cụ quản lý không thể thiếu
được của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Như đã nói ở trên, nguyên vật liệu chiếm phần lớn trong cơ cấu giá
thành của sản phẩm, trong khi giá thành lại luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu
của các doanh nghiệp sản xuất. Làm thế nào để sản xuất ra sản phẩm có chất
lượng cao hơn trong khi giá thành không đổi hoặc vẫn giữ nguyên chất lượng
mà chi phí sản xuất giảm. Để làm được điều này trước hết doanh nghiệp cần có
biện pháp tập hợp chi phí mà trong đó chi phí nguyên vật liệu cần được chú
trọng hơn cả, qua đó tính toán, xác định chinh xác chi phí nguyên vật liệu bỏ ra,
luôn cập nhật mọi thông tin từ tổng hợp đến chi tiết tình hình tiêu hao nguyên
vật liệu, qua đó có biện pháp tiến tới giảm chi phí sản xuất sản phẩm.Một lần
nữa, kế toán nguyên vật liệu lại đóng vai trò không thể thiếu cho việc đáp ứng
các yêu cầu này.
Nguyên vật liệu là một loại tài sản của doanh nghiệp, do đó sự biến động
của nó ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính, đến chất lượng và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ thông qua kế toán doanh nghiệp nắm
thấy được tình hình vận động tăng, giảm của loại tài sản này từ đó đi đến sử
dụng chúng tích cực hơn.
Có thể nói, kế toán nói chung và kế toán nguyên vật liệu nói riêng đã,
đang và vẫn sẽ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của doanh
nghiệp. Nó không chỉ đơn thuần là cung cấp các thông tin mà còn hỗ trợ cho
các bộ phận thống kê và phân tích trong doanh nghiệp cùng tìm ra phương án
tối ưu nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm cũng như vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường.
3.2. Nhiệm vụ của kế toán nguyên vật liệu
Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu quản lý nguyên vật liệu cũng như vai trò
của kế toán nguyên vật liệu trong hệ thống quản lý kinh tế, nhiệm vụ của kế
toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp được xác định như sau:
- Ghi chép, phản ánh đầy đủ, kịp thời số hiện có và tình hình luân chuyển
của nguyên vật liệu cả về giá trị và hiện vật. Tính toán đúng đắn trị giá của
nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho nhằm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
phục vụ cho yêu cầu quản lý.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về mua nguyên vật
liệu, kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu cho sản xuất.
- Tổ chức kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho, cung
cấp thông tin phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và phân tích hoạt động
kinh doanh.
II. Phân loại và đánh giá nguyên vật liệu
1. Phân loại nguyên vật liệu
Vật liệu sử dụng trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ, có vai
trò, công dụng khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh.Trong điều kiện
đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phân loại vật liệu thì mới tổ chức tốt việc
quản lý và hạch toán vật liệu.
Trong thực tế quản lý và hạch toán nguyên vật liệu ở các doanh nghiệp,
đặc trưng thông dụng nhất để phân loại vật liệu là vai trò, tác dụng của
nguyên vật liệu trong sản xuất và yêu cầu quản lý. Theo đặc trưng này, vật liệu
được chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu chính: là những nguyên vật liệu mà sau quá trình gia
công, chế biến cấu thành thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm (kể cả bán
thành phẩm mua vào )
- Nguyên vật liệu phụ: là những nguyên vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ
trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính để làm thay
đổi mầu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc được sử dụng để
đảm bảo cho công cụ lao động hoạt động bình thường hoặc phục vụ cho nhu
cầu công nghệ kỹ thuật, phục vụ cho lao động của công nhân viên chức.
- Nhiên liệu: Về thực chất nhiên liệu là một loại nguyên vật liệu phụ nhưng
nó được tách ra thành một loại vật liệu riêng biệt vì việc sản xuất và tiêu dùng
nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, mặt khác nó có yêu
cầu quản lý kỹ thuật hoàn toàn khác với vật liệu thông thường. Nhiên liệu có
tác dụng cung cấp nhiệt lượng cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường. Nó có thể tồn tại ở thể rắn , lỏng hoặc khí như than, dầu, khí đốt...
- Phụ tùng thay thế: là những vật tư dùng để thay thế, sửa chữa, bảo
dưỡng máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải...
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: là thiết bị ( cần lắp và không cần
lắp, vật kết cấu, công cụ...) mà doanh nghiệp mua vào để đầu tư cho xây dựng
cơ bản.
- Phế liệu: là các loại nguyên vật liệu thu được trong quá trình sản xuất
hay thanh lý tài sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài.
- Vật liệu khác: Bao gồm các loại vật liệu chưa kể đến ở trên như bao bì,
vật đóng gói, các loại vật tư đặc trưng.
Hạch toán theo cách phân loại trên đáp ứng được yêu cầu phản ánh
tổng quát về mặt gía trị đối với mỗi loại nguyên vật liệu. Để đảm bảo thuận
tiện, tránh nhầm lẫn trong công tác quản lý và hạch toán về số lượng, giá trị
từng loại nguyên vật liệu, trên cơ sở cách phân loại này, các doanh nghiệp sẽ
chi tiết mỗi loại nguyên vật liệu trên theo từng nhóm, từng thứ nguyên vật liệu
căn cứ vào đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp.
Ngoài cách phân loại phổ biến trên, các doanh nghiệp có thể phân loại
nguyên vật liệu theo nhiều cách khác nữa. Mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa
riêng và nhằm phục vụ các yêu cầu quản lý khác nhau.
Theo nguồn hình thành, vật liệu bao gồm:
- Vật liệu mua ngoài
- Vật liệu tự sản xuất
- Vật liệu từ các nguồn khác như: nhận cấp phát, góp vốn liên doanh, biếu,
tặng thưởng...
Cách phân loại này tạo tiền đề cho việc quản lý và sử dụng riêng các loại
nguyên vật liệu từ các nguồn nhập khác nhau, do đó đánh gía được hiệu quả
sử dụng vật liệu trong sản xuất. Hơn nữa, còn đảm bảo việc phản ánh nhanh
chóng, chính xác số hiện có và tình hình biến động từng loại nguồn vốn kinh
doanh của doanh mgiệp. Nhưng cách phân loại này không phản ánh chi tiết
được từng loại nguyên vật liệu.
Theo quyền sở hữu vật liệu bao gồm:
- Vật liệu tự có
- Vật liệu nhận gia công hoặc giữ hộ
Cách phân loại này là cơ sở để doanh nghiệp theo dõi nắm bắt tình hình
hiện có của vật liệu, từ đó lên kế hoạch thu mua, dự trữ vật liệu phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo mục đích và nơi sử dụng nguyên vật liệu, gồm:
- Vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất
- Vật liệu dùng cho nhu cầu khác như quản lý phân xưởng, quản lý doanh
nghiệp, tiêu thụ sản phẩm...
Với cách phân loại này, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được tình hình sử dụng
vật liệu tại các bộ phận và cho các nhu cầu khác từ đó điều chỉnh, cân đối cho
phù hợp với kế hoạch sản xuất, tiêu thụ...
2. Đánh gía nguyên vật liệu
Đánh giá nguyên vật liệu là việc dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá
trị của nguyên vật liệu theo những nguyên tắc nhất định.
Về nguyên tắc, nguyên vật liệu phải được đánh giá theo nguyên tắc “giá
phí “ tức là tính toán đầy đủ chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra để có được
nguyên vật liệu đó. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện cụ thể về giá nguyên vật liệu ở
doanh nghiệp biến động hay ổn định mà có thể lựa chọn một trong hai cách
đánh giá nguyên vật liệu sau:
2.1. Đánh giá nguyên vật liệu theo giá thực tế
2.1.1. Giá thực tế nhập kho
Gía thực tế của nguyên vật liệu nhập kho là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để có nguyên vật liệu đó. Tuỳ từng nguồn nhập mà giá thực
tế của nguyên vật liệu được đánh giá khác nhau
- Đối với nguyên vật liệu mua ngoài
Nếu nguyên vật liệu mua để dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh
thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Trị giá thực tế NVL nhập kho trong kỳ = trị giá mua ghi trên hoá đơn
( không bao gồm VAT ) + các loại thuế không được hoàn lại ( thuế nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có ) + các chi phí trực tiếp phát sinh( chi phí vận
chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua và các chi phí liên quan trực
tiếp khác) – các khoản triết khấu thương mại, giảm giá ( do hàng mua không
đúng quy cách, phẩm chất ).
Nếu nguyên vật liệu mua để dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh
thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:
Trị giá
thực tế
NVL nhập
kho trong
kỳ
=
Trị giá
mua ghi
trên hoá
đơn
( có VAT)
+
Các loại
thuế
không
được hoàn
lại
+
Chi phí
trực tiếp
phát sinh
trong
khâu mua
-
Các khoản
triết khấu
TM, giảm
giá
- Đối với nguyên vật liệu do doanh nghiệp gia công, chế biến:
Trị giá thực tế NVL
gia công, chế biến
nhập kho trong kỳ
=
Trị giá thực tế
NVL xuât gia
công, chế biến
+
Chi phí gia
công, chế
biến
+
Chi phí vận
chuyển, bốc
dỡ
- Đối với nguyên vật liệu doanh nghiệp thuê ngoài gia công, chế biến:
Trị giá thực tế
NVL thuê gia
=
Trị giá thực tế
NVL xuât thuê
+
Chi phí
phải trả
+
Chi phí vận
chuyển, bốc
công, chế biến
nhập kho trong
kỳ
gia công, chế
biến
cho đơn vị
GC, CB
dỡ
- Đối với nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh, cổ phần thì giá thực tế
là giá do hội đồng liên doanh đánh giá.
- Đối với nguyên vật liệu nhận cấp, biếu, tặng… thì giá thực tế của nguyên
vật liệu nhập kho là giá ghi trong biên bản của đơn vị cấp hoặc đưỡc xác định
trên cơ sở giá thị trường của nguyên vật liệu tương đương.
- Đối với nguyên vật liệu nhập kho từ nguồn phế liệu thu hồi
Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho được đánh giá theo giá trị thực tế
nếu còn sử dụng được hoặc đánh giá theo giá ước tính
2.1.2. Giá thực tế xuất kho
Khi xuất kho nguyên vật liệu để sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp , kế toán phải tính toán, xác định chính xác trị giá
thực tế của nguyên vật liệu xuất kho cho các nhu cầu, đối tượng khác nhau
nhằm xác định chính xác chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp .Việc tính giá thực tế xuất kho có thể áp dụng theo một số phương pháp
sau:
Phương pháp giá đích danh
Theo phương pháp này giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho được tính
trên cơ sở số lượng nguyên vật liệu xuất kho và đơn giá thực tế nhập kho của
chính lô nguyên vật liệu xuất kho đó.
Phương pháp này sẽ nhận diện được từng loại nguyên vật liệu xuất và
tồn kho theo từng danh đơn mua vào riêng biệt. Do đó trị giá của nguyên vật
liệu xuất và tồn kho được xác định chính xác tuyệt đối, phản ánh đúng thực tế
phát sinh. Nhưng như vậy thì việc quản lý tồn kho sẽ rất phức tạp đặc biệt khi
doanh nghiệp dự trữ nhiều loại nguyên vật liệu với giá trị nhỏ. Khi đó chi phí
cho quản lý tồn kho sẽ tốn kém và đôi khi không thể thực hiện được.Chính vì
vậy chỉ nên áp dụng phương pháp tính giá này đối với những loại vật liệu đặc
trưng có gía trị cao.
Phương pháp nhập trước – xuất trước ( FIFO )
Với phương pháp này kế toán phải theo dõi được đơn giá thực tế và số
lượng của từng lô hàng nhập kho. Sau đó, khi xuất kho căn cứ vào số lượng
xuất tính ra giá thực tế theo công thức sau:
Trị giá thực tế NVL
xuất kho
=
Số lượng NVL xuất
kho
x
Đơn giá thực tế NVL của
lô hàng nhập trước
Khi nào xuất hết số lượng của lô hàng nhập trước mới lấy đơn giá thực
tế của lô hàng tiếp sau để tính ra giá thực tế xuất kho. Cách xác định náy sẽ
đơn giản hơn cho kế toán so với phương pháp giá đích danh nhưng vì giá thực
tế xuất kho lại được xác định theo đơn giá của lô hàng nhập sớm nhất còn lại
nên không phản ánh sự biến động của giá một cách kịp thời, xa rời thực tế. Vì
thế nó thích hợp cho áp dụng cho những nguyên vật liệu có liên quan đến thời
hạn sử dụng
Phương pháp nhập sau – xuất trước (LIFO )
Ở phương pháp này, kế toán cũng phải theo dõi được đơn giá thực tế và
số lượng của từng lô hàng nhập kho. Sau đó khi xuất, căn cứ vào số lượng xuất
kho để tính trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho bằng cách:
Trị giá thực tế NVL
xuất kho
=
Số lượng NVL
xuất kho
x
Đơn giá thực tế NVL của lô
hàng nhập sau cùng
Khi nào hết số lượng của lô hàng nhập sau cùng thì nhân ( x ) với đơn
gía thực tế của lô hàng nhập ngay trước đó và cứ tính lần lượt như thế. Như
vậy giá thực tế của nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ chính là giá thực tế của
nguyên vật liệu nhập kho của các lần mua đầu kỳ. Ngược lại với phương pháp
FIFO, với phương pháp này mọi sự biến động về giá được chuyển ngay vào chi
phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Do đó phản ánh đúng điều kiện kinh doanh
tại thị trường hiện tại nhưng chi phí hiện hành của nguyên vật liệu tồn kho lại
xa rời thực tế . Vì vậy phương pháp này thích hợp với những nguyên vật liệu
có đặc điểm là phải sử dụng ngay như các loại thực phẩm tươi sống trong
công nghiệp chế biến.
Phương pháp giá thực tế bình quân
Đây là phương pháp mà giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho được tính
trên cơ sở đơn giá thực tế bình quân của nguyên vật liệu:
giá thực tế NVL
xuất kho
=
Số lượng NVL
xuất kho
x
Đơn giá thực tế bình quân của
NVL
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong số các loại đơn gía
thực tế bình quân sau:
∗Đơn giá bình quân gia quyền cả kỳ:
Đơn giá
bình
quân
=
Trị giá thực tế NVL tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Lượng NVL tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Cách tính này được xác định sau khi kết thúc kỳ hạch toán, dựa trên số
liệu đánh giá nguyên vật liệu cả kỳ dự trữ. Các lần xuất nguyên vật liệu khi
phát sinh chỉ phản ánh về mặt số lượng mà không phản ánh mặt giá trị. Toàn
bộ giá trị xuất được phản ánh vào cuối kỳ khi có đầy đủ số liệu tổng nhập. Điều
đó làm cho công việc bị dồn lại, ảnh hưởng đến tiến độ quyết toán song cách
tính này đơn giản, tốn ít công nên được nhiều doanh nghiệp sử dụng đặc biệt
là những doanh nghiệp quy mô nhỏ, ít loại nguyên vật liệu , thời gian sử dụng
ngắn và số lần nhập, xuất mỗi danh điểm nhiều.
∗Đơn giá bình quân cuối kỳ trước:
Trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho trong kỳ lấy theo đơn giá bình
quân cuối kỳ trước đã tính được làm cơ sở tính giá. Có thể thấy đây là sự kết
hợp giữa cách tính bình quân gia quyền cả kỳ với phương pháp nhập trước –
xuất trước. Do vậy, nó không tính đến sự biến động về giá ở kỳ này nên việc
phản ánh thiếu chính xác. Nhưng đổi lại, cách tính này đơn giản, đảm bảo tính
kịp thời về số liệu.
∗Đơn giá bình quân liên hoàn (hay đơn gía bình quân sau mỗi lần
nhập ):
Sau mỗi lần nhập, kế toán xác định đơn giá bình quân cho từng đầu tên
nguyên vật liệu như sau:
Đơn giá
bình
quân
=
Lượng tồn
trước khi nhập x
đơn giá bình quân
trước khi nhập
+
Trị giá thực tế
NVL nhập kho
Lượng tồn trước khi nhập
+
Lượng nhập
Thực tế
Ngay khi nghiệp vụ xuất phát sinh, đơn giá bình quân lần nhập cuối
cùng trước khi xuất được dùng làm đơn gía để tính ra trị giá thực tế nguyên
vật liệu xuất kho. Cách tính này khắc phục được nhược điểm của hai cách tính
trên, vừa đảm bảo tính kịp thời của số liệu kế toán vừa phản ánh được sự biến
động về gía nhưng khối lượng tính toán lớn vì sau mỗi lần nhập, kế toán phải
tính giá một lần.
Nhìn chung, dù là tính đơn gía bình quân theo cách nào thì phương pháp
gía thực tế bình quân cũng mắc phải một hạn chế lớn là giá cả đều có xu
hướng bình quân hoá. Do vậy, chi phí hiện hành và chi phí thay thế của nguyên
vật liệu tồn kho có xu hướng san bằng cho nhau không phản ánh được thực tế
ở thời điểm lập báo cáo.
Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên cơ sở giá mua
thực tế cuối kỳ.
Theo phương pháp này, giá thực tế xuất kho chỉ được xác định vào cuối
kỳ và cách tính lần lượt như sau:
Đầu tiên kế toán xác định trị giá nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ trên cơ
sở giá mua của lần nhập cuối cùng trong kỳ :
Trị giá NVL thực
tồn cuối kỳ
=
Số lượng NVL
thực tồn cuối kỳ
x
Đơn giá lần
mua cuối cùng
` Từ đó tính ra trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho trong kỳ
Trị giá NVL xuất
kho trong kỳ
=
Trị giá NVL
nhập trong kỳ
+(-)
Chênh lệch trị giá t.tế
NVL tồn đầu và cuối kỳ
Vì giá trị nguyên vật liệu xuất kho chỉ được tính vào cuối kỳ nên không
cung cấp số liệu kịp thời sau mỗi lần nhập. Phương pháp này phù hợp với
những doanh nghiệp có nhiều chủng loại nguyên vật liệu, nhiều mẫu mã khác
nhau, giá trị thấp nhưng lại xuất dùng thường xuyên không có điều kiện để
kiểm kê liên tục.
2.2. Đánh giá nguyên vật liệu theo giá hạch toán
Các phương pháp định giá nêu trên trong thực tế chỉ thích hợp cho các
doanh nghiệp nhỏ hoặc các doanh nghiệp có ứng dụng máy vi tính trong công
tác kế toán. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có nhiều chủng loại
nguyên vật liệu, các nghiệp vụ nhập, xuất diễn ra liên tục kèm theo sự biến
động không ngừng của giá cả, việc tính toán, ghi chép và phản ánh theo giá
thực tế là khó khăn, phức tạp nhiều khi không thể thực hiện được. Vì thế để
đơn giản hơn cho công tác kế toán , doanh nghiệp tự đặt ra cho mình một loại
gía, gọi là giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp quy định, có tính chất ổn định và
chỉ dùng để ghi sổ kế toán nguyên vật liệu hàng ngày chứ không có ý nghĩa
trong việc thanh toán, giao dịch với bên ngoài và trên các báo cáo tài chính.Giá
hạch toán có thể là giá kế hoạch hoặc giá tạm tính được quy định thống nhất
trong ít nhất một kỳ hạch toán. Cuối kỳ, kế toán điều chỉnh giá hạch toán trên
sổ chi tiết nguyên vật liệu theo giá thực tế sau đó ghi vào các tài khoản, sổ kế
toán tổng hợp và báo cáo kế toán.Việc điều chỉnh gía hạch toán theo giá thực
tế tiến hành theo hai bước sau:
♦Bước 1: Xác định hệ số giữa giá hạch toán và giá thực tế
Hệ số
chênh
lệch (H)
=
Trị giá t.tế NVL tồn đ.kỳ+Trị giá t.tế NVL nhập t.kỳ
Trị giá HT NVL tồn đ.kỳ+Trị gía HT NVL nhập t.kỳ
♦Bước 2: Tính giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho dựa vào giá hạch
toán xuất kho và hệ số giá vừa tính được
Trị giá thực tế NVL xuất kho = Trị giá hạch toán NVL xuất kho x H
Trong quá trình sản xuất tuỳ thuộc vào đặc điểm của nguyên vật liệu,
yêu cầu và trình độ quản trị của doanh nghiệp mà hệ số chênh lệch của nguyên
vật liệu có thể tính riêng cho từng thứ, từng nhóm hoặc từng loại nguyên vật
liệu .
Để sử dụng phương pháp giá hạch toán trong xác định trị giá thực tế
nguyên vật liệu xuất kho , kế toán phải lập bảng kê số 3 với hình thức sổ kế
toán Nhật ký – Chứng từ theo mẫu sau:
bảng tính giá thực tế vật liệu
Ngày … tháng … năm …
stt Chỉ tiêu
TK 152
Nguyên liệu, vật liệu
HT TT
1
2
3
4
Giá trị NVL tồn đầu kỳ
Giá trị NVL nhập trong kỳ
Cộng số dư đầu kỳ và nhập trong kỳ
Chênh lệch giữa giá TT và giá HT
5
6
Hệ số chênh lệch
Giá trị NVL xuất dùng trong kỳ
7 Giá trị NVL tồn cuối kỳ
Mỗi một phương pháp tính giá nguyên vật liệu có nội dung, ưu nhược
điểm và điều kiện áp dụng phù hợp nhất định. Doanh nghiệp phải căn cứ vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý và trình độ cán bộ kế toán để
lựa chọn và đăng ký một phương pháp tính phù hợp.Phương pháp tính giá đã
đăng ký phải được sử dụng nhất quán trong niên độ kế toán. Khi muốn thay
đổi phải giải trình và đăng ký lại đồng thời phải được thể hiện công khai trên
báo cáo tài chính. Nhờ vậy có thể kiểm tra, đánh giá chính xác kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
III. Kế toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất
1. Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu
Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu là việc ghi chép sự biến động về mặt giá trị
của nguyên vật liệu trên các sổ kế toán tổng hợp. Tuỳ vào tình hình thực tế mà
có thể lựa chọn một trong hai phương pháp kế toán tổng hợp sau:
1.1. Hạch toán nguyên vật liệu theo phương pháp kiểm kê thường xuyên
Hạch toán tổng hợp nguyên vật liệu theo phương pháp kê khai thường
xuyên là phương pháp ghi chép, phản ánh thường xuyên, liên tục và có hệ
thống tình hình nhập, xuất kho các loại vật liệu trên các tài khoản và sổ kế toán
tổng hợp trên cơ sở các chứng từ nhập, xuất vật liệu. Với phương pháp hạch
toán này, kế toán có thể cung cấp số liệu về tình hình nhập, xuất, tồn kho của
nguyên vật liệu tại bất kỳ thời điểm nào
1.1.1.Hạch toán ban đầu
Một nguyên tắc bắt buộc của kế toán là chỉ khi nào có đầy đủ bằng
chứng chứng minh nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh và thực sự hoàn thành, kế
toán mới được ghi chép và phản ánh. Các bằng chứng đó là các loại hoá đơn,
chứng từ có thể do doanh nghiệp lập hay bên ngoài doanh nghiệp lập, là chứng
từ bắt buộc hay hướng dẫn nhưng phải đảm bảo tính hợp lý, hợp lệ. Có nghĩa
là phải được lập theo đúng chế độ quy định cả về nội dung, số lượng cũng như
trình tự luân chuyển. Trong hạch toán nguyên vật liệu , doanh nghiệp cần sử
dụng các chứng từ chủ yếu sau đây:
-Phiếu nhập kho: Phiếu này do bộ phận cung ứng lập (Theo mẫu 01-VT)
trên cơ sở hoá đơn, giấy báo nhận hàng và biên bản kiểm nghiệm. Đây là loại
chứng từ bắt buộc gồm hai liên( nếu NVL do mua ngoài) hoặc 3 liên( nêu NVL
do gia công, chế biến)
Liên 1 : giữ lại ở bộ phận cung ứng
Liên 2: giao cho thủ kho để ghi thẻ kho rồi chuyển lên cho kế toán ghi sổ
Liên 3 (nếu có): người lập giữ
-Biên bản kiểm nghiêm vật tư (Mẫu 05-VT): đối với loại chứng từ này,
doanh nghiệp sẽ tuỳ đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý để lập
theo kết cấu phù hợp nhất. Biên bản được lập vào lúc hàng về đến doanh