Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ KẾ TOÁN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.59 KB, 44 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ KẾ
TOÁN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NHTM.
Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các loại hoạt động có liên quan.
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế của đất nước.
1.1.1. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.1. Ngân hàng là nơi cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế.
Vốn có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Bất kì doanh nghiệp nào
muốn hoạt động kinh doanh đều phải có vốn. Tuy nhiên không phải lúc nào mỗi
doanh nghiệp cũng đều có nguồn vốn đáp ứng cho hoạt động kinh doanh, có doanh
nghiệp thừa vốn, có doanh nghiệp lại thiếu vốn. Vì vậy để giải quyết vấn đề trên,
NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ
chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: Vốn tạm thời nhàn rỗi từ quá trình sản
xuất của các doanh nghiệp, vốn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn
vốn huy động được từ nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM sẽ cung
cấp vốn cho mọi hoạt động và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá
trình tái sản xuất. Nhờ hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín
dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công
nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.1.2. Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng cải tiến máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng
quy mô sản xuất một cách thích hợp…để sản xuất ra những mặt hàng có sức cạnh
tranh cao không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Tuy
nhiên, những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi
vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này
doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư


của mình. Thông qua hoạt động tín dụng,ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các
doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho
doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt
của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho
doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh.
1.1.1.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hoạt động của các ngân hàng có liên quan đến hầu hết các hoạt động kinh tế -
xã hội. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách
có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công
cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua
việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn
dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một
cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: ”Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.1.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Để thúc đẩy nền kinh tế quốc gia ngày càng phát triển thì vấn đề giao lưu, mở
rộng mối quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước phát triển là rất quan trọng. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn
liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự
phát triển đó. Vì vậy nền tài chính quốc gia phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế
và NHTM cùng với các hoạt động của mình đã đóng vai trò là cấu nối quan trọng
này. Với các nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, hối đoái và các
nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát
triển. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng
với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò
điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc
tế.
1.1.2. Chức năng của NHTM.

1.1.2.1. Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội.
Thực hiện chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh
nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền
và chi tiền của họ.
Ngân hàng sử dụng khoản tiền của khách hàng để cho vay và trả cho khách
hàng khoản lợi tức tiền gửi.
Như vậy, chức năng này vừa đem lại lợi ích cho ngân hàng vừa đem lại lợi ích
cho khách hàng.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán.
Chức năng này được thể hiện thông qua việc ngân hàng thực hiện trích tài
khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ; nhập vào tài
khoản của khách hàng tiền thu từ bán hàng và các khoản thu khác theo yêu cầu của
họ.
Chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh tế: Góp phần
tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn cho phép khách
hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, đặc biệt nó còn làm tăng uy
tín cho ngân hàng, tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
1.1.2.3. Chức năng làm trung gian tín dụng.
NHTM là tổ chức kinh tế kinh doanh hàng hóa đặc biệt - tiền tệ. Thông qua
việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên
quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế. Như vậy, ngân hàng đã
giúp người gửi tiền thu được một khoản lợi tức từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
mình, người vay tiền có nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng
thời ngân hàng cũng thu được một khoản lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho
vay và lãi suất huy động. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của
ngân hàng.
Sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán làm
cho hệ thống NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi. Từ một khoản tiền gửi ban
đầu, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã
tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu.

1.1.3. Nghiệp vụ của NHTM.
1.1.3.1. Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ.
Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng, bao gồm:
* Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng, vốn này chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lí bắt buộc khi thành lập ngân hàng
+ Vốn tự có bao gồm :
Vốn tự có là vốn pháp định – vốn điều lệ
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp
luật quy định, còn vốn điều lệ là vốn do cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ
hoạt động của ngân hàng và theo quy định phải bằng vốn pháp định.
Vốn tự có bổ sung : Bao gồm quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc
biệt để bù đắp rủi ro. Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi
nhuận chưa phân phối hoặc các quỹ đặc biệt khác như: Quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định…
* Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được làm vốn để kinh
doanh.
Ngân hàng có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu nguồn vốn này và có
trách nhiệm hoàn trả khi đến hạn ( tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút
vốn (tiền gửi không kỳ hạn)
Tuy nhiên, ngân hàng cũng không thể sử dụng hết nguồn vốn huy động này
mà phải duy trì một tỉ lệ nhất định (dự trữ bắt buộc, dự trữ đảm bảo khả năng thanh
toán) theo quy định của NHNN.
Vốn huy động bao gồm: Tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm, vốn phát hành giấy tờ có giá
* Vốn đi vay

Vốn đi vay là loại vốn mà NHTM đi vay NHNN hoặc các NHTM hay các
TCTD khác.
NHTM thực hiện đi vay vốn để bổ sung vốn hoạt động của mình khi ngân
hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động.
* Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo ra được gọi là
khoản vốn trong thanh toán: Vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi
séc bảo chi, các khoản tiền phong tỏa…
Trong nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể
trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho TCTD khác, nhận và
chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư.
Những khoản tiền trên được ngân hàng tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh
doanh của mình.
1.1.3.2. Nghiệp vụ thuộc tài sản có.
Nghiệp vụ thuộc tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM
Đây là nghiệp vụ nhằm đảm bảo hai mục tiêu là an toàn và sinh lời cho ngân
hàng, bao gồm:
Nghiệp vụ ngân quỹ: Khoản mục này bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại
ngân hàng khác, tiền gửi ở NHTW.
Các bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của NHTM, phần dự trữ này
không tạo ra lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài
chính cho ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng
truyền thống, bao gồm cho vay ngắn hạn: Chiết khấu thương phiếu, cho vay theo
hạn mức tín dụng, cho vay từng lần… và cho vay dài hạn: Cho vay theo dự án, cho
vay thuê mua…
Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng thực hiện đầu tư vào chứng khoán để đáp ứng
các mục tiêu của mình như: Tăng thu nhập, nâng cao khả năng thanh khoản, đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của mình.

1.1.3.3. Các nghiệp vụ khác.
Các dịch vụ ngân hàng: Các NHTM với chức năng vốn có thực hiện các dịch
vụ thanh toán, dịch vụ cho thuê két sắt,...
Nghiệp vụ ngoại bảng: Dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng, nghiệp vụ kinh
doanh ngoại hối, nghiệp vụ ủy thác và đại lý,…
1.2. Nội dung cơ bản về hoạt động huy động vốn của NHTM.
1.2.1. Tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn.
Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của NHTM, mặc dù đây
không phải là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng nó lại
quyết định đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Bởi vì với mức vốn điều lệ ban
đầu khi thành lập nó chỉ đủ để ngân hàng mua sắm, trang bị các tài sản cố định:
Trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ để ngân
hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như: Cấp tín dụng và các dịch vụ
khác, để có vốn phục vụ cho các hoạt động này, ngân hàng phải huy động vốn từ
khách hàng. Như vậy hoạt động huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với
ngân hàng cũng như đối với khách hàng.
1.2.1.1. Đối với NHTM.
Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực
hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác, không có nghiệp vụ huy động vốn, NHTM sẽ
không có đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình, nguồn vốn huy động sẽ
quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Mặt khác, thông
qua nghiệp vụ huy động vốn NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín
nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng từ đó NHTM có các biện pháp không
ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với
khách hàng. Có thể nói hoạt động huy động vốn góp phần giải quyết ”đầu vào” của
ngân hàng.
1.2.1.2. Đối với khách hàng.
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu
tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng
trong tương lai.

Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an
toàn để họ cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi.
Nghiệp vụ huy động vốn còn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ khác của ngân hàng: Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng
khi khách hàng có nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu
dùng.
1.2.2. Các nghiệp vụ huy động vốn của NHTM.
1.2.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi.
Tiền gửi thanh toán:
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách mở cho
khách hàng tài khoản gọi là “tài khoản tiền gửi thanh toán”. Tài khoản này mở cho
đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua
ngân hàng. Tuy nhiên không phải lúc nào mọi người cũng huy động số dư tiền gửi
thanh toán của họ vào thanh toán, do đó ngân hàng có thể sử dụng cho hoạt động
của mình khi số dư này tạm thời nhàn rỗi.
Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi không kì hạn, khách hàng có thể rút ra bất
cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng nên ngân hàng không thể
chủ động trong việc sử dụng loại tiền này, do đó ngân hàng thường trả lãi cho loại
tiền gửi này rất thấp, thậm chí không trả lãi. Khách hàng thường duy trì số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán không nhiều chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả hàng ngày của họ.
Tiền gửi có kì hạn:
Tiền gửi có kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời
gian nhất định từ một vài tháng đến một vài năm. Mục đích của người gửi tiền là
lấy lãi và ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn này vì
thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự
thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn
của ngân hàng cũng như quan hệ về cung cầu vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên để
tạo tính lỏng cho loại tiền gửi này, hấp dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép
khách hàng được rút tiền trước thời hạn đổi lại khách hàng chỉ được hưởng mức lãi

suất thấp, thậm chí không được hưởng lãi.
Tiền gửi tiết kiệm:
Tiết kiệm không kì hạn: Là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của cá nhân gửi vào
ngân hàng nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoạch
sử dụng trong tương lai. Đối với loại tiền gửi này, khách hàng có thể rút ra bất cứ
lúc nào, tuy nhiên không được sử dụng để thực hiện các giao dịch thanh toán, chi
trả cho người khác
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: Khác với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, tiền gửi
tiết kiệm có kì hạn được cá nhân gửi vào ngân hàng vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và
thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Sử dụng loại tiền gửi này là
những cá nhân có mong muốn thu nhập ổn định và thường xuyên đáp ứng cho việc
chi tiêu hàng tháng và hàng quý. Vì vậy loại tiền gửi này có mức lãi suất cao hơn
loại tiền gửi không kì hạn.
Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền gửi theo đúng kì hạn đã cam kết,
không được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên để khuyến khích, thu hút khách
hàng gửi tiền, ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền gửi trước hạn đổi lại khách
hàng được hưởng mức lãi suất thấp hơn thường bằng mức lãi suất tiền gửi không kì
hạn, thậm chí không được hưởng lãi.
Các loại tiết kiệm khác: Ngoài 2 loại tiết kiệm trên, ngân hàng còn thiết kế
những loại tiền gửi khác như: Tiết kiệm tiện ích, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bậc
thang…với những nét đặc trưng nhằm đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu khác
nhau của khách hàng.
1.2.2.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành ra để huy động vốn
trên thị trường. Đây là nghiệp vụ tương đối ổn định và ngân hàng có thể chủ động
sử dụng với những mục đích đã định trước. Ngân hàng chỉ thực hiện huy động vốn
thông qua hình thức này khi vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ để đáp
ứng nhu cầu sử dụng đã định. Tùy vào mục đích cụ thể ngân hàng sẽ xác định khối
lượng huy động, thời hạn huy động, phương pháp huy động và mức lãi suất huy
động hợp lý.

- Huy động vốn ngắn hạn: Để huy động vốn ngắn hạn, ngân hàng có thể phát
hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là những giấy tờ có giá có
thời hạn dưới 12 tháng: Kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
- Huy động vốn trung và dài hạn: Muốn huy động vốn trung và dài hạn,
NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá trung và dài hạn. Giấy tờ có giá trung và dài
hạn là những giấy tờ có giá có thời hạn trên 12 tháng: Trái phiếu, cổ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi dài hạn,…
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM.
1.2.3.1. Nhân tố khách quan.
* Kinh tế: Các yếu tố kinh tế có tác động lớn đến hoạt động huy động vốn của
NHTM như: Thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ
thất nghiệp,…
Các yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu và cách thức sử dụng
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Do đó nó chi phối đến công tác huy động vốn và
khả năng thỏa mãn nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
Khi nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn tăng trưởng, tình hình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp tốt, các doanh nghiệp sẽ cần nhiều vốn hơn để
đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của mình, từ đó thúc đẩy các ngân
hàng tăng cường hoạt động huy động vốn. Nền kinh tế tăng trưởng còn làm tăng
thu nhập của người dân kéo theo nhu cầu tiết kiệm lớn tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
* Chính trị, pháp luật, chính sách của chính phủ:
Hoạt động huy động vốn cũng như bất kì hoạt động kinh doanh nào khác đều
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các ngân hàng phải tuân theo các quy định
của pháp luật về huy động vốn như: Tỉ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định
về các điều kiện phát hành GTCG, quy định về mức lãi suất huy động phải trong
biên độ nhất định,…Những quy định trên nhằm đảm bảo cho sự ổn định và an toàn
trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó các chính sách về tài chính tiền tệ, giá cả, chính sách khuyến

khích đầu tư phát triển kinh tế, xã hội,…trong từng thời kì cũng có ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động của NHTM nói chung và công tác huy động vốn nói riêng.
Sự ổn định về chính trị cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy việc tạo vốn. Một
đất nước có nền chính trị ổn định sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh tốt cho các
nhà đầu tư, tạo dựng sự an tâm cho dân chúng khi gửi tiền vào ngân hàng.
* Văn hóa - xã hội: Trình độ văn hóa, phong tục, tập quán,…của từng vùng,
từng địa phương, từng dân tộc,.. có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và nhu cầu sử
dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân
đã hạn chế sự phát triển của loại hình thanh toán không dùng tiền mặt. Sự không
tin tưởng vào ngân hàng đã dẫn đến việc người dân không gửi tiền vào ngân hàng
mà cất trữ dưới dạng tiền mặt, vàng bạc đá quý. Tất cả những hành vi trên đã làm
giảm hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
* Công nghệ: Sự thay đổi về công nghệ có tác động rất mạnh mẽ đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Công nghệ mới cho phép ngân hàng phát triển và
ứng dụng các trang thiết bị hiện đại đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của khách
hàng. Hiện nay với việc sử dụng dịch vụ chuyển tiền nhanh, lắp đặt ngày càng
nhiều máy rút tiền tự động (ATM), sử dụng dịch vụ ngân hàng tự động, internet
banking, mobile banking,…đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh
cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan.
* Trình độ nghiệp vụ và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng:
Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng là nhân tố quan trọng và trực tiếp thực
hiện các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng được quyết định rất lớn bởi họ.
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao sẽ giúp cho mọi giao dịch được
thực hiện nhanh chóng và hiệu quả, từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng sản
xuất kinh doanh, thu hút khách hàng.
Là bộ mặt của ngân hàng, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng quyết định
đến quy mô tiền gửi.
Nếu ngân hàng hoạt động tốt, có uy tín, nhân viên ngân hàng luôn cởi mở,

nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến gửi tiền sẽ thu hút được
nhiều khách hàng và từ đó giúp ngân hàng huy động được nhiều vốn hơn.

×