Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.35 KB, 34 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
1.1.1. Một số các vấn đề liên quan.
1.1.1.1. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống
tài chính
1
quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem
như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng thương mại là các mao mạch
chính. Hoạt động của các ngân hàng thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn
biến của thị trường tiền tệ
2
nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt
động của hệ thống các ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính
sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong
của nền kinh tế kinh tế quốc gia đó.
Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên hoàn toàn khác với các loại hình
doanh nghiệp thông thường khác, các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của một hệ
thống pháp luật chuyên ngành
3
với những nguyên tắc điều chỉnh hết sức khắc khe. Vậy nguyên
nhân nào tạo nên yêu cầu khác biệt đó? Có thể lí giải từ nhiều góc độ: vị trí, vai trò của các
ngân hàng thương mại, yêu cầu an toàn cho nền kinh tế, tính chất rủi ro trong bản chất hoạt
động của loại hình doanh nghiệp này,… Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, các đặc
tính trên đều xuất phát từ một yếu tố duy nhất, đó là đối tượng kinh doanh của loại hình doanh
nghiệp này: tiền tệ.
Theo khoản 1 điều 9 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam
4
“Tiền tệ là phương tiện thanh
toán, bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá như tiền”. Xuất phát từ bản chất


của tiền tệ là loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lí của
nó mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó. Tiền tệ, hiều theo nghĩa
hẹp là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một
1 Thị trường tài chính (financial market) được đề cập trong đề tài này có thể được định nghĩa: là thị trường giao
dịch về các loại tài sản tài chính, vốn tài chính và các sản phẩm tài chính hay công cụ biểu thị vốn phát sinh
theo từng phương thức giao dịch trên thị trường thị trường tài chính được hình thành và phát triển trong một nền
kinh tế đều dựa trên hai cơ sở chủ yếu là nhu cầu giao lưu vốn cùng với sự xuất hiện các công cụ vốn. Thị
trường tài chính được hợp thành bởi thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Gs.Ts Lê Văn Tư, Pgs.Ts Phạm Văn
Năng, Thị Trường Tài Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003)
2 Thị trường tiền tệ (money market) là thị trường nơi các công cụ nợ ngắn hạn (thường dưới một năm) được
mua bán với số lượng lớn. Các công cụ nợ ngắn hạn lưu hành trên thị trường tiền tệ thường do nhà nước, các
ngân hàng và các doanh nghiệp lớn phát hành, đặc biệt là có tính thanh khoản cao, và rủi ro không thanh toán
thấp. (Gs.Ts Lê Văn Tư, Pgs.Ts Phạm Văn Năng, Thị Trường Tài Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003)
3 Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997 (sắp được thay thế bới Luật Các tổ chức tín
dụng mới vào cuối năm 2009 – trong quá trình phân tích các vấn đề liên quan đến các quy định của pháp luật,
tác giả cũng sẽ phân tích các quy định mới của dự thảo luật này); Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 12/09/200 về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại.
4 Đã được sửa đổi bổ sung.
quốc gia hay nền kinh tế, chính vì vậy, tiền tệ còn được gọi là “tiền lưu thông”. Từ góc độ này,
tiền tệ có thể mang hình thức là tiền giấy hoặc tiền kim loại do nhà nước (Ngân hàng trung
ương, bộ tài chính,…) phát hành. Tuy nhiên, theo định nghĩa của Luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam như được nêu trên và cả nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính đều sử dụng thuật ngữ
tiền tệ theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Tiền tệ lúc này bao gồm tiền (tiền tệ theo nghĩa hẹp) và
những loại hình có thể thay thế tiền mặt, chúng còn có tên gọi khác là “near-money” _ công cụ
được coi như tiền là các chứng khoán
5
, bản thân chúng không được gọi là tiền nhưng có thể
chuyển thành tiền một cách dễ dàng. Để tiền mặt thật sử trở thành tiền tệ, hay nói cách khác
muốn nó trở thành một loại hàng hóa có khả năng sinh lợi, các ngân hàng chính là những đầu
mối quan trọng để thực hiện chu trình chuyển đổi này. Về cơ bản có thể, có thể diễn đạt cách

ngắn gọn như sau, để biến tiềm mặt thành tiền tệ, người ta phải đem tiền mặt đi đổi dưới các
hình thức như mua, kí gởi, cho vay…, và như vậy, nó tạo ra lãi suất (giá của hàng hóa tiền tệ)
mà tiền mặt không làm được. Và có thể nói đây là phương thức hình thành nguồn vốn quan
trọng nhất của các ngân hàng thương mại, đó chính là bản chất kinh tế cơ bản của hoạt động
ngân hàng nói riêng và toàn thị trường tài chính nói chung. Nó chính là khởi phát của hoạt
động huy động vốn hiểu dưới góc độ kinh tế sơ khai trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại.
Hệ thống tiền tệ hiện nay (các hệ thống tài chính phát triển)
6
CUNG
ỨNG TIỀN
THÀNH PHẦN CỦA NÓ
M
1
A
- Tiền mặt của nhà nước
- Tiền gửi không kì hạn
M
1
B
- M1A
- Tiền gửi trong các tài khoản dùng séc
M
2
- M1B
- Các khoản gửi tiết kiệm
- Các khoản gửi có kì hạn (ngắn)
- Đơn vị nhỏ của tiền gửi có kì hạn (small-denomiation time
deposit – CDs)
- Trái phiếu ngắn hạn được mua lại của ngân hàng thương mại

(overnight REPOs)
- Euro đôla nhỏ
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ (money
market fund deposits)
- Tài khoản gửi ở thị trường tiền tệ (money market deposit
accounts)
M
3
- M2
5 Vai trò đầu tiên của chứng khoán chính là các phương tiện huy động vốn, nhưng về sau khi hoạt động kinh
doanh tiền tệ phát triển, nó trở thành hàng hóa kinh doanh quan trọng trên thị trường chứng khoán.
6 Pts Lê Vinh Danh, “Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát
triển”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 1997, trang 31.
- Đơn vị lớn của tiền gửi có kì hạn (large-denomination time
deposit jumpo)
- Trái phiều dài hạn được mau lại của ngân hàng thương mại và
các hệ thống tài chính khác (RPs)
- Euro đôla lớn
L
- Trái phiếu (khoa bạc – công ty – đô thị)
- Cổ phiếu (kho bạc – công ty –đô thị)
- Trái phiếu tiết kiệm (saving bonds)
- Thương phiếu (commercial paper)
1.1.1.2. Vốn trong hoạt động của ngân hàng:
• Bản chất của nguồn vốn.
Vốn trong kinh tế học là một phạm trù tương đối phức tạp và khó tìm được một định nghĩa
thống nhất giữa các quan điểm từ trước đến nay. Trong tác phẩm Tư bản luận của mình, Các
Mác đã khái quát phạm trù vốn thành phạm trù cơ bản. Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang
lai giá trị thặng dư. Định nghĩa này thể hiện đầy đủ bản chất của vốn: 1) vốn phải đại diện cho
một loại tài sản nhất định nào đó; 2) vốn phải luôn luôn vận động, luôn luôn sinh lời trong quá

trình vận động; 3) vốn là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa khác, nó có chủ
đích thực. Nói ngắn gọn, vốn là một bộ phận của cãi được dùng vào sản xuất để làm ra của cãi
nhiều hơn.
Xuất phát từ vai trò trên, vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói
chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để
vận hành và phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh thường xuyên đòi hỏi phải không
ngừng được bổ sung một số lượng vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở
rộng, về thanh toán, về dự trữ,… phát sinh ở mọi thời điểm. Trong cơ chế thị trường, lượng
vốn kinh doanh biểu hiện thế lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối
với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy mà thị trường tài
chính mà trong đó đóng vai trò chủ chốt là các ngân hàng thương mại luôn có mối quan hệ
khắng khít cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là nguồn huyết mạch cung cấp cho doanh
nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển. Đây là căn nguyên làm cho các ngân hàng thương mại
trở thành một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Khởi phát nguyên thủy của việc hình thành các ngân hàng thương mại không phải là nhu
cầu về vốn mà là nhu cầu về cất giữ tài sản, tuy nhiên, các dịch vụ ngân hàng sơ khai không
đơn thuần là “hệ quả phái sinh” từ việc một số chủ thể (tiền thân của các ngân hàng – các tổ
chức tín dụng thời sơ khai) nắm giữ một lượng tư bản khổng lồ mà nguyên nhân trực tiếp của
hiện tượng này theo quan niệm của tác giả là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, nhu cầu về
những nguồn vốn với sự đa dạng về thời hạn và quy mô.
Quay trở lại với vấn đề nguồn vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương
mại cũng là một loại hình doanh nghiệp, nguồn vốn cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối
với nó tương tự như đối với các doanh nghiệp khác, tuy nhiên, vốn đối với các ngân hàng
không đơn thuần chỉ là phục vụ cho nhu cầu mua nguyên vật liệu hay thực hiện các thanh toán
chi trả mà nó là đối tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng, nó là “hàng hóa”, là phương tiện
hoạt động của các ngân hàng. Chính vì thế, khác với các loại hình doanh nghiệp khác, nhu cầu
về vốn của các ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung là rất lớn và có thể nói là
không hạn chế về lượng. Xuất phát từ tính chất đó, loại doanh nghiệp đặc biệt này chủ yếu dựa
vào nguồn vốn vay mượn, phần lớn bắt nguồn từ hoạt động bán các trái quyền tiền gửi cho các
doanh nghiệp, cá nhân… để cung ứng dịch vụ tín dụng và các dịch vụ khác. Chính nguồn vốn

vay mượn này, chứ không phải vốn sở hữu, đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt
động của ngân hàng. Trong giai đoạn đầu của hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thường
không chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mà thường phụ thuộc vào người gửi tiền.
Nhưng kinh tế càng phát triển, các ngân hàng phát hiện ra rằng, nguồn vốn truyền thống theo
định hướng tiền gửi không đủ đáp ứng mức cầu tín dụng đang gia tăng của các khách hàng
doanh nghiệp và gia đình. Để thảo mãn nhu cầu tín dụng gia tăng của giới doanh nghiệp và cá
nhân cần phải có những nguồn vốn mới: vay trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ giúp các ngân hàng có đầu óc đổi mới phát triển nguồn vốn quan trọng
và dồi dào có thể vay mượn cấp thời (vài phút hoặc vài giờ) bằng cách thông qua bất cứ công
cụ nào của thị trường tiền tệ (như các chứng chỉ tiền gửi, vay dự trữ, bán lại thương phiếu, …).
Nguồn vốn vay trên thị trường tiền tệ làm cho tính chất của các nguồn vốn của các ngân hàng
thêm phong phú, hiện nay người ta phân biệt hai loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
nguồn vốn thụ động và nguồn vốn đi mua. Đối với các ngân hàng, nguồn vốn tiền gửi chủ
yếu là các nguồn vốn thụ động. Ngân hàng không phải van nài khách hàng, mà khách hàng chủ
động đến gửi tiền vì muốn có những tiện ích hay các dịch vụ khác được ngân hàng cung ứng
(chủ yếu là an toàn và lãi suất). Ngược lại, vay vốn trên thị trường tiền tệ là nguồn vốn phải đi
mua. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này phải tích cực tìm kiếm bất kì nguồn vốn khả dụng nào
và trả mức giá ít nhất ngang bằng lãi suất thị trường hiện hành để bảo đảm nhu cầu sử dụng
cảu mình. Nét đặc thù của tất cả các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ là tính nhạy cảm với giá
cả
7
của chúng. Các ngân hàng muốn tiếp cận nguồn vốn này cần cung cấp mức lãi suất cạnh
tranh, thậm chí trong một số trường hợp, ngân hàng có thể tạm thời nâng cao mức lãi suất huy
động so với lãi suất thị trường hiện hành cho đến khi đủ vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của nó.
Tóm lại, vốn ngân hàng có thể được hiểu là những giá trị tiền tệ ngân hàng tự có, huy động
và tạo lập được để thực hiện cho vay, đầu tư và thực hiện các dich vụ ngân hàng. Việc tạo lập
và huy động vốn hình thành nên các khoản mục bên tài sản nợ của bảng cân đối tài sản của
ngân hàng thương mại. Việc sử dụng vốn để cho vay, đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng
hình thành nên các khoản mục bên tài sản có của bảng cân đối tài sản ngân hàng thương mại.
• Phân loại nguồn vốn.

Về cơ bản nguồn vốn của ngân hàng có thể được phân loại thành các dạng cơ bản sau:
7 Lãi suất là giá cả của việc mua và bán quyền sử dụng vốn hay nói cách khác lãi suất chính là giá cả của tiền,
nhưng giá cả bày chỉ có thể xuất hiện khi diễn ra các quan hệ tín dụng và do vậy, người ta còn gọi là giá cả của
tín dụng.
VỐN TỰ CÓ
(vốn chủ sở hữu)
VỐN HUY ĐỘNG VỐN ĐI VAY
CÁC NGUỒN VỐN
KHÁC
Khái niệm
Là nguồn vốn do NHTM
tự tạo lập ra, thuộc sở hữu
riêng có của NHTM.
Là những giá trị tiền tệ
mà ngân hàng huy động
được từ công chúng
thông qua việc bán các
sản phẩm dịch vụ cho
khách hàng (là vốn do
NHTM tạo lập ra thông
qua việc thu hút tiền gửi
và phát hành giấy tờ có
giá).
Là nguồn vốn mà
NHTM có được dựa
trên mối quan hệ vay
mượn trên thị trường
liên ngân hàng, dựa
trên các quỹ cho vay
đã được thiết lập.

Là nguồn vốn hình
thành trong quá trình
cung cấp dịch vụ ngân
hàng cho khách hàng.
Đặc điểm
-Chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng (khoảng 5 -
10%) nhưng lại có tính
chất Quyết định đến sự
hình thành và tồn tại của
ngân hàng
-Nguồn vốn này mang tính
ổn định cao (vì nó thuộc sở
hữu của NHTM và NHTM
không có nghĩa vụ phải
hoàn trả)
-Không thuộc sở hữu của
NHTM.
-Có tính biến động cao,
không ổn định (cần phải
dự trữ)
-Chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn
của NHTM.
-Là loại nguồn vốn đa
dạng về: Nguồn gốc hình
thành, Thời hạn các
khoản huy động, Giá trị
các khoản huy động,

Loại tiền huy động.
-Không thuộc sở hữu
của ngân hàng.
-Chiếm tỷ trọng ko
lớn (ko quá lệ thuộc
vào nguồn vốn này để
kinh doanh)
-Độ ổn định cao hơn
nguồn vốn huy động.
-Chi phí cao, lãi suất
nhạy cảm với sự thay
đổi của lãi suất thị
trường.
-Thời hạn rất ngắn
(ngày, tuần).
-Không thuộc sở hữu
của NHTM.
-Quy mô nhỏ.
-Chi phí ko cao.
-Độ ổn định thấp.
Vai trò
-Bảo đảm an toàn cho hoạt
động của NHTM
-Vốn tự có với vai trò hoạt
động: mua sắm tài sản cố
định, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, tạo điều kiện
tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
-Vốn tự có góp phần điều

chỉnh mọi hoạt động kinh
doanh của ngân hàng (quy
mô, giá trị tài sản cố định,
cơ cấu tài sản,…)
Là nguồn vốn chủ yếu
của các ngân hàng
thương mại, đáp ứng hầu
hết các nhu cầu về hoạt
động tín dụng của các
ngân hàng này.
Có vai trò đặc biệt đối
với việc kinh doanh
của NHTM (giải
quyết nhanh nhu cầu,
với khối lượng lớn).
Phục vụ cho các hoạt
động của ngân hàng
thương mại như các
ngồn vốn khác.
Thành
phần
Thành phần của vốn tự
có: gồm vốn tự có cấp 1
(vốn cơ bản) và vốn tự có
cấp 2 (vốn bổ sung).
Gồm có 2 phương thức
huy động là: huy động
tiền gửi và huy động
thông qua phát hành giấy
tờ có giá.

Vay NHTW
Vay các NHTM
-Nguồn vốn nhận tài
trợ ủy thác đầu tư.
-Nguồn vốn trong
thanh toán.
-Nguồn vốn khác: vay
nước ngoài, vay công
ty mẹ (nếu có), …
Cơ cấu nguồn vốn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam
(Thống kê ở mức độ tương đối)
1.1.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động của các ngân hàng
thương mại.
Như đã được trình bày ở trên, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của
nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ Quyết định đến quy mô, thế lực
và khả năng mỏ rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế, có thể khái quát hóa
các vai trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại dưới một vài
các khía cạnh sau:
• Vốn là cơ sở của hoạt động ngân hàng: NHTM muốn hoạt động kinh doanh được
thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để Quyết định khả năng kinh
doanh.
• Để có giấy phép thành lập thì NHTM phải có vốn pháp định.
• Để thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình thì NHTM cần phải thường
xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt hoạt động kinh doanh của
mình.
• …
• Vốn của NHTM Quyết định đến quy mô và khả năng mở rộng hoạt động kinh
doanh của NHTM:
• Quy mô của NHTM thể hiện ở Tổng tài sản (tiền, chứng khoán, quy mô cho vay,
tài sản cố định, …), nếu nguồn vốn lớn  tài sản lớn.

• Phạm vi: nếu nguồn vốn lớn thì có thể mở rộng hệ thống chi nhánh tại các địa
phương  địa bàn hoạt động rộng.
• Khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh: nếu nguồn vốn lớn thì có khả năng
cung cấp nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ  đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, …
• Vốn của NHTM Quyết định đến khả năng thanh toán của NHTM đó. Điều này
thể hiện như sau:
• Nếu nguồn vốn lớn  dự trữ thực tế lớn  tạo điều kiện cho NHTM có thể tập
trung vốn, ứng phó kịp thời với trường hợp khách hàng rút tiền lớn hơn so với dự
kiến ban đầu.
• Nếu nguồn vốn lớn  NHTM có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư (đầu tư trên
thị trường chứng khoán: dự trữ thứ cấp)  tạo điều kiện phân tán rủi ro 
NHTM có điều kiện kinh doanh an toàn hơn.
• Nếu nguồn vốn lớn  NHTM sẽ có uy tín cao trên thị trường  khi NHTM
thiếu hụt trong thanh toán thì có điều kiện thuận lợi trong việc vay mượn và bù
đắp kịp thời thiếu hụt trong thanh khoản, …
• Nếu nguồn vốn lớn, NHTM thường được sự trợ giúp từ phía Chính phủ vì nếu
những NHTM lớn mà sụp đổ thì sẽ ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tiền tệ quốc
gia và nền kinh tế.
• Vốn của NHTM Quyết định tới khả năng cạnh tranh của NHTM đó. Nếu có
nguồn vốn lớn thì NHTM sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh, điều này thể hiện
như sau:
Cạnh tranh về giá:
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM tạo dựng được lợi thế nhờ quy mô  do đó giảm
được chi phí bình quân  có điều kiện cạnh tranh về giá.
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giao dịch với khách hàng lớn  giá trị
giao dịch lớn  chi phí giao dịch bình quân cho 1 hợp đồng thấp  giảm được
chi phí bình quân  cạnh tranh về giá.
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh 
có điều kiện giảm chi phí bù đắp rủi ro.
Cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ:

• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng
dụng những công nghệ mới.
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng khách hàng, …
Thông qua hệ thống các vai trò mang đậm chất kinh tế của nguồn vốn ngân hàng thương
mại ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với sự tồn tại và phát
triển của một ngân hàng thương mại như thế nào. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu của nguồn vốn
này, có thể nhận thấy vai trò của các nguồn vốn là hoàn toàn không giống nhau và mang đặc
tính khá khác nhau và đặc biệt trong một số trường hợp việc huy động các nguồn vốn này chi
phí lợi nhuận bị tạm thời bỏ qua (lợi nhuận âm) và xuất hiện các chủ thể đặc biệt. Mặt khác,
việc sử dụng các nguồn vốn này bị ràng buộc khá chặc chẽ bởi các quy định pháp luật. Nguyên
nhân sâu xa của hiện tượng này như được trình bày ở trên chính là xuất phát từ việc đối tượng
kinh doanh của các ngân hàng thương mại chính là loại hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Lí giải một
cách đơn giản và thực tế hơn đó chính là xuất phát từ vai trò của hệ thống các ngân hàng
thương mại trong hệ thống tài chính và nền kinh tế quốc gia, nó là huyết mạch, là đầu tàu nơi
các chính sách kinh tế được triển khai nhằm vận hành nền kinh tế theo những chiến lược được
định ra từ chính phủ. Vì vậy, khác với các doanh nghiệp thông thường khác, ngoài vai trò kinh
tế, nguồn vốn trong các ngân hàng thương mại còn đóng những vai trò khác khá quan trọng
được thiết lập từ các quy định của pháp luật. Những nhiệm vụ đó có thể được khái quát như
sau:
Đối với nguồn vốn tự có: Khoản 13 Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định: “Vốn tự
có gồm có giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác của tổ chức tín
dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước. vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”. Vốn điều lệ và vốn pháp định cũng là những thể
hiện của nguồn vốn này.
Vốn pháp định theo quy định của khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp “là mức vốn tối thiểu
phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 4
của Luật Doanh nghiệp 2005: “Vốn điều lệ là vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam
kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty.”

Vì vậy, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại thực tế phải luôn lớn hơn hoặc bằng vốn
pháp định. Có thể nói vốn pháp định là nguồn vốn có vai trò tiên quyết đối với sự hình thành
và tồn tại của các ngân hàng thương mại
8
, theo quy định của Quyết định số 24/2007/QĐ-
8 Trước đây, mức vốn điều lệ tối thiểu để xin cấp giấy phép NHTMCP Nông thôn là 5 tỉ đồng và NHTMCP đô
thị là 70 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qua Quyết định số
24/2007/QĐ-NHNN những NH nào thành lập từ nay đến trước ngày 31.12.2008 phải có mức VĐL là 1.000 tỉ
đồng. Đối với các NH thành lập từ 31.12.2008 đến năm 2010, vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỉ đồng. Nguồn vốn
góp phải là nguồn hợp pháp; không được sử dụng tiền vay dưới bất cứ hình thức nào để góp vốn thành lập NH.
NHNN, đến năm 2010, nếu không đủ số vốn điều lệ theo quy định của Quyết định này, các
ngân hàng buộc phải sáp nhập hoặc phải tiến hành giải thể. Ngoài ra, nguồn vốn tựu có này
còn Quyết định rất lớn hoạt động và các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
9
Đối với nguồn vốn khác, phương thức điều chỉnh mang tính mềm mỏng hơn và thiên về
tính nghiệp vụ cũng hướng tới mục đích chính là đảm bảo an toàn của hệ thống tín dụng, đảm
bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng. Chẳng hạn, vận dụng nguyên tắc an toàn tín dụng,
các khản vốn được huy động ngắn hạn chỉ được dùng để cung cấp tín dụng ngắn hạn, điều 45
Luật Các tổ chức tín dụng quy định chỉ có tổ chức tín dụng là ngân hàng mới có quyền huy
động các nguồn vốn ngắn hạn này. Ngoài một số rất ít các quy định mang tính hành chính
mệnh lệnh này, để quản lí phương thức sử dụng các nguồn vốn này, nhà nước ta sử dụng các
phương pháp mềm dẻo và linh hoạt hơn phù hợp với xu thế phát triển của các nghiệp vụ tài
chính trên thế giới. một trong những ví dụ điển hình đó chính là các quy định về bảo hiểm tiền
gửi hay các quy định về dự trữ bắt buộc (các vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phấn sau).
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động huy động vốn.
1.1.3.1. Nguồn gốc hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong
hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động ngân hàng,
những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhắm mục đích đảm
bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các ngân hàng,

các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là
nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo
đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu
cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, ngân hàng là
người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò
của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay
10
.
Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ, ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền,
nếu trước đây, ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các
ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy
các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong hú và đa dạng hơn. Có thể
nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng và
liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại.
1.1.3.2. Khái niệm hoạt động huy động vốn.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các
ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi
9 Chẳng hạn, căn cứ vào quy mô của nguồn vốn tự có này, điều chỉnh quy mô hoạt động của ngân hàng thương
mại, cụ thể: (vốn tự có/ Σtài sản rủi ro) ≥ 8%.; điều chỉnh giá trị tài sản cố định mua sắm, cơ sỏ vật chất kĩ thuật:
tài sản cố định ≤(50% Vốn tự có cấp 1); điều chỉnh đối tượng khách hàng, điều chỉnh cơ cấu tài sản của ngân
hàng; điều chỉnh nghiệp vụ góp vốn mua cổ phiếu,…
10 Các nguồn tiền kí gửi hay còn gọi là các tài sản nợ của ngân hàng thương mại là nguồn vốn chủ yếu trong
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng trên thế giới tài sản nợ chiếm khoản từ 90% - 95% trên
tổng số nguồn vốn của các ngân hàng, đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, ti lệ này thấp hơn.
rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một
định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa
các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía
cạnh khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt là
ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí, khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối

với hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong
nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn
chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng
nhất của các ngân hàng thương mại, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ
thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.
Một cách không chính thức, dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với
riêng khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm
được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông
thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính ngân hàng
là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. chẳng hạn, nguồn vốn
được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy,
hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn
vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2 (một bộ phận
của nguồn vốn tự có) của ngân hàng thương mại.
11
Tuy nhiên, khi nhắc đến nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại, một số tài
liệu chuyên ngành đôi lúc cũng có cách tiếp cận hẹp hơn. Chẳng hạn, trong một số giáo tài liệu
giảng dạy của các trường khối kinh tế tài chính khi đề cập đến các hình thức của nghiệp vụ huy
động vốn thường chỉ bao gồm: Hình thức tiền gửi thanh toán, hình thức tiền gửi tiết kiệm,
chứng chỉ tiền gửi, các hình thức tiền gửi đặc biệt khác
12
. Có thể xem đây là một cách tiếp cận
thiên về tính kinh tế và mang nặng tính nghiệp vụ nhưng thiết nghĩ đôi lúc có khả năng gây
tâm lí thiên lệch đối với các chủ thể tiếp nhận. Vẫn biết rằng khi tiếp cận từ khía cạnh này,
quan điểm của nhà nghiên cứu đang cố nhấn mạnh tính lợi nhuận trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Có nghĩa rằng , nếu loại trừ các hình thức khác (ví dụ như các khoản vay
trong thị trường liên ngân hàng) trong việc đảm bảo nguồn vốn, đảm bảo khả năng thanh
11 Nguồn vốn cấp 2 được hình thành thông qua các thành phần như:
• 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định.
• 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, góp vốn).

• Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có kì hạn ban đầu, thời hạn còn lại
trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm;
• Các công cụ khác thỏa mãn điều kiện có kì hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm;
• Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro.
12 Khoa Kế toán – Tài chính – Ngân hàng, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Đề cương hướng dẫn nghiệp
vụ ngân hàng thương mại.
khoản của các ngân hàng thương mại, vô hình chung đã bỏ qua một trong những kênh quan
trọng nhất trong việc đảm bảo sự hoạt động bình thường, an toàn của các ngân hàng.
13
Với vai trò là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học pháp lí, đối với vấn đề
này, tác giả chủ động tiếp cận dưới khía cạnh pháp lí. Trong các Giáo trình Luật Ngân hàng
cũng như các văn bản luật hiện nay đều chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này nhưng
thông qua các quy định của pháp luật cũng cho ta phần nào hình dung một cách chính xác nhất
nội hàm của khái niệm này. Cụ thể, tại Chương 3 Mục 1 Luật Các tổ chức tín dụng quy định 4
hình thức của hoạt động huy động vốn:
1. Nhận tiền gửi;
2. Phát hành giấy tờ có giá;
3. Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng;
4. Vay vốn của Ngân hàng nhà nước.
Theo triết học Mác Lê – nin, khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản
ảnh những đặc tính bản chất của sự vật, chính vì vậy, nó là “điểm nút”, là nền tang của hoạt
động tư duy. Hiểu rõ, xác định chính xác khái niệm rất quan trọng. Vì thế, trước khi đi vào các
vấn đề cụ thể, tác giả sẽ thử xác định tính hợp lí trong việc xác định nội hàm của khái niệm
hoạt động huy động vốn dưới các hình thức được liệt kê trên, có so sánh với các quan điểm
được đề cập ở trên.
Thông thường để xác định một hoạt động nào đó có thuộc một nội hàm khái niệm được
xác định trước hay không thì về cơ bản hoạt động đó phải thể hiện đầy đủ các thuộc tính được
thể hiện trong khái niệm đó. Cụ thể, trong trường hợp này muốn xác định một hoạt động nào
đó có nên được xem là một hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại hay không
trước tiên cần xác định được các thuộc tính cơ bản nhất của khái niệm và chúng sẽ được xem

như là các tiêu chí để trên đó làm căn cứ cho việc xác định hoạt động đó. Rõ ràng việc liệt kê
một loạt các hành vi không thể nói lên bản chất của hoạt động đó, tuy nhiên, đối với một văn
bản pháp lí thì đây lại là cách thể hiện tương đối tiện dụng và không gây tranh cãi. Tuy nhiên,
yếu điểm của phương pháp này là mang tính khiêng cưỡng và dễ dàng bị lạc hậu khi cơ sở hạ
tầng có những thay đổi. Nếu có thể đưa ra một khái niệm thể hiện chính xác bản chất của hiện
13 Tác giả đề cập đến nguồn vốn từ trên thị trường liên ngân hàng (dù đây chỉ là nguồn vốn mang tính cứu cánh
hổ trợ cho các ngân hàng khi gặp những khó khăn vì thiếu tiền mặt thanh toán tạm thời trong một giai đoạn rất
ngắn) vì trên thực tế, các ngân hàng muốn đảm bảo được sự ổn định của nguồn vốn này (tức sẽ vay được bất cứ
khi nào ngân hàng cần đến – dĩ nhiên là với một lãi suất hợp lí) thì luôn phải có một sự chú trọng thích đáng.
Trước đây, điều kiện để có thể tiếp cận nguồn vốn này nhanh chóng, thuân lợi thường dựa trên mối quan hệ
giao hảo giữa các ngân hàng trong những khoản thời gian nhất định, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, các
ngân hàng khi muốn đảm bảo được sự ổn định của nguồn vốn này cũng như muốn xây dựng một môi trường tài
chính an toàn hơn thường kí kết trước các hợp đồng tín dụng tương lai rang buộc đối tác hoặc bản thân mình sẽ
cung cấp một nguồn vốn tức thời cho một ngân hàng khi được yêu cầu và với laĩ suất tương thích nào đó. Chính
vì vậy, theo quan điểm của tác giả, đảm bảo sự ổn định của nguồn vốn này cũng quan trọng không kém và
muốn có sự đảm bảo đó cần có sự đầu tư dài hạn và hợp lí.
tượng rõ ràng tính bền vững của quy định sẽ lâu dài hơn. Dù phát sinh những nghiệp vụ hiện
đại hơn thì nó vẵn luôn thể hiện đúng bản chất của hoạt động đó.
Đối với khái niệm này, tác giả tiếp cận dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể: Vấn đề này đã được xác định khá cụ thể ngay trong tên của khái
niệm, ở đây hành động này đựơc giới hạn ở các chủ thể là các ngân hàng thương mại. Tuy khá
rõ ràng nhưng cũng tồn tại khá nhiều những mâu thuẩn. Nếu căn cứ vào mặt chủ thể thực hiện
hành vi, rõ ràng hành vi này chỉ có thể được xác định khi có sự tồn tại của một ngân hàng
thương mại. Vậy căn cứ vào khía cạnh này ta có thể khẳng định hoạt động huy động vốn nhằm
tạo lập nguồn vốn điều lệ trong giai đoạn hình thành ngân hàng thương mại không thuộc nội
hàm khái niệm này (vì thực tế trong giai đoạn này, ngân hàng thương mại chưa được hình
thành). Tuy nhiên, xét ở khía cạnh này, không thể loại trừ tất cả các hoạt động liên quan đến
việc tạo lập nguồn vốn tự có của các ngân hàng, vì như đã được trình bày ở trên, nguồn vốn tự
có cấu thành từ rất nhiều thành phần và có thể được hình thành qua nhiều giai đoạn, những
nguồn vốn được tạo lập sau khi hình thành ngân hàng thương mại (chẳng hạn nguồn vốn cấp

2) thì không thể bị loại trừ.
Thứ hai, về đối tượng chiụ tác động: Vấn đề không có quá nhiều sự tranh cãi đó chính là
nguồn vốn – tiền tệ, bởi vì đó chính là công cụ hoạt động, là “hàng hóa”, là “phương tiện” kinh
doanh của ngân hàng thương mại, cũng giống như máy móc đối với các công xưởng. Tuy
nhiên, vấn đề ở đây chính là trước đến nay chưa từng sự phân định trong thành phần các
nguồn vốn này với mục đích xây dựng một khái niệm hoàn thiện về hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thương mại. Như đã được nhắc đến nhiều lần như ở trên, ngân hàng đầu tiên
vẫn là một doanh nghiệp, nhưng là một doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Cũng
giống như mọi doanh nghiệp thông thường khác, nó luôn có một nguồn vốn thuộc sở hữu tự
thân của nó (vốn tự có) làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây là nguồn vốn của
doanh nghiệp, đối với ngân hàng là nguồn vốn tự có, nó là nguồn vốn theo đúng nghĩa của nó
đối với hoạt động của một doanh nghiệp và khi này, thuật ngữ nguồn vốn đồng nghĩa với tài
sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên thuật ngữ nguồn vốn được để cập ở đây đối với các ngân
hàng thương mại trong trường hợp này nên được hiểu dưới một khía cạnh hoàn toàn khác, nó
không phải là nguồn vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh. Ngân hàng là một loại
hình doanh nghiệp đặc biệt, nếu nguồn vốn như được nói ở trên nguồn tiền mà chủ doanh
nghiệp bỏ ra để đầu tư vào kinh doanh thì nguồn vốn của ngân hàng ở đây là “hàng hóa” của
ngân hàng thương mại, ngân hàng như một người cung ứng dịch vụ, cụ thể hơn, nó giống như
một đại lí, lấy “hàng hóa” – tức nguồn tiền từ nơi này (nơi thừa tiền) để cung ứng cho nơi có
nhu cầu. Tuy không có một sự hoạch toán rõ ràng giữa nguồn vốn của tự có và nguồn vốn này
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nhưng trên thực tế có thể nhận thấy vai trò đó
được thể hiện khá rõ ràng. Nguồn vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm 5% - 10% nguồn vốn của
ngân hàng thương mại và chủ yếu dùng vào việc mua tài sản cố định làm cơ sở cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, lập các quỹ dự trữ và vai trò chính yếu của nó là như vật làm tin, tạo lập
niềm tin cho sự tồn tại bền vững của ngân hàng đó. Việc thuật ngữ nguồn vốn được sử dụng
cho cả hai loại nguồn vốn (vốn của doanh nghiệp nói chung và vốn – như một hàng hóa của
ngân hàng) vì người ta căn cứ vào vai trò của nó đối với cả nền kinh tế nói chung, vốn hay tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư và quan trọng nhất là vì nó cùng là tiền tệ mà không
quan tâm nhiều đến vai trò thực sự của nó đối với các chủ thể sử dụng nó (một hệ quy chiếu
mới). Tóm lại, khái niệm nguồn vốn được đề cập trong nội hàm khái niệm này là theo nghĩa

thứ hai, tức như là một “hàng hóa” của riêng các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng
thương mại nói riêng. Lúc này, hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại có thể
được hình dung một cách dễ hiểu hơn là hoạt động “tìm kiếm các nguồn hàng” cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Việc khẳng định lại khái niệm sẽ cho ta thấy rõ vì sao huy động vốn lại được xem như một
loại nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, cũng giống như các loại hình kinh doanh khác cũng
có những nghiệp vụ riêng của mình phục vụ riêng cho hoạt động kinh doanh. Hiểu rõ khái
niệm nguồn vốn trong hoạt động huy động vốn giúp ta tiến thêm một bước trong việc xác định
khái niệm, bản chất của hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Có thể khẳng
định, một hoạt động chỉ có thể được xem là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại khi nhằm mục đích thu hút, tìm kiếm, gia tăng nguồn vốn không thuộc sở hữu của ngân
hàng. Chính vì vậy, căn cứ vào tiêu chí này, các nổ lực gia tăng nguồn vốn tự có không thuộc
nhóm hành vi huy động vốn của các ngân hàng thương mại được đề cập trong phạm vi đề tài
này.
Thứ ba, về khía cạnh khách thể của hành vi, một cách trực tiếp hơn, đó chính là mục đích,
cái mà chủ thể thực hiện hành vi muốn đạt được. Mục đích chính của kinh doanh là lợi nhuận,
vai trò của nguồn vốn ngân hàng – tư bản cũng là lợi nhuận. Vì vậy, loại hình doanh nghiệp
đặc biệt này – các ngân hàng thương mại cũng hoạt động vì mục tiêu chính là lợi nhuận, và
chính vì vậy, các hoạt động “tìm kiếm nguồn hàng”, cụ thể là hoạt động huy động vốn cũng
xuất phát vì mục tiêu lợi nhuận, đây vẫn luôn là mục tiêu tiên quyết. Tuy nhiên, không những
chịu ràng buộc bởi các quy định của pháp luật, ràng buộc ở bản thân vai trò mà nó nắm giữ,
mà còn vì sự tồn tại của chính nó, khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động
của nó còn hướng đến mục tiêu quan trọng không kém chính là sự an toàn, cụ thể ở đây là
đảm bảo khả năng thanh toán, đây là yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng
thương mại và cả các đối tượng khác hoạt động trong cùng lĩnh vực. Chính vì vậy, theo quan
điểm của tác giả, xuất phát từ đặc tính của các ngân hàng thương mại, hoạt động huy động vốn
theo nghĩa rộng cũng đồng thời hướng đến cả 2 mục tiêu trên. Như được đề cập ở trên, một số
quan điểm, đặc biệt thuộc chuyên ngành kinh tế, khi đề cập đến nghiệp vụ huy động vốn chỉ đề
cập đến các nghiệp vụ mà mang lại hiệu quả kinh tế còn các hoạt động huy động vốn nhằm
đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo tỉ lệ an toàn tín dụng của các ngân hàng thường không

được đề cập. Thiết nghĩ, các nghiệp vụ huy động vốn này (vay trên thị trường liên ngân hàng,
vay ngân hàng trung ương,…) tuy không trực tiếp mang lại lợi nhuận nhưng thực sự nó cũng
đảm bảo nguồn tiền thanh toán cho các ngân hàng, đảm bảo cho sự hoạt động bình thường và
thông suốt của nó. Đối với các nguồn vốn này, trong một giới hạn nhất định về thời gian, nó

×