Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KẾ TOÁN VẬT LIỆU TẠI XÍ NGHIỆP VẬT LIỆU HOÁ CHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.22 KB, 9 trang )

NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KẾ
TOÁN VẬT LIỆU TẠI XÍ NGHIỆP VẬT LIỆU HOÁ CHẤT
3.1. Những ý kiến đề xuất đánh giá
3.1.1. Đánh giá chung về bộ máy kế toán
Xí nghiệp vật liệu hoá chất là một xí nghiệp trực thuộc có quy mô nhỏ.
Chính vì vậy bộ máy kế toán của xí nghiệp gồm 5 người là phù hợp nhưng việc
phân chia nhiệm vụ của từng kế toán ở xí nghiệp là chưa hợp lí và chưa khoa học.
Vì đối với việc phân chia như vậy chỉ phù hợp với yêu cầu quản lí riêng của xí
nghiệp nhưng tăng khối lượng công việc của kế toán và đòi hỏi kế toán phải theo
dõi nhiều phần việc như công nợ, vật liệu, tiền lương, chi phí... của xưởng mình
quản lí như vậy sẽ rất bất tiện trong công việc.
3.1.2. Đánh giá về kế toán vật liệu
3.1.2.1. Công tác quản lí vật liệu
Tại xí nghiệp vật liệu có một hệ thống kho tàng đặt tại các xưởng, việc bố trí
như vậy thuận lợi cho việc xuất vật tư một cách nhanh chóng đảm bảo kịp thời cho
quá trình sản xuất. Việc thu mua và bảo quản vật liệu ở xí nghiệp đã được quan
tâm. Tuy nhiên ở xí nghiệp lại không có phòng chuyên phụ trách về vật tư nên việc
mua vật tư do các nhân viên phụ trách vật tư của các xưởng hoặc các đội trưởng
các công trình tự đi mua, các nhân viên này không cố định và vật tư được mua ở
nhiều cửa hàng khác nhau. Vì thế sẽ làm giá cả và chất lượng có thể không đồng
nhất trong cùng một thời điểm.
3.1.2.2. Công tác kế toán vật liệu
- Về chế độ ghi chép ban đầu: Đối với công tác hạch toán ban đầu từ việc lập
chứng từ đến việc luân chuyển chứng từ cụ thể là:
+ Phiếu nhập kho vật tư
+ Phiếu xuất kho vật tư
+Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho
Xí nghiệp đã thực hiện tương đối tốt và đúng theo qui định đã ban hành.
- Việc phân loại vật liệu: Vật liệu của xí nghiệp bao gồm nhiều thứ loại
nhưng xí nghiệp không tiến hành phân loại mà theo dõi hạch toán chung trên một
tài khoản. Với cách hạch toán như vậy sẽ không đảm bảo hiệu quả trong việc quản


lí.
- Về kế toán chi tiết vật liệu: Phương pháp kế toán chi tiết vật liệu đang áp
dụng ở xí nghiệp là phương pháp thẻ song song. Việc hạch toán chi tiết vật liệu ở
xí nghiệp hàng ngày nhưng xí nghiệp không sử dụng giá hạch toán nên kế toán chi
tiết sử dụng hình thức ghi thẻ song song. Việc ghi chép ở phòng kế toán thường
được tiến hành vào cuối tháng. Do đó làm hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán.
- Về đánh giá vật liệu: Xí nghiệp đang sử dụng giá thực tế để đánh giá vật
liệu, cách đánh gía này có ưu điểm là giảm bớt khối lượng công việc cho kế
toán.Vật liệu của xí nghiệp khi mua về nhập kho là kế có thể tính ngay đến trị gía
thực tế của số vật liệu đó. Do đó việc sử dụng giá thực tế để hạch toán vật liệu
giảm bớt khối lượng công việc cho kế toán.
- Kế toán tổng hợp vật liệu: Vật liệu của xí nghiệp chủ yếu là do nguồn mua
ngoài. Khi mua vật liệu tuỳ theo hình thức thanh toán mà kế toán sử dụng tài khoản
331, 111, 141. Vật liệu nhập kho được phản ánh trên sổ kế toán TK 152 theo định
khoản:
Nợ TK 152
Có TK 331, 111, 141
Phần lớn vật liệu của xí nghiệp mua do nhà cung cấp mang đến tận nơi và
đến tận nơi và đơn giá được tính cho cả khâu vận chuyển. Tuy nhiên có một số vật
tư xí nghiệp tự đi mua và phải thêu phương tiện vận chuyển, nhưng người đi mua
hàng thường hoàn lại chứng từ vận chuyển sau khi vật liệu đã được nhập kho rất
lâu. Do vậy, nên kế toán không phân bổ chi phí vận chuyển vào trị giá thực tế vật
liệu nhập kho mà phần chi phí vận chuyển đó được hạch toán vào tài khoản 627.
Việc hạch toán chi phí vận chuyển vào TK 627 là không phản ánh đúng trị giá thực
tế của vật liệu nhập kho.
Vật liệu xuất kho được kế toán phản ánh vào sổ tổng hợp TK 152 theo định
khoản:
Nợ TK 621
Có TK 152
3.2. Những ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán vật liệu ở xí nghiệp vật

liệu hoá chất ELINCO.
Quá trình quản lí và kế toán ở xí nghiệp hoá chất là đúng chế độ, cung cấp
được thông tin cho yêu cầu quản lí. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại cần phải
củng cố và sửa đổi.
Sau đây là một số ý kiến mong muốn được góp phần hoàn thiện hơn công
tác quản lí và kế toán nguyên liệu ở xí nghiệp.
3.2.1. Ý kiến về lập định mức tiêu hao vật tư
Xí nghiệp vật liệu hoá chất là xí nghiệp có đặc thù riêng, sản xuất các sản
phẩm chủ yếu từ hoá chất . Chính vì vậy, trong quá trình bảo quản sẽ xẩy ra nhiều
hiện tượng hao hụt về vật tư do bay hơi. Do đó, dẫn đến hiện tượng thiếu hụt khi
kiểm kê vật tư. Vì vậy, kế toán nên lập định mức hao hụt vật tư đối với những loại
vật tư dễ bay hơi.
Ví dụ : Đối với các loại vật tư dễ bay hơi như axeton, xylen định mức tiêu
hao vật tư là 10%
Đối với Đóng rắn là 5%
Đối với Keo các loại là 3%
.......
3.2.2. Ý kiến về việc luân chuyển chứng từ
Đối với kế toán chi tiết vật liệu, việc ghi chép trên sổ chi tiết vật liêụ, kế toán
tiến hành ghi vào cuối tháng. Như vậy không đảm bảo được chức năng của kế toán.
Vì vậy việc ghi sổ kế toán chi tiết này kế toán nên tiến hành ghi hàng ngày hoặc
hàng tuần. Để có số liệu đối chiếu với kế toán tổng hợp, kế toán nên lập bảng tổng
hợp nhập - xuất - tồn về mặt giá trị của từng thứ vật liệu. Cơ sở số liệu căn cứ vào
số liệu cộng cuối tháng trên sổ chi tiết vật liệu.Số liệu này được lấy để đối chiếu
với số liệu trên sổ tổng hợp TK 152. Bảng này có thể lập như sau:
Biểu 15: BẢNG TỔNG HỢP NHẬP - XUẤT - TỒN VẬT LIỆU
Tháng 12/2001
3.2.3.Ý kiến về việc phân loại và lập danh điểm vật liệu
Việc hạch toán vật liệu ở xí nghiệp vật liệu hoá chất là rất phức tạp, bởi vật
liệu ở xí nghiệp có rất nhiều loại, mỗi loại lại có những qui cách, phẩm chất và

kích cỡ khác nhau. Việc hạch toán kế toán vật liệu muốn được chính xác và thuận
lợi thì vật liệu phải được phân loại khoa học hợp lí. Sau khi phân loại vật liệu, phải
lập danh điểm vật liệu phù hợp, danh điểm của các vật liệu cũng sẽ được ghi vào
thẻ kho, sổ chi tiết vật liệu và các thẻ khác. Nhờ vậy công việc hạch toán sẽ chính
xác hơn, thuận lợi hơn, giảm bớt được thời gian khi có công tác kiểm kê, kiểm tra.
STT TÊN VẬT LIỆU NHẬP XUẤT TỒN
1 Keo 2502 161030680 82748443 79858545
2 Mat 450 11363500 10227150 5113575
3 Mat 300 16817980 14772550 6818100
4 Đóng rắn 8727200 7854480 2181800
......
Đây còn là một điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cơ giới hoá công tác kế toán
bằng máy vi tính. Trong sự đổi mới chung của cả nước, các doanh nghiệp của nước
ta đang dần dần đưa công nghệ thông tin hiện đại vào sử dụng phổ biến. Bằng máy
vi tính như hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng là rất khoa học và thuận tiện
cho viẹec quản lí kế toán.
Công ty nên đầu tư bằng máy vi tính ngày càng nhiều vào quá trình quản lí
kế toán.
Với sự trợ giúp của máy vi tính thì công tác kế toán trở nên đơn giản và gọn
nhẹ hơn. Việc tìm kiếm, tập hợp thông tin dễ dàng, trong mọi thời điểm người
quản lí cũng như nhân viên kế toán có thể kiểm tra tình hình nhập -xuất - tồn vật
liệu mà không gây mất nhiều thời gian. Nó như một công cụ quản lí vật liệu một
cách hữu hiệu và làm giảm bớt khối lượng ghi chép của kế toán vật liệu.
Kế toán vật liệu có thể mở từng tệp để quản lí từng loại, nhóm, thứ vật liệu
đó. Hàng ngày máy tính sẽ tính số liệu nhập - xuất - tồn kho. Vì vậy sẽ đáp ứng kịp
thời chính xác số liệu bất cứ lúc nào có nhu cầu cần thông tin.
Để đáp ứng yêu cầu quản lí, kế toán có thể phân loại vật liệu như sau:
Vật liệu chính : keo, mát, chì, kem, sơn chống nóng.......
Vật liệu phụ :gỗ, axit, bột tan......
Kế toán xây dựng một sổ danh điểm vật liệu thống nhất. Để lập một sổ danh

điểm vật liệu phải xây dựng một bộ mã vật liệu và xắp xếp theo đúng thứ tự. Bên
cánh đó xây dựng bộ mã vật liệu chính xác, đầy đủ, không trùng lặp có dự trữ
những mã số mới để bổ sung khi cần thiết.
Xí nghiệp có thể xây dựng bộ mã vật liệu dựa vào những đặc điểm sau đây:
• Dựa vào tài khoản NVL và chi tiết tài khoản NVL
• Dựa vào loại NVL công ty đang sử dụng
• Dựa vào nhóm NVL trong mỗi loại
• Dựa vào thứ tự NVL trong mỗi nhóm.

×