PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TSCĐ VỚI VIỆC NÂNG
CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSCĐ TẠI CÔNG TY IN BƯU ĐIỆN.
----------***----------
I - ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
TSCĐ CỦA CÔNG TY
Trải qua 40 năm hình thành và phát triển mặc dù gặp không ít những khó
khăn, đến nay Công ty in Bưu điện đã khẳng định vị trí của mình trong nghành
Bưu chính viễn thông. Những thành công đó có được là do nhiều nguyên nhân,
trong đó phải kể đến sự năng động, hiệu quả trong tổ chức quản lý sản xuất kinh
doanh của bộ máy điều hành Công ty cùng với công cụ hỗ trợ hữu hiệu là hệ thống
kế toán. Đặc biệt đối với một doanh nghiệp sản xuất thì hạch toán kế toán TSCĐ
càng giữ vai trò quan trọng.
Trong những năm qua, công tác kế toán TSCĐ của Công ty đã có nhiều thay
đổi, bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Sau
một thời gian tìm hiểu thực tế tại đây, em có một số nhận xét sau :
1) Ưu điểm :
Về công tác kế toán nói chung :
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán như hiện nay của Công ty là khá hợp lý,
thuận tiện cho việc quản lý và điều hành. Việc phân công, bố trí công việc cho các
nhân viên là căn cứ vào tính chất nghiệp vụ kinh tế và khả năng, trình độ của mỗi
người và tất cả đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Kế toán
trưởng.
Trong điều kiện KHCN đang phát triển mạnh mẽ, Công ty cũng đã nhận thức
được những lợi ích từ việc ứng dụng tin học vào trong công tác kế toán. Với việc
sử dụng phần mềm kế toán MISAVersion 4.5 đã giúp cho việc xử lý thông tin một
cách nhanh chóng, chính xác, góp phần giải phóng sức lao động, tinh giản bộ máy
quản lý và nâng cao hiệu quả công việc. Bên cạnh hệ thống máy tính, phòng kế
toán Công ty còn được trang bị máy in, máy fax, máy photocopy … nhờ đó các
bảng tổng hợp, sổ sách được thực hiện và in ra kịp thời đảm bảo cập nhật thông tin
kế toán phục vụ nhu cầu quản lý.
Nhìn chung, hệ thống chứng từ, sổ sách, báo cáo mà Công ty sử dụng đều
tuân thủ theo đúng chế độ kế toán do Nhà nước ban hành theo Quyết định 1141-
TC/QĐ/CĐKT của Bộ Tài chính ngày 1/11/1995 . Tất cả các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đều được ghi sổ trên cơ sở các chứng từ gốc hợp lý, hợp lệ và được vận
dụng theo hình thức “Chứng từ ghi sổ” với ưu điểm là ghi chép đơn giản, thuận
tiện cho việc đối chiếu định kỳ giữa kế toán chi tiết với kế toán tổng hợp, vì thế
đảm bảo phản ánh thông tin đầy đủ, trung thực.
Về kế toán TSCĐ :
Đặc biệt là trong kế toán TSCĐ, Công ty cũng đã thực hiện phân loại TSCĐ
hiện có theo quy định của Nhà nước mà vẫn đáp ứng nhu cầu quản lý riêng của
mình. TSCĐ tại Công ty được phân loại theo hình thái biểu hiện kết hợp với tính
chất đầu tư, theo công dụng, được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại giúp
cho công tác quản lí và hạch toán TSCĐ được thuận lợi và hiệu quả hơn.
Do một đặc điểm nổi bật về TSCĐ của Công ty in Bưu điện là sự đa dạng và
phức tạp, trong đó, chiếm tỷ trọng lớn là máy móc thiết bị nên Công ty đã sử dụng
số hợp đồng để chi tiết cho từng loại tài sản.
Một ưu điểm nữa của Công ty là trong công tác kế toán khấu hao TSCĐ:
Trong quá trình hạch toán công ty đã áp dụng quy định mới của bộ tài chính về
việc xác định thời gian khấu hao. Cụ thể là công ty đã chủ động xác định thời gian
khấu hao hợp lý cho từng tài sản căn cứ vào tình hình kinh doanh, tình hình sử
dụng và hao mòn của TSCĐ nên đã giúp Công ty hạn chế được ảnh hưởng của hao
mòn vô hình cũng như làm tăng tốc độ thu hồi vốn đầu tư.
Mặt khác trong toàn bộ TSCĐ hiện nay của công ty thì phần lớn là TSCĐ thuê
tài chính. Có thể nói đây là một ưu điểm và lợi thế rất lớn của công ty, bởi vì trong
điều kiện kinh tế hiện nay, công ty sử dụng TSCĐ đi thuê tài chính là đã tiết kiệm
được vốn đầu tư vào TSCĐ và hạn chế được những rủi ro do nó gây ra. Sử dụng
TSCĐ thuê tài chính giúp công ty dễ dàng trong việc huy động vốn vay do đặc thù
của việc thuê tài sản vẫn nắm giữ quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản nên bên
thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
Ngoài ra, sử dụng phương thức thuê TSCĐ thuê tài chính còn giúp công ty có
thể thực hiện nhanh chóng dự án đầu tư, đảm bảo kịp thời tiến độ sản xuất kinh
doanh. Do bên đi thuê có quyền lựa chọn thiết bị với thoả thuận trước về hợp đồng
với người cung ứng sau đó mới yêu cầu bên cho thuê tài chính tài trợ nên có thể
rút ngắn thời gian đầu tư vào TSCĐ. Và đối với tài sản mà công ty chưa sử dụng
có thể cho thuê để tiết kiệm chi phí bảo quản lại đem lại nguồn thu.
2) Nhược điểm :
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, kế toán TSCĐ tại Công ty in Bưu điện còn
tồn tại một số hạn chế sau :
Thứ nhất : Hiện tại công ty đang áp dụng hình thức “Chứng từ ghi sổ” nhưng
lại không có sổ đăng ký chứng từ ghi sổ. Như vậy là đã bỏ qua việc hệ thống hoá
thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh, đã lập chúng từ ghi sổ
theo trật tự thời gian. Điều này dẫn đến là không thể quản lý chặt chẽ các chứng từ
ghi sổ đã lập, không phản ánh được toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát
sinh, dễ thất lạc hoặc bỏ sót khi ghi sổ kế toán tổng hợp.
Thứ hai: Nhược điểm lớn của công ty là mặc dù đã có ứng dụng tin học vào
hệ thống kế toán nhưng phần hành kế toán TSCĐ lại không hoàn toàn được làm
trên phần mềm hiện tại của công ty, có những khâu thì làm ngoài bằng tay, hoặc
làm thủ công trên Excel, lại có những phần làm trên phần mềm. Điều đó dẫn đến
một thực tế là không thể logic được tất cả các khâu, không có sự thống nhất hợp lý,
việc tổng hợp số liệu và kiểm tra đối chiếu rất khó khăn.
Ngoài ra việc ứng dụng tin học vào hệ thống kế toán nhưng lại áp dụng hình
thức “Chứng từ ghi sổ” là không hợp lý . Công ty nên thay đổi hình thức ghi sổ này
bằng hình thức “Nhật ký chung” vì những ưu điểm do hình thức này mang lại
trong việc sử dụng kế toán máy.
Thứ ba: Về cách phân loại TSCĐ của Công ty như kể trên vẫn chưa đầy đủ
và hợp lý. Trong TSCĐ hữu hình đã phân loại theo công dụng kinh tế nhưng vẫn
không đầy đủ vì thiết bị dụng cụ quản lý lại để lẫn cả trong các nhóm TSCĐ khác.
Còn phần TSCĐ thuê tài chính cũng không thực hiện phân loại. Công ty chưa tiến
hành phân loại theo mục đích sử dụng,
Còn theo hình thái biểu hiện, kế toán chỉ phản ánh TSCĐHH mà chưa quan
tâm đúng mức đến vai trò và ảnh hưởng của TSCĐVH. Không đề cập đến loại tài
sản này trên hệ thống sổ kế toán sẽ dẫn đến sự sai lệch trong các chỉ tiêu phân tích,
đánh giá tình hình hoạt động và hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty. Do không
xác định được TSCĐVH nên Công ty cũng không có định hướng trong việc xây
dựng, bảo tồn và phát triển loại tài sản này.
Thứ tư : Kế toán TSCĐ không mở sổ chi tiết cho từng loại TSCĐ mà ghi
chung tất cả trên cùng một sổ. Vì vậy mà số liệu máy tính in ra cuối kỳ chỉ là số
liệu tổng hợp tăng, giảm mà không cho biết tình hình về một tài sản cụ thể.
Ngoài ra kế toán không mở sổ chi tiết TSCĐ theo đơn vị sử dụng. Vì vậy việc
theo dõi quản lý TSCĐ thiếu chặt chẽ, chưa nâng cao được trách nhiệm của các bộ
phận cá nhân trong việc nâng cao hiệu quả quản lý TSCĐ.
Công ty mới chỉ có mẫu thẻ TSCĐ ở giấy in sẵn ghi chép thủ công mà không
có mẫu thẻ trên máy. Thẻ TSCĐ là một chứng từ quan trọng để làm căn cứ hạch
toán và cũng là để đối chiếu kiểm tra, do đó không lập thẻ trên máy sẽ gây khó
khăn trong việc theo dõi, quản lý TSCĐ.
Thứ năm: Liên quan đến tính và trích khấu hao TSCĐ, Công ty sử dụng
“Bảng trích khấu TSCĐ” tuy nhiên bảng này rất sơ sài không phản ánh đầy đủ các
thông số cần thiết, mà thực chất bảng này chỉ có tính chất liệt kê mức khấu hao
trích trong năm mà thôi. Công ty không lập bảng tính và phân bổ khấu hao do đó
việc tính và phân bổ khấu hao cho các bộ phận sẽ mất thời gian, dẫn đến sai sót.
Thứ sáu: Trong các trường hợp nhượng bán, thanh lý TSCĐ, Công ty không
lập "Biên bản hợp hội đồng định giá” mà chỉ căn cứ vào “Quyết định thanh lý”
của giám đốc và “Biên bản thanh lý TSCĐ” hoá đơn cùng các chứng từ thanh toán
để kế toán ghi giảm tài sản.
Thứ bảy: Trong quá trình hạch toán TSCĐ, công ty không sử dụng TK 335
để trích trước chi phí sửa chữa lớn. Điều này làm cho chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ của Công ty sẽ tăng lên đột ngột, vì thế thông tin do công tác kế toán cung
cấp có thể sẽ giảm bớt độ chính xác vốn có .
Công ty vẫn sử dụng TK 142 khi kết chuyển chi phí sửa chữa ngoài kế hoạch
và TK 821,721 khi tiến hành thanh lý, nhượng bán TSCĐ mà chưa áp dụng TK
242,711,811 Theo thông tư số 89/2002/TT-BTC.
Cụ thể đối với nghiệp vụ thanh lý, nhượng bán Công ty hạch toán như sau:
Xoá sổ TSCĐ : Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK 821 : Giá trị còn lại
Có TK 211 : Nguyên giá TSCĐ
Chi phí thanh lý nhượng bán
Nợ TK 821 : Tập hợp chi phí thanh lý, nhượng bán
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112 …
Các khoản thu hồi Nợ TK 111,112, 131, 152 …
Có TK 721 : Giá bán (chưa có VAT)
Có TK 3331 : Thuế GTGT đầu ra
II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TSCĐ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSCĐ
Qua quá trình thực tập tại công ty, cùng với sự vận dụng kiến thức đã học em
đã nhận thấy tầm quan trọng của việc hạch toán TSCĐ. Cũng như bất kì một doanh
nghiệp sản xuất nào tại công ty in Bưu điện, TSCĐ là phương tiện cơ bản tạo ra
của cải vật chất đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Vấn đề “Làm thế nào
để quản lý chặt chẽ TSCĐ và sử dụng có hiệu quả tài sản cố định” là điều mà bất
cứ DN nào cũng quan tâm. Vì vậy, hoàn thiện hạch toán TSCĐ không chỉ dừng ở
việc thực hiện đúng chế độ kế toán hiện hành mà phải áp dụng linh hoạt cho phù
hợp với chế độ kế toán của công ty. Trước yêu cầu trên, em mạnh dạn đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán TSCĐ tại công ty góp phần làm cho kế
toán TSCĐ tại đây có hiệu quả hơn.
Là một công ty hạch toán độc lập, việc tăng doanh thu giảm chi phí là yếu tố
quyết định sự tồn tại của công ty. Đầu tư mua sắm TSCĐ đúng thời điểm cùng với
việc nâng cao hiệu quả sử dụng nó là nhân tố quan trọng để đạt được mục tiêu trên.
Do đó công ty phải nâng cao hơn nữa công tác hạch toán kế toán TSCĐ.
1) Hoàn thiện kế toán TSCĐ nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu
quả TSCĐ :
a) Về phân loại TSCĐ :
Kế toán Công ty nên tiến hành phân loại TSCĐ một cách cụ thể và hoàn chỉnh
hơn, việc phân loại theo công dụng hay đặc trưng kỹ thuật phải được thực hiện đối
với cả TSCĐHH và TSCĐ thuê tài chính. Nhìn vào cơ cấu tài sản thấy tỷ trọng
TSCĐ thuê tài chính của Công ty chiếm đến 61,01% lại bao gồm cả máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải truyền dẫn, và thiết bị dụng cụ quản lý thế mà Công ty lại
không thực hiện phân loại, rõ ràng là một thiếu sót rất lớn. Vì vậy Công ty nên
phân loại TSCĐ thuê tài chính thành từng nhóm loại cụ thể theo công dụng hay đặc
trưng kỹ thuật như việc phân loại TSCĐHH.
Còn theo cách phân loại TSCĐHH hiện nay thì thiết bị dụng cụ quản lý bị lẫn
trong nhóm các TSCĐ khác, cần được phân loại riêng thành một nhóm theo quy
định chung.
Thêm vào đó cũng nên phân loại theo mục đích sử dụng thành 4 loại như sau:
+ TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những TSCĐ sử dụng
trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
+ TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh : Là những TSCĐ dùng cho các hoạt
động phúc lợi, an ninh, các hoạt động phụ.
+ TSCĐ chờ thanh lý, giải quyết: Là những tài sản đã hư hỏng hoặc quá lạc
hậu chờ quyết định thanh lý.
+ TSCĐ chưa dùng hoặc không cần dùng: Là những TSCĐ dùng để dự trữ
hoặc không phù hợp với cơ cấu sản xuất kinh doanh của Công ty.
Việc không phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng sẽ rất khó khăn để xác
định chính xác hiệu quả sử dụng TSCĐ cũng như tỷ trọng đầu tư TSCĐ vào sản
xuất kinh doanh thì phải xem lại bảng kê danh mục tài sản và cộng từng bộ phận.
Tuy nhiên việc làm này rất mất thời gian và không chính xác. Công ty nên phân
loại theo tiêu thức này vì giúp cho nhà quản lý TSCĐ trong và ngoài SXKD. Từ đó
giúp cho việc đánh giá phân tích tình hình sử dụng TSCĐ đem lại lợi ích cao nhất.
Đồng thời có kế hoạch xử lý những TSCĐ còn tồn tại để kịp thời thu hồi vốn, tái
đầu tư TSCĐ. Đồng thời phân loại theo mục đích sử dụng sẽ giúp cho kế toán tiến
hành phân bổ khấu hao cho các bộ phận một cách chính xác hợp lý hơn.
Mặt khác, Công ty cần có kế hoạch hàng năm cho việc đầu tư, mua sắm
TSCĐ sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh cũng như đặc điểm ngành nghề
của Công ty. Cần dựa trên nhu cầu sử dụng TSCĐ thực tế để xác định một cơ cấu
TSCĐ hợp lý, đặc biệt là cơ cấu đầu tư giữa nhà cửa vật kiến trúc và máy móc thiết
bị vì đây là hai loại TSCĐ phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh của Công
ty.
b) Về hệ thống tài khoản sử dụng để hạch toán:
Công ty nên điều chỉnh lại hệ thống tài khoản đang sử dụng theo hệ thống tài
khoản thống nhất do Bộ Tài chính mới ban hành.
Cụ thể, để phản ánh giá trị quyền sử dụng đất, Công ty sử dụng TK 2131. Khi
tập hợp chi phí sửa chữa và phân bổ chi phí cho nhiều năm tài chính thì Công ty sử
dụng TK 242. Còn đối với nghiệp vụ thanh lý, nhượng bán, Công ty phải hạch toán
như sau:
Xoá sổ TSCĐ : Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK 811 : Giá trị còn lại
Có TK 211 : Nguyên giá TSCĐ
Chi phí thanh lý, nhượng bán
Nợ TK 811 : Tập hợp chi phí thanh lý, nhượng bán
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112 …
Các khoản thu hồi Nợ TK 111,112, 131, 152 …
Có TK 711 : Giá bán (chưa có VAT)
Có TK 3331 : Thuế GTGT đầu ra
c) Về hạch toán chi tiết TSCĐ :
Thứ nhất việc chi tiết tài khoản 211 hiện nay là không đầy đủ và rõ ràng.
Công ty nên chi tiết cấp 1 đúng như quy định và phải tách thiết bị dụng cụ quản lý
riêng như sau:
TK 2112: Nhà cửa, vật kiến trúc
TK 2113: Máy móc, thiết bị
TK 2114: Phương tiện vận tải, truyền dẫn
TK 2115: Thiết bị, dụng cụ quản lý
TK 2118: TSCĐ khác
Ngoài ra công ty cũng nên chi tiết TK cấp 2 theo các nhóm TSCĐ phù hợp
với mô hình quản lý chung của công ty. Có thể chi tiết cho từng phân xưởng, nhà
máy, cho từng đơn vị sử dụng.
TK 212 cũng nên chi tiết để tiện theo và quản lý. Vì quy định hiện hành
không cụ thể việc chi tiết tài khoản cấp II nên theo thực trạng TSCĐ thuê tài chính
tại Công ty có thể chi tiết như sau:
TK 2121: Máy móc thiết bị
TK 2122 : Phương tiện vận tải truyền dẫn.
TK 2123 : Thiết bị dụng cụ quản lý.
Do một đặc điểm nổi bật về TSCĐ của Công ty in Bưu điện là sự đa dạng
và phức tạp , vì thế Công ty nên sử dụng mã, số hiệu TSCĐ để quản lý tất cả các
TSCĐ của mình. Điều này vừa thuận lợi cho việc theo dõi quản lý vừa dễ tổng hợp
kiểm tra đối chiếu và phù hợp khi áp dụng vào kế toán máy.
Xuất phát từ đặc điểm tổ chức kinh doanh, số hiệu tài sản có thể được xây
dựng bao gồm 4 nhóm chữ và số như sau:
- Nhóm thứ nhất thể hiện TSCĐ thuộc nhóm tài sản khác nhau và được phản
ánh trên các tài khoản TSCĐ. Vì vậy được căn cứ vào quy định các nhóm TSCĐ
theo danh mục TSCĐ của nhà nước đã ban hành theo quyết định số 206/2003/QĐ-
BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính, và hệ thống tài khoản kế toán
doanh nghiệp để xác định:
+ A 2113 - Máy móc thiết bị động lực
+ B 2113 - Máy móc thiết bị công tác
+ C 2115 - Dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm
+ D 2114 - Thiết bị và phương tiện vận tải
+ E 2115 - Dụng cụ quản lý
+ F 2112 - Nhà cửa vật kiến trúc
+ H 2118 - Tài sản cố định hữu hình khác
+ H 2131 đến 2138 - Các tài sản cố định vô hình
Trong nhóm thứ nhất các chữ cái A,B,C,D… chỉ nhóm TSCĐ phù hợp với
danh mục tài sản đã quy định trong quyết định 206, các số 2112- 2138 là các tài
khoản cấp 2 phản ánh các TSCĐ trong hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp.
- Nhóm thứ 2 xác định TSCĐ thuộc các loại khác nhau trong nhóm. Hiện nay
TSCĐ trong công ty bao gồm nhiều loại khác nhau, vì vậy phải quy định mã số cụ
thể cho từng loại TSCĐ trong từng nhóm tài sản. Có thể sử dụng dãy số tự nhiên
để làm mã số cho từng loại TSCĐ. Ví dụ trong nhóm D2114 - Thiết bị và phương
tiện vận tải:
+ Phương tiện vận tải đường bộ quy định mã 01
+ Thiết bị truyền dẫn mã 02
+ Thiết bị xếp dỡ mã 03….
- Nhóm thứ 3 xác định TSCĐ được sử dụng ở từng bộ phận trong doanh
nghiệp. Với cơ cấu mạng lưới kinh doanh của công ty bao gồm các bộ phận: Văn
phòng công ty, các xí nghiệp, các chi nhánh, các nhà máy, các kho… có thể sử
dụng các số tự nhiên để quy định mã số cho từng bộ phận có cùng chức năng như
sau:
+ TSCĐ văn phòng: Số 01
+ TSCĐ các nhà máy: số 02
+ TSCĐ các xí nghiệp: Số 03
+ TSCĐ các chi nhánh: Số 04…
Sau đó tuỳ thuộc vào số lượng phòng ban, nhà máy… để quy định mã số chi
tiết tiếp theo cho từng bộ phận (ví dụ: phòng tổng hợp mã 01, phòng kỹ thuật mã
02…do đó TSCĐ ở phòng tổng hợp, nhóm thứ 3 có mã số 01- 01, phòng kỹ thuật
mã số 01- 02…)
- Nhóm thứ 4 là nhóm cuối cùng xác định cho từng thứ TSCĐ trong công ty.
Để thuận lợi và dễ nhận biết các nhóm, loại, thứ TSCĐ giữa các nhóm mã số được
phận định bởi dấu gạch ngang(-) hoặc dấu chấm(.), như vậy số hiệu TSCĐ có dạng
sau: ***- *** - *** - ***
Ví dụ: Nhà văn phòng công ty có số hiệu: F2112- 01- 01- 01
Trong đó:
F - TSCĐ thuộc nhóm nhà cửa vật kiến trúc
2112- TSCĐ được kế toán phản ánh trên sổ tài khoản 2112
01 - TSCĐ thuộc loại 1 trong nhóm
01- TSCĐ thuộc bộ phận văn phòng
01- Mã số của nhà văn phòng theo quy định của doanh nghiệp
Số hiệu TSCĐ sau khi được xác định phải được gắn vào từng thứ tài sản để
đảm bảo cho việc quản lý, kiểm tra tình hình bảo quản sử dụng, và phục vụ cho
quá trình kiểm kê đánh giá lại tài sảnkhi cần thiết một cách thuận lợi. Mặt khác sau
khi tài sản đã được đánh số hiệu, trên các chứng từ và sổ kế toán các thông tin
phản ánh về tình hình và sự biến động của tài sản cần được ghi rõ số hiệu của tài
sản như là yếu tố bổ sung, giúp kế toán kiểm tra và xử lý số liệu được nhanh chóng
chính xác. Đồng thời trên thẻ và sổ theo dõi tài sản cố định cũng phải ghi rõ số
hiệu của từng TSCĐ đã được xác định.