Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

“QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.12 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO
GIÁO DỤC
DỤC VÀ
VÀ ĐÀO
ĐÀO TẠO
TẠO
BỘ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tác giả
TRẦN
THỊ
xin được tỏ lịng biết ơn và kính
trọng
sâuPHƯỢNG
sắc đến các cấp lãnh đạo, khoa đào
TRẦN
PHƯỢNG
tạo sau đại học Trường Đại học
Vinh,THỊ
Trường
Đại Học Tây Nguyên, Ban Giám
hiệu, các Thầy, Cô giáo và học sinh của 3 Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú ở
Thành Phố
Bn Ma
đã ĐỘNG
hỗ trợ tích
cực chúng
khiNĂNG
thực hiện


đề tài.
QUẢN
LÝThuột
HOẠT
GIÁO
DỤCtơi
KỸ
SỚNG

CHO
HỌC
TRƯỜNG
PHỔ
TỘC
TRÚ
Đặc biệt,
tơiSINH
xin được
bày tỏ lịng
biếtTHƠNG
ơn chân DÂN
thành và
sâu NỘI
sắc đến
q
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỚNG
PHỚ
BN
TỈNH
ĐẮK

Thầy, Cơ đãTHÀNH
giảng dạy,
hướng
dẫn, MA
góp THUỘT,
ý khoa học
cho lớp
caoLẮK
học Quản lý
CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI
Giáo dục khóa 25 cùng với Tiến sĩ Nguyễn Thị Châu Giang – Người đã tận tình,

TRÚ

ân cần hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tác giả những kiến thức và kinh

THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT TỈNH ĐẮK LẮK

nghiệm quý báu trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các anh, chị em cùng khóa học, bạn bè, đồng
Chuyên
LÝ GIÁO
DỤC
LUẬN
VĂNngành:
THẠCQUẢN
SĨ QUẢN
LÝ GIÁO
DỤC

nghiệp và người thân đã ln nhiệt
tình
hỗ
trợ,
động
viên

tạo
mọi điều kiện
Mã số: 8. 14.01.14
cho tơi hồn thành khóa học này.
Chắc chắn luận văn không tránh khỏi một số hạn chế và thiếu sót. Tác giả
rất mong nhận được
sự góp
của qSĨThầy,
Cơ LÝ
giáoGIÁO
và q
bạn đọc để đề tài
LUẬN
VĂNý THẠC
QUẢN
DỤC
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn./.
Tháng 8 năm 2019
Tác giả luận văn
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Châu Giang
NGHỆ AN - 2018
Trần Thị Phượng


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NGHỆ AN - 2018


2

STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.

2

2

2

Chữ viêt tắt
BGH
CBQL
CSVC
GD
GD&ĐT
GDKNS
GV
GVCN
HĐNGLL
HS
KNS
QLGD
PTDTNT
SL
SGK
UNESCO
XHCN
GDCD

Chữ viết đầy đủ
Ban giám hiệu
Cán bộ quản lý
Cơ sở vật chất
Giáo dục
Giáo dục và Đào tạo
Giáo dục kỹ năng sống
Giáo viên

Giáo viên chủ nhiệm
Hoạt động ngoài giờ lên lớp
Học sinh
Kỹ năng sống
Quản lý giáo dục
Phổ thông dân tộc nội trú
Số lượng
Sách giáo khoa
Tổ chức giáo dục, khoa học văn hóa liên hiệp quốc
Xã hội chủ nghĩa
Giáo dục công dân


3

3
3

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

3


4

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Viêt Nam nói riêng và bối cảnh tồn
nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các kỹ
năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế - xã
hội. Ðặc biệt với học sinh, sinh viên, việc trang bị kỹ năng sống càng trở nên
bức thiết, bởi đây là yếu tố không thể thiếu, giúp các em biết định hướng phát
triển cá nhân một cách tốt nhất. Chính vì vậy Nghị quyết 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI xác định:“Đối với giáo dục phổ
thơng, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, năng lực công dân. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức,
lối sống, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”[18].
Trong những năm qua, việc rèn luện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các
tình huống vào thực tiễn cho học sinh ở các trường phổ thông đã được quan tâm
tổ chức. Tuy nhiên, do mục tiêu của chương trình giáo dục hiện hành chủ yếu là
trang bị kiến thức, vì vậy việc dạy học còn nặng về truyền thụ kiến thức cho nên
khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm.
Những năm gần đây, tình trạng học sinh, sinh viên phạm tội có xu hướng
gia tăng. Trầm trọng hơn là sự xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây
thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân là bạn học và thầy cơ
giáo thậm chí là bố mẹ người thân của chúng. Đồng thời, việc hút thuốc lá, uống
rượu bia, tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục sớm cũng đang len lỏi ngày càng
nhiều trong học sinh, sinh viên góp phần làm ảnh hưởng đến môi trường học
đường. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ
năng sống lại rất kém. Các em sẵn sàng đánh nhau, chửi bậy, sa đà vào các tệ
nạn xã hội, thậm chí liều lĩnh từ bỏ cả mạng sống.

4


5


5

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ đến mọi lứa tuổi đặc biệt là lứa tuổi
học sinh. Ở lứa tuổi này của các em đang hình thành nên những giá trị nhân
cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá song còn thiếu hiểu
biết về cuộc sống.
Với nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, nhưng ngun
nhân chính vẫn là do các em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa bao giờ được dạy
cách đương đầu với những khó khăn của cuộc sống, các em khơng được dạy để
hiểu về giá trị của cuộc sống.
Thực tế, việc giáo dục tồn diện cho học sinh, trong đó có kỹ năng sống, ở
nước ta còn rất hạn chế. Nhà trường vẫn còn quan niệm dạy học là dạy kiến thức
chứ chưa dạy các em thái độ, kỹ năng ứng xử trong các mối quan hệ với con
người, với môi trường thiên nhiên ….
Học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn thành phố
Bn Ma Thuột có nhiều dân tộc khác nhau ở các vùng, thôn, buôn, các huyện
về học tập, ăn ở, sinh hoạt tại trường. Tuy nhiên sự hiểu biết, thói quen sống và
sinh hoạt của các em còn rất lạc hậu, chưa phù hợp, thiếu kỹ năng thực hành, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng đối phó với những khó khăn
trong cuộc sống và khả năng tự phục vụ bản thân. Với sự thay đổi không ngừng
của xã hội của cuộc sống hiện đại mang đến nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực
địi hỏi thế hệ trẻ là người dân tộc luôn phải lựa chọn những giá trị, phải đương
đầu với những khó khăn, thử thách, những áp lực tiêu cực không chỉ làm chủ tri
thức, rút ngắn khoảng cách về chênh lệch tri thức giữa các vùng miền mà cịn
phải thực sự tự tin, phải có được các kỹ năng sống góp phần tích cực cho cuộc
sống cá nhân và cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn, nhằm thích ứng với mọi biến
động của hồn cảnh.
Từ những nguyên nhân và suy nghĩ trên nên chúng tôi chọn đề tài

“QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
5


6

6

TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ THÀNH PHỐ BUÔN MA
THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề xuất một số biện pháp quản lý
hoạt động giáo dục kỹ năng sống nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục
tồn diện cho học sinh ở các trường Phổ thơng dân tộc nội trú, thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường
Phổ thông dân tộc nội trú.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường
Phổ thông dân tộc nội trú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được các biện pháp quản lý phù hợp, có tính
khoa học và khả thi thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú, thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng

sống cho học sinh phổ thông dân tộc nội trú
5.1.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh ở trường Phổ thông dân tộc nội trú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk.
5.1.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
ở trường Phổ thông dân tộc nội trú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
5.2. Phạm vi nghiên cứu

6


7

7

Chủ thể quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh dân tộc nội trú là cán bộ quản lý các trường Phổ thông dân tộc
nội trú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến quản lý hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dân tộc nội trú.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Phương pháp điều tra: Bằng phiếu hỏi ở một số trường phổ thông dân tộc
nội trú ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk với Ban Giám hiệu, các tổ
trưởng chuyên môn, các đoàn thể, học sinh và phụ huynh nhằm thu thập các thông
tin về việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong trường.
- Phương pháp quan sát: Thông qua việc tổ chức các hoạt động của nhà

trường, qua dự giờ, các hoạt động trải nghiệm, sinh hoạt ngoại khóa, việc lồng
ghép các hoạt động qua các môn học, các tiết sinh hoạt của giáo viên chủ nhiệm,
các câu lạc bộ, tổ chức tư vấn học đường … để thu thập thông tin nhằm đánh giá
đúng về việc hoạt động cũng như quản lý việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh như thế nào.
- Phương pháp chun gia: Thơng qua việc góp ý của đội ngũ chun gia
có trình độ cao để thu thập các thông tin khoa học tư vấn cho việc triển khai đề
tài quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như đánh giá kết
quả nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua nghiên cứu các kế hoạch
của các tổ chức trong nhà trường về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
7


8

8

Sử dụng các cơng thức thống kê như tính tỉ lệ %, giá trị trung bình để xử
lý số liệu thu được.
7. Những đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các
trường phổ thông nói chung và trường dân tộc tội trú nói riêng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Đánh giá được thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú và quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú thành phố Buôn Ma Thuột,

tỉnh Đắk Lắk.
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trường phổ thông dân tộc nội trú thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu nghiên cứu, phụ lục.
Luận văn có 3 chương gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trường phổ thông dân tộc nội trú thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

8


9

9

NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Năm 1989, Bộ lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký và rèn
luyện các Kỹ năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving
necessary Skills- SCANS). Cũng trong khoảng thời gian này, tại Úc, Hội đồng
Kinh doanh Úc với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học và Hội

đồng giáo dục quốc gia Úc đã xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai”
(năm 2002). Là các kỹ năng cần thiết khơng chỉ để có được việc làm mà còn để
tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp
vào định hướng chiến lược tổ chức [10; tr.3].
Vào đầu thế kỷ 90 thế kỷ trước, các tổ chức Liên hợp quốc như Tổ chức Y
tế thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức Giáo dục,
khoa học và văn hóa LHQ (UNESCO) đã chung sức xây dựng chương trình giáo
dục KNS cho thanh thiếu niên, bởi, theo UNICEF, những thử thách mà trẻ em
và thanh niên phải đối mặt là rất nhiều ….
Do đó, nội dung GDKNS đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào
dạy học trong các trường với nhiều hình thức khác nhau. Chương trình hành
động Dakar về giáo dục cho mọi người (Senegal 2000) yêu cầu mỗi quốc gia
cần đảm bảo cho người học được tiếp cận chương trình GDKNS phù hợp và KN
của người học là một tiêu chí của chất lượng giáo dục. Việc vận dụng trực tiếp
hay gián tiếp KNS được nhấn mạnh trong nhiều khuyến nghị mang tính quốc tế,
cả trong diễn đàn về thực hiện công ước quyền trẻ em, trong hội nghị dân số và
phát triển, trong cam kết của tiểu ban Liên hợp quốc về HIV/ AIDS. Hiện đã có
155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS vào nhà trường.
Từ giữa thế kỷ XX, nhiều nhà GD tại các nước phát triển đã thấy được sự
cần thiết phải GD cho HS các khả năng giao lưu với thế giới xung quanh, khả
9


10

10

năng xã hội và khả năng ứng phó với điều kiện sống thay đổi nhanh chóng, lựa
chọn và ra quyết định khi cần thiết. GDKNS như một lựa chọn thích hợp cho sự
phát triển của GD phù hợp với sự phát triển của xã hội đương đại.

Tại nhiều nước Tây phương, thanh thiếu niên đã được học những kỹ năng
sống về những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện đương đầu
và vượt qua những khó khăn cũng như cách tránh những mâu thuẫn và vượt qua,
xung đột giữa người và người. Tại các nước Châu Á, học sinh cũng đã được nhà
trường rèn luyện về kỹ năng sống. Cụ thể ở Hàn Quốc, Nhật Bản, học sinh được
học cách đối phó thích ứng với các tai nạn như cháy, động đất, thiên tai ….,
Trung Quốc KNS được lồng ghép vào các môn học trong nhà trường về giáo
dục đạo đức, giáo dục lao động và xã hội. Ở Sudang KNS được lồng ghép vào
giáo dục công. Ở Mianma có các chủ đề GDKNS trong chương trình giảng dạy:
sức khỏe và vệ sinh cá nhân, sự phát triển thể chất, sức khỏe tâm thần, phòng
tránh các bệnh như tiêu chảy, rối loạn do thiếu iốt, lao phổi, sốt rét, ma túy,
HIV/AIDS, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng truyền thông và tự diễn đạt, kỹ năng
hợp tác, kỹ năng xử lý cảm xúc, khuyến khích lịng tự trọng.
Ở 5 nước Đông Nam Á UNESCO đã tiến hành dự án nhằm vào các vấn
đề khác nhau liên quan đến KNS. Kết quả của dự án là bức tranh tổng thể các
nhận thức, quan niệm về KNS mà các nước tham gia dự án áp dụng hoặc dự
kiến áp dung. Dự án chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Xác định quan niệm của từng nước về KNS. Câu hỏi đặt ra ở
giai đoạn này cho mỗi nước là: Quan niệm về KNS như thế nào và phát triển
quan niệm này như thế nào trong bối cảnh giáo dục cho mọi người? Việt Nam
cũng tham gia chia sẻ với các nước về vấn đề này qua ấn phẩm “Life skills
mappingain Việt Nam”, được in bằng tiếng Việt và tiếng Anh là kết quả nghiên
cứu trong khuôn khổ hợp tác giữa UNESCO với Viện chiến lược và chương
trình giáo dục.
Giai đoạn 2: Đưa ra những chỉ dẫn đo đạc, đánh giá và xây dựng các công
cụ kiểm tra.
10


11


11

Như vậy, GDKNS cho học sinh là một vấn đề đang được nhiều nước trên thế
giới quan tâm. Ở một số quốc gia, GDKNS được lồng ghép vào các môn học, chủ
đề, nội dung có liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc trên thực tế.
Sau một thập kỷ áp dụng GDKNS trên thế giới, các cuộc nghiên cứu đánh
giá kết quả và cho thấy những thanh thiếu niên được GDKNS đã có những hành
vi đổi mới mang tính tích cực được phản ánh trong quan điểm tồn diện về chất
lượng tại diễn đàn giáo dục thế giới Dakar tháng 5 năm 2000, trường học thân
thiện với người học; trong đó, tiêu chí GDKNS vừa là một biểu hiện của chất
lượng, vừa để giúp học sinh sống an toàn.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam với sự hỗ trợ của UNICEF tại Việt Nam năm 2001, thông
qua dự án“Giáo dục sống khỏe mạnh, kỹ năng sống cho trẻ và vị thành niên”
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện kỹ năng sống cho học sinh phổ thông các
tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Gia Lai, Kon Tum, An Giang, Kiên Giang
và các thành phố Hải Phịng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Các em được
rèn luyện kỹ năng ứng phó với những tác động ảnh hưởng đến cuộc sống như:
phòng chống HIV/AIDS, ma túy, sức khỏe sinh sản, vấn đề quan hệ tình dục sớm
[4;Tr.137,38,43,44].
Chỉ thị 10/GD&ĐT năm 1995 hay chỉ thị 24/CT&GD năm 1996 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những những chỉ đạo về cơng tác phịng
chống HIV/AIDS hay tăng cường cơng tác phịng chống ma túy học đường tại
trường học ít nhiều cũng đã đề cập đến nội dung của thuật ngữ kỹ năng sống
[2;tr.40-43].
Năm 2008, Bộ GD&ĐT phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện – Học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013.
Năm hoc 2009-2010, lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh vào chỉ thị về nhiệm vụ năm học. Trong đó xác

định rõ GDKNS cho HS là một trong năm nội dung cơ bản của phong trào thi
đua này.
11


12

12

Từ năm 2010-2011, Bộ GD&ĐT đã tập huấn và triển khai GDKNS trong
một số môn học và hoạt động GD ở TH, THCS, THPT trên toàn quốc. Việc Bộ
GD&ĐT đưa mơn kỹ năng sống lồng ghép vào chương trình giáo dục hiện hành
là điều vô cùng cần thiết, thiết thực và đang được các nhà trường cũng như các
bậc phụ huynh quan tâm. Việc trang bị kiến thức và rèn luyện KNS để trẻ có thể
đối phó với các tệ nạn xã hội, áp lực cuộc sống, thích ứng và làm chủ hoàn cảnh
sống, trang bị hành trang vào đời cho các em ngày càng trở nên cấp bách ở các
trường phổ thơng nói chung và các trường phổ thơng dân tộc nội trú nói riêng.
Qua khảo sát của Viện Nghiên cứu của Môi trường và các vấn đề xã hội ( trực
thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam), tiến hành đối với hơn
1000 HS-SV thuộc các trường phổ thông, Cao đẳng, Đại học trên cả nước năm
2009 cho thấy, trên 95 % các em chưa nhận thức đúng về kỹ năng sống, 77,7%
chưa bao giờ được đào tạo, tập huấn về KNS, 76,4% cho biết rất cần được tập
huấn kiến thức về KNS và hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết sử
lý các tình huống thường gặp trong cuộc sống.
Trong năm học 2017-2018, Phòng Giáo dục và Đào tạo TP Buôn Ma
Thuột đã tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chương trình hành động của Chính phủ
triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo gắn với
thực hiện các phong trào thi đua của ngành trong tất cả các trường học và cơ sở
giáo dục. Bên cạnh đó, tăng cường nền nếp, kỷ cương, dân chủ trong nhà

trường; xây dựng môi trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện, phịng,
chống bạo lực học đường; tập trung nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học
và trình độ đào tạo; quan tâm phát triển phẩm chất, năng lực người học; chú
trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống và ý thức chấp hành pháp
luật cho học sinh, sinh viên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Kỹ năng sống
12


13

13

Cụm từ kỹ năng sống (life skills) được sử dụng rộng rãi vào mọi lứa tuổi
trong mọi lĩnh vực hoạt động. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng
sống nhưng thống nhất trên những nội dung cơ bản sau.
Trong từ điển Wikipedia: KNS là tập hợp các hành vi tích cực và khả
năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách
thực của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là
tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực
tiếp được dùng để sử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con
người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của
cộng đồng. KNS có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở
thành người tích cực và có ích cho cộng đồng.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) (1993): “Năng lực tâm lý xã hội là khả
năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc
sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạng
về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác
với người khác, với nền văn hóa và mơi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã

hội có vai trị quan trọng trong việc phá hủy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về
thể chất và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội
này”. Theo đó, WHO định nghĩa “KNS là những năng lực giao tiếp đáp ứng
những hành vi có tính thích nghi và tích cực, nó giúp cá nhân ứng phó một cách
hiệu quả với những đòi hỏi và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF). KNS là những kỹ
năng tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng
thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải
quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: Là những kỹ năng tinh thần hay
những kỹ năng tâm lý, kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại
và thích ứng với cuộc sống. Tác giả cho rằng kỹ năng sống nhìn dưới góc độ
năng lực tâm lý là những kỹ năng giúp con người tồn tại về mặt thể chất và mặt
tâm lý [24;tr.7-9].
13


14

14

Từ góc độ tâm lý học tác giả Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: Là một tổ
hợp phức tạp của một hệ thống kỹ năng nói lên năng lực sống của con người,
giúp con người thực hiện công việc và tham gia vào cuộc sống hằng ngày có kết
quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống [10; tr.2-4].
Theo cách hiểu đơn giản nhất kỹ năng sống cho học sinh thì đó là những
kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hịa nhập với
cuộc sống, kỹ năng làm việc, giúp các em tạo dựng khả năng làm chủ bản thân,
khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội và khả năng ứng
phó trước các tình huống của cuộc sống. Những kỹ năng này đã trở thành nhịp

cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực,
lành mạnh.
1.2.2. Giáo dục kỹ năng sống
GDKNS là một q tình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch
nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến thức và thái
độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện cơng
việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày …
GDKNS là giáo dục cách sống tích cực trong XH hiện đại, là xây dựng
những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ
sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng thích hợp.
GDKNS thông qua dạy học các môn học ở nhà trường là quá trình tổ chức
các hoạt động dạy học nhằm giúp người học vừa chiếm lĩnh được kiến thức,
hình thành được các kỹ năng khoa học của môn học, vừa rèn luyện những KNS
nhất định.
Như vây, GDKNS có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác giáo dục.
Bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI mà UNESCO đưa ra thực chất cũng là tiếp
cận KNS, nêu lên những vấn đề chủ chốt mà mỗi cá nhân cần được trang bị để
có một cuộc sống tốt đẹp cả về vật chất và tinh thần, đó là: “Học để biết, học để
làm, học để làm người và học để chung sống”.
- Học để biết (Learning to know): Kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán,
tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hiệu quả, …
14


15

15

- Học để làm (Learning to do): Kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm
vụ như: Kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm ….

- Học làm người (Learning to be): Kỹ năng cá nhân như: Ứng phó căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin, ….
- Học để sống với người khác (Learning to live together): Kỹ năng xã hội
như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể
hiện sự cảm thông, …..
1.2.3. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giáo dục giúp cho người
học hình thành và phát triển những thói quen, hành vi, thái độ tích cực, lành
mạnh trong việc ứng xử các tình huống của cuộc sống cá nhân và tham gia đời
sống xã hội, qua đó hồn thiện nhân cách và định hướng phát triển bản thân tốt
hơn dựa trên nền tảng các giá trị sống.
1.2.4. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là sự tác động có tổ chức, có
mục đích của chủ thể quản lý (Cán bộ quản lý) tới đối tượng quản lý (Giáo viên
và học sinh) nhằm đạt mục tiêu (kế hoạch, nội dung chương trình, phương pháp,
hinh thức tổ chức, sự phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường ) đề ra
nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh giúp cho các em hình thành hành vi,
thói quen phù hợp theo hướng tích cực để sống khỏe mạnh, an toàn và tốt đẹp
hơn.
1.3. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Phổ thông dân
tộc nội trú
1.3.1.Ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
ở trường PTDTNT trong giai đoạn hiện nay
1.3.1.1. Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống:
GDKNS đã và đang là vấn đề quan trọng trong việc giáo dục tồn diện
cho HS-SV và mọi lứa tuổi. Trí thơng minh, sự hiểu biết cùng với thái độ tích
cực chưa thể mang lại thành cơng hồn tồn mà cần có các kỹ năng trong cuộc
15



16

16

sống hàng ngày, cách ứng sử, giao tiếp… . Vậy GDKNS có ý nghĩa như thế nào
đối với cuộc sống của học sinh trong giai đoạn hiện nay.
+ GDKNS mang đến một xã hội tích cực, giảm thiểu các tệ nạn xã hội và
thúc đẩy những hành vi tích cực nhất khi phải đối mặt với những tình huống thử
thách, hoặc dễ dàng sô đẩy, sa ngã hay bị ảnh hưởng bởi những tác động môi
trường sống, làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng cao hơn, bảo đảm hơn và
hạnh phúc hơn.
+ GDKNS mang đến cho học sinh những thói quen tích cực, thói quen
lành mạnh về cảm xúc cũng như kiểm soát cảm xúc, hành vi và những suy nghĩ
tạo cho mỗi học sinh có được bản lĩnh, và thành công hơn trong cuộc sống.
+ GDKNS mang đến những giá trị sống, những quy tắc chuẩn mực trong
mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người. Bên cạnh đó
điều chỉnh hành vi phù hợp với những chuẩn mực xã hội.
+ GDKNS mang đến cho con người sự cân bằng những mục tiêu về vật
chất tránh những hành vi thiếu trung thực, không hợp tác hoặc vị kỷ cá nhân.
1.3.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống
+ Thực tế cho thấy KNS giúp con người biến kiến thức thành hành vi, thái
độ, thói quen tích cực. Người có KNS ln lạc quan, tự tin trước những khó
khăn, thách thức và bình tĩnh đưa ra cách giải quyết phù hợp. Vì thế, họ luôn
thành công hơn trong cuộc sống và ngược lại những người thiếu KNS họ dễ vập
ngã, dễ mắc phải những sai lầm và khó có cơ hội trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào
trạng thái tiêu cực luôn căng thẳng, bế tắc điều đó ảnh hưởng lớn đến cơng việc,
sức khỏe và cuộc sống.
+ Đối với học sinh, GDKNS là u cầu cấp thiết bởi vì:
Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ
quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy, nếu khơng có KNS các em sẽ khơng

thể thực hiện được nhiệm vụ đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
Ở lứa tuổi các em, nhân cách đang được hình thành, ham thích khám phá,
tìm tịi, tị mị những cái mới lạ, muốn khẳng định mình, … nhưng lại thiếu kinh
16


17

17

nghiệm sống. Vì vậy, các em rất cần được trang bị những nội lực tâm lý để đối
phó với những khó khăn, thách thức và cám dỗ của cuộc sống. Đặc biệt là trong
bối cảnh kinh tế thị trường và xu thế hội nhập hiện nay, các em luôn phải chịu
các tác động của cả yếu tố tích cực và tiêu cực, ln đặt trong hồn cảnh lựa
chọn giá trị, đương đầu với khó khăn thách thức, chịu các áp lực tiêu cực. Nếu
các em không được trang bị KNS sẽ rơi vào các hành vi tiêu cực, bạo hành, mặc
cảm, thực dụng, mất lòng tin. Những hiện tượng tiêu cực trong bộ phận HS hiện
nay như đua xe, bạo lực học đường, nghiện hút … cũng một phần do các em
thiếu KNS mà ra. Đồng thời, cùng với sự thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã
hội và truyền thống văn hóa cũng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống gia đình.
Chính vì vậy mà nó tác động rất lớn đến sự phát triển của các em. Nhiều gia
đình do mưu cầu cuộc sống, mải mê với cơng việc nên đã khơng có thời gian,
điều kiện để chăm sóc, quan tâm con cái một cách đầy đủ, đặc biệt là mặt tinh
thần điều đó đã làm nhiều em rơi vào tình trạng bị bỏ rơi. Ngồi ra, sự chia sẻ,
cảm thông, hiểu biết giữa các thành viên trong gia đình khơng có đã khiến các
em cảm thấy lạc lõng, khủng hoảng tinh thần một cách nặng nề.
Vì vậy việc GDKNS cho các em là khôn xiết cấp thiết để các em có khả
năng đối phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng các mối
quan hệ vững bền trong gia đình và ngồi xã hội, có lối sống lành mạnh, hài hịa,
tích cực, chủ động.

Cho nên, GDKNS có tầm quan trọng đặc biệt trong cơng tác giáo dục mà
theo UNESCO đã nêu lên những vấn đề chủ chốt mà mỗi cá nhân cần được
trang bị để có cuộc sống tốt đẹp cả về vật chất và tinh thần, đó là: Học để biết,
học để làm, học để làm người, học để chung sống.
Theo UNICEF, Giáo dục kỹ năng sống là sự thay đổi hành vi hay một sự
phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn
gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang
làm gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động
(làm gì, và làm như thế nào) [22].
17


18

18

1.3.2. Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông dân tộc
nội trú
Giáo dục KNS cho học sinh PTDTNT với những mục tiêu sau đây:
Giúp HS:
1.3.2.1. Về kiến thức
- Tìm hiểu nội dung của KNS, tạo hứng thú trong việc khám phá các KNS
theo những hình thức khác nhau.
- Nhận biết các KNS của bản thân, của người khác và của thế giới.
- Nhận biết tác động của những hành vi, phịng ngừa những hành vi khơng
tốt có hại cho bản thân, ứng xử tích cực và tiêu cực trong hành vi giao tiếp...
1.3.2.2. Về kỹ năng
- Biết ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, có khả năng thích ứng, biết
cách ứng phó trước những tình huống khó khăn, căng thẳng trong giao tiếp hàng
ngày của các học sinh.

- Có những kỹ năng để bảo vệ trước những vấn đề của xã hội có thể ảnh
hưởng không tốt đến cuộc sống, sức khỏe lành mạnh và an tồn của các em.
- Biết sống có trách nhiệm với bản thân và bạn bè, gia đình và xã hội cũng
như môi trường xung quanh.
- Vận dụng các phương pháp tích cực để giải quyết hợp lý các mâu thuẫn,
xung đột...
- Tạo cho các em những cơ hội, hướng suy nghĩ, hướng đi tích cực, giúp
các em có những quyết định và sự lựa chọn đúng đắn những vấn đề của cuộc
sống …
1.3.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông dân tộc
nội trú
1.3.3.1. Một số đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh phổ thơng dân tộc
nội trú
Ở các trường PTDTNT có 2 cấp học: Cấp THPT và cấp THCS

18


19

19

- Học sinh THCS còn gọi là tuổi thiếu niên được tính từ 11 – 15 tuổi. Lứa
tuổi này cịn có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Hay còn
gọi với tên khác: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi bất trị”, “tuổi khủng
hoảng”…. Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và đây là thời kỳ chuyển từ
thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Đây là giai đoạn khó khăn, phức tạp và đầy
mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Sự khác biệt ở lứa tuổi HS THCS với các
em ở lứa tuổi khác là thời kỳ dậy thì với những biến đổi mạnh sự phát triển
mạnh mẽ về thể chất và tâm lý, thiếu cân đối về mặt trí tuệ, đạo đức làm cho trẻ

ý thức rằng “mình khơng cịn là trẻ con nữa”. Trong khi đó, cách nhìn nhận của
người lớn đối với thiếu niên vẫn coi chúng là “trẻ con” đã dẫn đến những mâu
thuẫn, những “xung đột” giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy cô với học sinh, giữa
bạn bè cùng lứa tuổi và đặc biệt là vẫn đề tự mâu thuẫn cá nhân. Sự xuất hiện
những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết quả của sự biến đổi cơ thể, của sự
tự ý thức, của các kiểu giao tiếp với người lớn, với bạn bè, của hoạt động học
tập, hoạt động xã hội…..
Tuy nhiên lứa tuổi này có những thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp với
người lớn, với bạn bè. Giao tiếp với bạn bè đã trở thành nhu cầu rất lớn: Một
mặt, các em rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, các
em có nguyện vọng được sống tập thể, có những bạn bè thân thiết tin cậy. Mặt
khác, cũng biểu hiện không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận,
thừa nhận, tôn trọng mình [10, tr.48-50]. Đồng thời, các em tìm thấy được sự
bình đẳng, tìm được một vị trí ở bạn bè, ở tập thể, ln mong muốn có người
bạn thân để chia sẻ, giãi bày tâm sự, vướng mắc mà các em khơng thấy hoặc ít
thấy được khi các em giao tiếp với người lớn. Vì vậy, các em có xu hướng muốn
tách khỏi người lớn và coi người bạn thân như “cái tơi thứ hai của mình”.
Tuy nhiên lứa tuổi này cũng rất dễ bị ảnh hưởng những tiêu cực hoặc nảy
sinh những tiêu cực như phá phách, bị bạn xấu lơi kéo, qn học hành, ăn chơi
hoang phí, lừa dối bố mẹ, thầy cô giáo. Từ những ảnh hưởng nhỏ đến những ảnh

19


20

20

hưởng lớn sẽ làm cho các em ngày càng trượt ra khỏi khn khổ bình thường
của gia đình, nhà trường, xã hội.

Chính vì vậy, gia đình, nhà trường, thầy cơ giáo, phải ln quan tâm, nắm
bắt tâm tư, tình cảm của từng em để kịp thời uốn nắn, giúp đỡ các em đi theo
đúng hướng tích cực. Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục để các em
phát triển thể lực, phong phú về tâm hồn, đặc biệt là hình thành ở các em những
định hướng giá trị, những kỹ năng sống tốt.
- Học sinh THPT nằm trong độ tuổi vị thành niên là giai đoạn cuối của
tuổi vị thành niên và giai đoạn giữa của tuổi thanh niên từ 15-18 tuổi. Trong giai
đoạn này các em phát triển mạnh mẽ về thể chất, tinh thần cũng như nhận thức,
cảm xúc và tâm sinh lý. Ở các em luôn có xu hướng tự khẳng định mình, muốn
làm chủ bản thân, muốn tìm tịi, khám phá những cái mới, những điều chưa biết
trong cuộc sống. Bên cạnh đó, các em cũng thể hiện tính chất phức tạp, khơng
chịu sự ràng buộc nên dễ nổi cáu, dễ va chạm với bố mẹ, người lớn và với
những chuẩn mực xã hội, đôi lúc q vui vẻ, sơi nổi, nhiệt huyết, nhiệt tình,
thích làm cái gì thì địi làm bằng được song dễ chán, dễ buông khi gặp trở ngại.
Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì sự trưởng thành vể mặt thể chất, nhân
cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của
lứa tuổi.
Đối với lứa tuổi các em, giao tiếp với bạn bè chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống tinh thần. Các em thường tìm những bạn cùng sở thích hoặc có
tính cách phù hợp để vui chơi, đùa nghịch nhưng đơi khi lại có những hành động
khơng phù hợp với lứa tuổi. Các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của nó cũng
giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính cách dễ bị kích thích này khơng phải
chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó cịn do cách sống của cá
nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi …)
Nhìn chung ở tuổi này thể chất của các em đang ở tuổi phát triển mạnh mẽ
rất sung sức, nên người ta thường nói: “Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Sự phát triển
thể chất ở lứa tuổi này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách. Tính
20



21

21

tình của các em phần nào trầm tính hơn so với lứa tuổi thiếu niên, có suy nghĩ
sâu hơn, hầu hết các em đều rất vui vẻ, tự chủ, tự tin, yêu đời. Song cái nhìn về
mọi việc của các em vẫn còn rất đơn giản, dễ dàng, hiếu thắng, có những hành
động thiếu suy nghĩ nên nhiều khi vi phạm mà bản thân vẫn khơng biết.
Trong gia đình, các em bắt đầu quan tâm chú ý đến nề nếp, lối sinh hoạt
và điều kiện kinh tế chính trị của gia đình. Có thể nói rằng cuộc sống của các em
trong độ tuổi này là vừa học tập vừa lao động.
Ở trường học, đòi hỏi các em tự giác, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo,
tích cực độc lập hơn, phải biết cách vận dụng trí thức một cách sáng tạo, nội
dung học tập không chỉ nhằm trang bị tri thức và hồn chỉnh tri thức mà cịn có
tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho các em.
Ở xã hội, các em tham gia vào các hoạt động xã hội, tiếp xúc với nhiều
tầng lớp xã hội khác nhau, quan hệ xã hội mở rộng, cuộc sống da dạng phức tạp,
đời sống tình cảm các em trở nên phong phú, nhu cầu cao về tình bạn như sự
chân thành, đồng cảm, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Mối quan hệ nam, nữ có
sự phân hóa rõ ràng. Nhiều em đã xuất hiện dấu hiệu của một tình cảm mới như
tình bạn thân thiết, tình yêu tuổi học trò trong sáng, hồn nhiên, chân thành và
giàu cảm xúc. Tuy nhiên, bố mẹ, thầy cô, luôn phải gần gũi, nhắc nhở, động
viên, giáo dục các em kịp thời để hướng các em có những suy nghĩ và hành
động đúng, một tình u chân chính, hiểu biết và tơn trọng.
Có thể nhìn nhận, ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có hình dáng người
lớn, có những nét của người lớn nhưng chưa phải là người lớn, còn thái độ đối
xử của người lớn với các em thường thể hiện tính chất hai mặt đó là: Một mặt
người lớn luôn nhắc nhở các em đã lớn và địi hỏi các em phải có tính độc lập,
phải có ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý. Nhưng mặt khác lại địi hỏi các em
phải thích ứng với những đòi hỏi của người lớn..

Phần đa học sinh tham gia học tập tại các trường PTDTNT đều sống ở
những vùng xa, các xã, huyện hoặc các tỉnh Tây Nguyên khác, khi đến trường
các em cịn gặp nhiều khó khăn, nhiều bỡ ngỡ, xa lạ và khó hịa nhập. Lúc này
21


22

22

giáo dục trang bị cho các em những kỹ năng sống là nhiệm vụ rất cần thiết trong
các trường PTDTNT.
1.3.3.2. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông dân tộc
nội trú
Học sinh dân tộc nội trú cịn nhiều hạn chế về giao tiếp, khả năng phán
đốn chưa cao, thích ứng với mơi trường cịn hạn chế, luôn bị động trước các
vấn đề của cuộc sống, thiếu hụt nhiều kỹ năng sống, kỹ năng thực hành, thói
quen sinh hoạt cịn lạc hậu, ln rút rè, nhút nhát, không tự tin, …….
Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường PTDTNT chủ
yếu tập trung vào nhóm kỹ năng sau đây:
Nhóm kỹ năng tự bảo vệ bản thân gồm những KNS: Kỹ năng tự phục vụ
bản thân, kỹ năng ứng phó với các tình huống cuộc sống, kỹ năng ứng phó với
biến đổi khí hậu như động đất, sóng thần, bão lụt, ứng phó với các tai nạn như
bỏng, cháy nổ, điện, tai nạn đuối nước; kỹ năng kiểm sốt tình cảm, kìm chế thói
hư tật xấu, sở thích cá nhân, biết phân biệt đúng - sai, chống lại những cám dỗ từ
các tệ nạn xã hội, phịng chống xâm hại tình dục, kỹ năng ứng phó với những
tình huống bạo lực học đường, …
Nhóm kỹ năng nhận thức gồm những KNS: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ
năng đặt mục tiêu, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên
định, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng lắng nghe.

Nhóm kỹ năng xã hội gồm những KNS: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương
lượng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng hợp tác, kỹ năng hòa nhập.
Sau đây là những kỹ năng cơ bản cần hình thành cho học sinh PTDTNT:
Kỹ năng tự nhận thức
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng mà chính bản thân con người hiểu và
đánh giá đúng về chính mình về sở thích, thói quen, tình cảm, thái độ, cách suy
nghĩ điểm mạnh, điểm yếu cũng như các mối quan hệ xã hội của bản thân; quan
tâm và ln ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm
thấy căng thẳng.
22


23

23

Tự nhận thức là cơ sở rất quan trọng và là nền tảng giúp con người giao
tiếp có hiệu quả và có tinh thần trách nhiệm cũng như cách ứng xử phù hợp đối
với người khác.
Tự nhận thức giúp bản thân có những quyết, những sự lựa chọn đúng đắn,
phù hợp với khả năng của bản thân và tình hình thực tế cũng như yêu cầu của xã
hội. Để nhận thức đúng về bản thân, học sinh cần phải được trải nghiệm qua
thực tế, qua giao tiếp với người khác và phải có sự hiểu biết rõ về bản sắc dân
tộc và nền văn hóa của nơi mà các em được sinh ra từ đó mới có thể đánh giá
được mặt tốt và mặt còn hạn chế, chưa tốt của bản thân các em.
Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng mỗi người thể hiện qua lời nói hoặc hành
vi, cử chỉ để diễn đạt suy nghĩ, ý kiến, cảm xúc trước sự tác động của người
khác đến mình trong một tình huống cụ thể.
Kỹ năng giao tiếp còn thể hiện các mối quan hệ giữa con người và con

người, giữa cha mẹ và con cái, giữa gia đình và học hàng, lối xóm, giữa thầy cơ
và học sinh, giữa bạn bè cùng trang lứa …. .
Thông qua kỹ năng giao tiếp, cũng như cách ứng xử sẽ giúp cho mỗi cá
nhân tự đánh giá và để lại chiều sâu con người trong lòng người đối diện để từ
đó có thể kiểm tra, điều chỉnh bản thân, soi mình trong người khác để nhận ra
giá trị của bản thân và giá trị của cuộc sống.
Kỹ năng giao tiếp giúp học sinh biết cách giao tiếp, ứng xử một cách phù
hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, biết lắng nghe, biết cảm thông,
chia sẻ những khó khăn của người khác và biết cách xây dựng mối quan hệ với
bạn bè mới và đây là những yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống.
Kỹ năng xác định giá trị
Là khả năng mỗi người xác định rõ những thái độ, niềm tin, cách suy nghĩ
và những điều được coi là quan trọng của chính bản thân mình nhằm giúp cho
mỗi cá nhân hành động theo phương hướng phù hợp với giá trị của mình.
23


24

24

Qua thời gian, qua các giai đoạn trưởng thành của con người thì giá trị
cũng thể thay đổi. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục, vào nền văn hóa, vào mơi
trường sống, học tập và làm việc của cá nhân.
Chính vì vậy, đối với các em học sinh học tập, lao động sẽ giúp các em trở
nên có giá trị hơn, phát triển bản thân nhiều hơn, giúp các em giao tiếp, tự tin có
ích cho chính mình và cho xã hội.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin
Là kỹ năng mà mỗi mà mỗi cá nhân thể hiện những thế mạnh của bản thân
trước người khác hay trước tập thể, cho người khác thấy được bản lĩnh của bản

thân khi thực hiện công việc.
Tự tin là nền tảng của thành cơng. Nó giúp con người rèn luyện bản lĩnh,
nhân cách và nắm bắt kịp thời các cơ hội mà cuộc sống mang đến.
Tự tin vào bản thân là một yếu tố rất quan trọng trong cuốc sống của mỗi
người và nó cũng cực kỳ quan trọng đối với học sinh dân tộc nội trú, hầu hết các
em đến từ những vùng thôn, buôn nên sự rụt rè nhút nhát luôn hiện hữu trên các
gương mặt. Vì vậy kỹ năng này giúp cho các em có được niềm tin vào bản thân,
các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp, lạc quan trong cuộc sống, hịa nhập vào
cộng đồng. Do đó, hãy hành động bằng tất cả sự tự tin của mình. Hãy dùng sự tự
tin đó để củng cố sực mạnh nội tại của các em cũng như của người xung quanh.
Kỹ năng đối đầu và ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống
Kỹ năng đối đầu và ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống là kỹ
năng mà mỗi cá nhân biết xác định và phân biệt được những khó khăn, cản trở
làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của mỗi người. Từ đó vượt qua một
cách dễ dàng để đi đến những mục tiêu đã lựa chọn.
Khó khăn trong cuộc sống thường mang lại cho con người 2 giá trị: Giá trị
tích cực và giá trị tiêu cực. Giá trị tích cực là ở đó khi con người đối diện với
những khó khăn thì đó chính là động lực để con người ta phấn đấu vượt qua và
24


25

25

hồn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc cịn giá trị thiếu tích cực là khi đối đầu
với những khó khăn, những thách thức trong cuộc sống làm cho mỗi cá nhân
cảm thấy mệt mỏi và chán chường, không dám đối mặt …
Một số kỹ năng để đối đầu và ứng phó với những khó khăn trong cuộc
sống: Kỹ năng lùi lại để nhận diện vấn đề một cách khách quan, đầy đủ và phù

hợp nhất. Nhận diện vấn đề một cách thận trọng và đặt ra các câu hỏi liên quan.
Điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp cho vấn đề được xác định.
Hãy tăng cường các kỹ năng giao tiếp với người khác để học cách trải nghiệm
cuộc sống và tìm thấy những kinh nghiệm quý giá từ người khác. Có thể tiếp
cận các vấn đề mới qua sách báo, phương tiện truyền thông để chuẩn bị một
khối lượng kiến thức hay là những hiểu biết đơn giản nhất để ứng phó mỗi khi
gặp phải. Giữ vững tinh thần và cuộc sống với những quan niệm sống rõ ràng,
tích cực ,….
Kỹ năng tự phục vụ bản thân
Mỗi cá nhân tự xác định và trang bị cho mình những kỹ năng phục vụ
chính mình là một việc làm có giá trị cho cuộc sống mỗi người. “Ta chính là
người đi trên bước chân của mình chứ khơng phải của ai khác”. Để đi trên chính
đơi chân của mình thì mỗi cá nhân sẽ trang bị cho mình những kỹ năng tự phục
vụ bản thân như: kỹ năng sống tự lập, kỹ năng quản lý bản thân tránh những
hành vi tiêu cực … [20; tr52-55].
Đối với học sinh ở các trường dân tộc nội trú thì kỹ năng tụ phục vụ bản
thân vô cùng quan trọng. Ở nội trú các em không sống gần bố mẹ, hay người
thân vì vậy các em cần phải tự phục vụ được cho chính bản thân mình khơng
những làm cho gia đình, người thân xung quanh và xã hội khơng cịn lo lắng hay
bất an. Bên cạnh đó, bản thân các em sẽ thấy tự tin hơn, cuộc sống trở nên dễ
dàng và biết giúp đỡ người khác một cách thật lòng và hiệu quả.

25


×