Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Các bài văn mẫu ôn tập HKI lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.82 KB, 20 trang )

CÁC BÀI VĂN MẪU ÔN TẬP HKI
I. THƠ TRUNG ĐẠI.
*TỰ TÌNH:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
1. Phân tích 4 câu thơ đầu:
Hồ Xuân Hương -một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà
chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ về
vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau thân
phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong rất nhiều bài thơ của bà, và một trong
những bài thơ đó khơng thể khơng nhắc đến bài Tự tình II.Văn bản nằm trong chùm thơ
Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất qn nỗi tự thương mình trong tình
cảnh cơ đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện
sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận
về thất bại cay đắng. Bốn câu thơ đầu trong bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như
tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất muốn vượt lên trên số phận của nữ sĩ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Tâm trạng của tác giả đã được gợi lên trong đêm khuya, và cảm thức về thời gian đã
được tô đậm, nhấn mạnh để làm nền cho cảm thức tâm trạng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, khi con người chìm sâu vào giấc ngủ,


nhưng cũng chính là lúc người ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ Xuân
Hương nhận ra được cảnh đáng thương của mình. Sự cơ đơn, lẻ bóng một mình gắn liền
với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác thật đáng thương cho thân phận người phụ
nữ. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật lấy động nói tĩnh: âm thanh “văng vẳng”
của tiếng trống cầm canh để nói lên một khơng gian tĩnh lặng, vắng vẻ. Chính cái khoảnh
khắc ấy, tự soi vào mình, tác giả thấy “trơ” mà đặc biệt nó cịn được đặt ở đầu câu, càng
thêm nhấn mạnh nỗi đau, bất hạnh về đường tình duyên, số kiếp “hồng nhan bạc phận”
của chính tác giả. “Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó là “cái
1|Page


hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ, thường được dùng trong xã hội xưa.
Nhưng điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ đẹp của người phụ nữ lại gọi là “cái”
gợi cho người đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non
không chỉ là sự cay đắng, tủi hổ mà cịn là nỗi xót xa, thấm thía, càng ngẫm càng thương
thân. Nhưng chữ “trơ” ở đây một phần cũng có thể hiểu được đó chính là sự gan dạ của
Xuân Hương, là sự thách thức. Để nhấn mạnh điều này, tác giả đã dùng nhịp thơ: 1/3/3 để
nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.
Nối tiếp hai câu đề, tác giả viết:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”
Với hai câu thơ thực trên, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ được hiện lên rõ hơn. Khi
sầu, người ta thường làm bạn với rượu, để có thể qn đi mọi thứ khơng vui, những nỗi
đau. Nhưng rượu cũng không thể làm cho nhân vật vơi đi nỗi cô đơn, sầu muộn. Chén
rượu uống vào mà lại càng tỉnh hơn, để nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi cơ đơn,
lẻ bóng của mình. Tìm đến trăng làm bạn, để tâm sự trị chuyện thì lại nhận ra thực tại
phũ phàng. Nỗi niềm chất chứa đã thấm dần và lan vào cảnh vật. Quả thực
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Hai câu thơ tác giả sử dụng rất thành công cụm từ: “say lại tỉnh” cho thấy cái vịng luẩn

quẩn, tình dun trở thành trị đùa của tạo hóa, càng uống lại càng tỉnh, lại càng nhận ra
sự hẩm hiu dun phận của chính mình; “khuyết chưa trịn” vầng trăng là ngoại cảnh mà
cũng chính là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa cảnh vật và con người. Trăng sắp tàn
mà vẫn khuyết cũng như con người tuổi xn vội vã trơi qua mà tình dun vẫn chưa trọn
vẹn. Bốn câu thơ đầu đã khắc họa sâu sắc nỗi đau, bi kịch của người phụ nữ trong xã hội
cũ.
Hồ Xuân Hương là bậc thầy trong sử dụng ngơn ngữ, thơng qua khả năng diễn đạt
tư tưởng, tình cảm của nhân vật trữ tình: tả âm thanh (văng vẳng), tả cảm giác (trơ, say,
lại tỉnh, ngán), tả động thái (xiên ngang, đâm toạc),… Nghệ thuật đảo ngữ tài tình (xiên
ngang, đâm toạc). Giọng điệu thơ phẫn uất, tủi hờn. Tất cả đã hòa quyện với nhau để
diễn tả sự cô đơn, thân phận bé nhỏ của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Như vậy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu đạt kết hợp với những
biện pháp tu từ như đảo ngữ, cùng những sáng tạo trong việc xây dựng hình tượng, bốn
câu thơ đầu của bài thơ “Tự tình II” đã làm nổi bật cảm thức về thời gian, cho thấy tâm
trạng buồn tủi cũng như ý thức sâu sắc về bi kịch duyên phận đầy éo le, ngang trái của nữ
sĩ Hồ Xuân Hương.Chính những yếu tố trên đã giúp bà trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”,
đồng thời cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương và tiếng nói tự
ý thức đầy bản lĩnh.
*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
2|Page


2. Phân tích 4 câu sau:
Hồ Xuân Hương -một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà
chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ về
vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau thân
phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong rất nhiều bài thơ của bà, và một trong

những bài thơ đó khơng thể khơng nhắc đến bài Tự tình II.Văn bản nằm trong chùm thơ
Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất qn nỗi tự thương mình trong tình
cảnh cơ đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện
sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận
về thất bại cay đắng. Nếu bốn câu thơ đầu đã khắc họa sâu sắc nỗi đau, bi kịch của người
phụ nữ trong xã hội cũ thì ở bốn câu thơ tiếp theo ta lại thấy được cá tính mạnh mẽ, sự
phản kháng của Hồ Xuân Hương với cái éo le của số phận người phụ nữ, sợ quãng đời
xuân qua mau mà tình duyên chưa tới:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hịn
Ngán nỗi xn đi, xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Sau những gắng gượng tìm qn khơng thành, nỗi niềm trong nhà thơ biến thành
những niềm phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Các động từ mạnh “xiên, đâm” kết hợp với “ngang, toạc” đã thể hiện sự ngang ngạnh,
phẫn uất đến tột cùng của nhân vật trữ tình. Nếu như người phụ nữ trung đại nổi bật lên
với tính cách cam chịu, khuất phục trước số phận thì ở đây lại xuất hiện một người phụ
nữ hoàn toàn khác. Những sinh vật nhỏ bé đường kia không chịu mềm yếu trước hoàn
cảnh thực tại, phải mọc xiên, đâm ngang để tìm sự sống. Đá phải kiên cường, rắn chắc để
có thể đâm toạc chân mây. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu thơ đã cho thấy sự phẫn uất
của cỏ cây, đá đó đồng thời cũng chính là nỗi niềm của con người trước thực tại cuộc
sống. Bởi vậy, hình ảnh rêu xiên ngang, đá đâm toạc chân mây cũng chính là sự phản
kháng của người phụ nữ trước thực tại nhiều bất công, ngang trái. Phản ứng mạnh mẽ, dữ
dội nhưng thực tại vẫn chua xót. Đêm đã về khuya, giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề
mịt mùng bao la ấy, người đàn bà hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng
thế mà trong bài "Tự tình", nữ sĩ đã buồn tủi viết:
"Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?".

Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lịng một người đàn bà cơ đơn. Khao khát
được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác. Nhưng
3|Page


"hồng nhan bạc mệnh"! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp mắt được,
trằn trọc, buồn tủi, thân đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi xn trở về, mà tình
u chỉ được "san sẻ tí con con", phải cam chịu cảnh ngộ:
"Ngán nỗi xuân đi, xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con".
Xn đi qua, xuân trở lại, nhưng với người phụ nữ thì "mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân
đi"... Chữ "ngán" nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì q lứa, đang trải
qua sự mịn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát thành nhiều
"mảnh", thế mà chua chát thay chỉ được "san sẻ tí con con". Câu thơ là tiếng than thân
trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ? Tinh đã vỡ
ra thành "mảnh" lại cịn bị "san sẻ", đã "tí" lại "con con".Mỗi chữ như rưng rưng những
giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ nói rõ thêm trọng bài "Lấy chồng
chung":
" Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bơng, kẻ lạnh lùng,
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đơi lần có cũng khơng!".
Với ngơn ngữ thơ nôm giản dị, tự nhiên nhưng cũng sắc nhọn, với các biện pháp
nghệ thuật đảo, đối, dùng động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình…bài thơ thể hiện tâm trạng vừa
đau đớn, vừa phẫn uất trước duyên phận, nhưng vẫn cố gắng vươn lên với khát khao
sống, khát khao hạnh phúc mãnh liệt, tuy vẫn rơi vào bi kịch.Tóm lại, “Tự tình” (II) thể
hiện bản lĩnh Hồ Xuân Hương qua tâm trạng đầy bi kịch : vừa buồn tủi, phẫn uất trước
tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được sống hạnh phúc. Đọc bài thơ, ta vừa
thương xót cho số phận bất hạnh, vừa khâm phục bản lĩnh cứng cỏi của nữ sĩ. Bài thơ là
minh chứng tiêu biểu cho tài năng ngôn ngữ của “bà chúa thơ Nôm”.

*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
4|Page


*THƯƠNG VỢ: 
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Một dun, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản cơng.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như khơng!
1. Phân tích 4 câu thơ đầu:
Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đổi thay của
nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả
giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ cịn là
thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng.Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ
tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài
thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thơng,
chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng.
Chỉ với bố câu thơ đầu tiên cũng đã phần nào nói lên được sự vất vả tần tảo chịu thương

chịu khó của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công
việc làm ăn của vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Bà Tú bn bán ấy là cơng việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ
đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt tháng,
liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Mom sơng là
khơng gian làm ăn của bà.Đó là chỗ đất nhơ ra ở bờ sơng Vị hồng chảy qua thành phố
Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống
sông bất cứ lúc nào. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả,
cực nhọc trong công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sơng, thời gian quanh năm tơ
đậm hơn hình ảnh của bà Tú tần tảo, ngược xi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến
bà Tú càng rõ nét hơn.Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình,
cịn ơng chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ.
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa
con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai
5|Page


miệng ăn.Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm
no, áo đủ mặc mà cịn phải có ít rượu cho ơng ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng
bè bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè
nặng lên đôi vai bà Tú.Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi
cho chồng, việc làm ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sống êm ả bước vào

dịng đời xơ bồ để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi
sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hồn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của
vợ chứng tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm.
Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm thông, chia sẻ:
Lặn lội thân cị khi qng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Cơng việc của bà đến đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bà Tú lặn lội ngược xi lúc một
mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi và giành giật ngay trên sơng với những chuyến
đị đơng khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bà là vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất
gay go của cuộc mua bán. Thương trường là chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau
miếng ăn, té ra bà Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên
sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca:
Cái cò lặn lội bờ sơng
Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non.
Con cị xưa và thân cị dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng
làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cị đâu, gầy
lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái đơn độc,
lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đị đơng,
nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho chồng, con.Ơng Tú
thấu hiểu điều ấy. Và ơng đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi niềm chất
chứa tâm can. Ơng cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca ngợi bà vì bà
hết lịng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lịng ơng: Tự trách
mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng.
Vậy là với bốn câu thơ đầu của bài thơ “Thương Vợ”, Tú Xương đã phần nào bộc lộ
được tình cảm của mình dành cho bà Tú – người vợ đảm đang, tận tụy, hết mình vì chồng
vì con của mình. Khơng chỉ bộc lộ tình cảm với vợ, 4 câu thơ cịn thể hiện nỗi niềm chua
xót của người con đất Vị Hồng. Đường đường là đàn ông sức dài, vai rộng mà lại sống
bám vào vợ, ăn ké theo đám con. Quả thật, hai câu thơ thực sự đã hằn lên một nỗi niềm
tủi hổ, cay đắng rất Tú Xương.
*NOTE:………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
6|Page


2. Phân tích 4 câu sau:
Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đổi thay của
nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả
giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ cịn là
thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng.Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ
tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài
thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thơng,
chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng.
Nếu trong 4 câu thơ đầu tác giả miêu tả cuộc song và cơng việc vất vả của bà Tú thì ở 4
câu thơ cuối, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà, lời thơ như lời độc thoại của
người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản cơng
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản cơng
Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ơng hoặc bà đều được.

Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lịng mình với bao
nỗi xót xa tủi cực. Ơng Tú vì tấm lịng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà. Dùng lối nói
dân gian vợ chồng là duyên là nợ. Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà
như vậy vừa là duyên, vừa là nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít,
cực nhọc do nợ là phần nhiều, số phận là thế thì đành chấp nhận. Dám quản cơng tức
khơng dám nề hà, khơng dám kể cơng dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười
mưa. Đã vận vào cái số phận làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành
phận cũng khiến cho cảm xúc bị dồn nén nhiều hơn.Hẳn bà Tú không ít lần bực mình,
thấy đời sao q bất cơng, muốn phản kháng nhưng bà đã dặn lòng an phận, chấp nhận
im lặng đến nhẫn nhuc, cam chiu. Nước mắt bà chảy ngược vào trong, bà giữ chặt lịng
mình, khơng muốn cho ai biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười
cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn
với công việc không bao giờ ngừng nghỉ.Đến đây, Tú Xương nhập hẳn mình vào vợ để
lắng nghe từng nỗi niềm u uẩn của bà. Ẩn đằng sau ấy là bao nỗi niềm của ông, một
người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mà không giúp được gì? Câu thơ tốt lên ý
thương vợ, tự trách rất sâu sắc.
Hai câu cuối, tình cảm như được bộc phát mạnh mẽ, khơng phải lời tâm tình nhẹ
nhàng như trước mà là tiếng chửi độc:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng.
Tiếng chửi khơng phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ơng Tú mong bà
chửi để gánh nặng lịng ơng được vơi bớt, chí ít vì bà coi ơng khác lũ con. Sự dồn nén,
bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám, vô
7|Page


lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xi vất vả cịn xứng là chồng khơng?
Ơng tự kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm.Sự hờ hững ấy của
ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất đến
mấy bà Tú củng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không

được sẻ chia sẽ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bà đâu cần, có cũng
như khơng thậm chí cịn khổ hơn khơng chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ
của Hồ Xuân Hương:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thơi đành ở vậy xong.
Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ
biến, thường diễn ra.Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ
sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm,
trọng sĩ diện, danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà
hướng người đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và
niềm đau khổ của người vợ.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ “ Thương vợ” nói chung là tiếng lòng chân thành vừa
ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách,
tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài
thơ giàu cảm xúc, chân thực như vậy.Chất trữ tình và trào phúng quyện hịa trong nhau
đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa
trong lịng nhà thơ vốn căm ghét thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi
đến những người chồng bức thơng điệp: hãy nói lời u thương chia sẻ thật nhiều với
người vợ.
*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………....
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................

................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
8|Page


*CÂU CÁ MÙA THU:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
1. Phân tích 4 câu đầu:
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp khơng nhỏ trong nền
văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc
đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm
trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một
bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện
tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ. Trong đó, bốn câu thơ đầu đã phác họa
nên bức tranh mùa thu tĩnh lặng, mang đặc trưng của làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và
yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”
Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn Khuyến
thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm trũng đất Bắc.
Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ sự trong vắt, trong
đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời điểm này khơng cịn là
thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc cuối thu nên mới “lạnh lẽo”
đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh với ao thu trong
veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu
rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở
nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẹo
teo” khiến cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở
đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo
mang một chút buồn. Xuân Diệu từng nhận xét: “…Thu điếu (Câu cá mùa thu) là điển
hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của thi nhân không chỉ gây
ấn tượng ở màu sắc, không những đẹp trong từng nét họa mà còn vang động những thanh
âm rất riêng. Ao thu hiện ra qua hai tính từ: “lạnh lẽo” và “trong veo” – ao lạnh, nước yên

9|Page


và trong đến tận đáy. Ở đây, cái trong đã song hành cùng cái tĩnh: càng trong lại càng
tĩnh, càng tĩnh lại càng trong.
Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh
lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy chỉ nhẹ
nhàng, khe khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn tí” cịn “lá
vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ
nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải tinh tế lắm mới nhận
ra sự khe khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho người đọc một màu xanh
biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có sắc thái biểu cảm. Khơng chỉ có
sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người
ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã
từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn
Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt,
những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió
thu, tiếng cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã
khơi gợi trong lịng chúng ta bao hồi niệm đẹp về q hương đất nước.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự
nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ
như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân
Diệu đã từng viết: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh
sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"...
Đọc bốn câu thơ đầu ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa
thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời
này. Có cần chăng nhiều lúc lịng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức "Thu điếu" để
thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp
này hơn nữa ...
*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
10 | P a g e


2. Phân tích 4 câu sau:
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp khơng nhỏ trong nền
văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc
đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm
trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một
bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện
tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ. Nếu như câu thơ trước tác giả khiến
người đọc hướng mắt từ mặt ao lên khoảng khơng thì bây giờ không gian đã mở ra
rộng lớn hơn bởi trời cao và xa hơn bởi con đường ngõ trúc quanh co và tâm tình thế
thái của nhà thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị
giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho
cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây
không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về

mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở
về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu ngày
nào, vẫn ngõ xóm quanh co… tất cả đều thân thương và nhuốm màu sắc thôn quê Việt
Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm
ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh
co” cũng “vắng teo” khơng bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa
thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sơng nước ở vùng quê, khi trời đã
bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió

11 | P a g e


Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái khơng khí se lạnh đó của thơn q, những tưởng sẽ khơng có bóng
dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đơi nét về chân dung tác giả. Tơi nhớ khơng lầm
dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không
phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “bng” hay hơn, phù hợp với tính cách của
nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà
thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hịa mình vào thiên nhiên, mà qn đi
những bận lịng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Bng”: thả lỏng, đi câu không
cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ơm” khơng phù

hợp với hồn cảnh. Từ “bng” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn. Thực
ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ bộc lộ
tâm hồn và tâm trạng của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng tới
con người thi sĩ, nho sĩ trước tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo kinh nghiệm của dân
gian nước trong thì khơng có cá nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực
cho người điếu ngư không nản chí mà tiếp tục cơng việc của mình. Cũng giống như vậy
chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống
cự yếu ớt mà nhanh chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo
tồn khí tiết nên lựa chọn con đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm Đào Uyên Minh bên Trung Quốc một đời quyết giữ để
mình thanh sạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp động như đánh thức nhà Nho, nhà chí sĩ
yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Nhưng âm thanh ấy thật mơ hồ cũng như trăn trở trong lòng nhà thơ liệu rằng mình có
thể góp sức giúp đời hay là bất hợp tác với giặc lánh mình ẩn cư.Như vậy Nguyễn
Khuyến khơng chỉ bộc lộ những tình cảm u mến thiên nhiên, q hương đất nước mà
cịn kín đáo bày tỏ nỗi buồn trong sáng nhưng cô đơn của một ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu
nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn con đường lánh đục về trong.
Đoạn thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng
Việt trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả những gì tinh tế, đẹp đẽ nhất của
cảnh vật, diễn tả được tâm trạng và tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – từ vận tài tình
12 | P a g e


góp phần miêu tả khơng gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ thuật
lấy động tả tĩnh gợi lên cái tĩnh lặng tuyệt đối của thiên nhiên.
Bốn câu thơ cuối nói riêng và bài thơ Câu cá mùa thu nói chung, với ngơn ngữ bậc
thầy không chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Mà
đằng sau đó ta cịn cảm nhận được một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất
nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không kém phần sâu nặng.
*NOTE:………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
II. VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
*HAI ĐỨA TRẺ:
1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn:
Thạch Lam một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đồn. Các tác phẩm của
ơng thiên về những cảm xúc trong trẻo, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu lắng. Đằng sau những
trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những kiếp
người nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những truyện nổi
bật nhất của ông. Nắm bắt khoảnh khắc ngày tàn, Thạch Lam đã vẽ nên cuộc sống đầy
ảm đạm mà cũng ngập tràn mơ ước của con người nơi đây.Thạch Lam lựa chọn thời điểm
hồng hơn, khi mọi vật bắt đầu chuẩn bị đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Bằng ngịi bút tinh
tế, nhạy cảm ơng không chỉ nắm bắt cái thần thái của cuộc sống con người mà đó cịn là
bức tranh thiên nhiên. Qua bức tranh phố huyện lúc chiều tàn đã thể hiện những quan
điểm, cảm xúc của tác giả trước hiện thực cuộc sống.
Tác phẩm mở đầu với những nét gợi đơn giản và huyền ảo về thiên nhiên. Để tô vẽ
nên bức tranh của mình Thạch Lam đã dùng cái quan sát rất tài tình. Ơng tận dụng hết cả
thị giác và thính giác của mình để dựng nên các cảnh và cứ cảnh trước lại mở ra cảnh sau,
nâng đỡ, tơ điểm. Hồn cảnh buổi chiều nơi phố huyện bắt đầu với “tiếng trống thu
không… từng tiếng một vang ra xa”, tiếng trống thu là tiếng trống đánh dấu sự khép lại
của ngày dài, từng hồi tiếng một buông ra nghe thật thảm thiết não nề.Tiếng trống thu
như đang thúc giục gọi buổi chiều man mác. Một không gian yên tĩnh đến nỗi tác giả cịn
có thể nghe được cả tiếng muỗi vo ve. Và phía xa xa tiếng ếch nhái văng vẳng từ ngồi
đồng xa vọng lại. Phía trước nhà là tiếng chõng cũ nát kêu cót két, tàn tạ. Cả đất trời như
chan chứa một khoảng không tĩnh mịch, êm ả đượm chút buồn, thê lương đến ảm đạm.

13 | P a g e


Một loạt các âm thanh động cộng hưởng với nhau lại gợi ra một không gian tĩnh lặng,
vắng vẻ đến nao lịng. Bút pháp tài tình lấy động tả tĩnh của Thạch Lam thật khiến lòng
người rung động.
Cái độc đáo của Thạch Lam ở chỗ ông chẳng cần dùng những nét vẽ cao xa mà chỉ cần
phẩy tay vấy hồn cho những cảnh đơn sơ, mộc mạc cũng đã khiến nó trở lên thật rung
động. Bên cạnh những âm thanh đặc trưng, nhà văn còn đan xen thêm những đường nét,
hình ảnh và màu sắc chân thực của bức tranh phố huyện lúc trời chiều. Đó là “Phương tây
đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hịn than sắp tàn”. Mặt trời đang
dần nghiêng bóng về phía tây, những ánh nắng khơng cịn chói chang, sức sống nhữ buổi
trưa nữa mà đã chuyển dần sang màu đỏ rực, lóe lên lần cuối trước khi lụi tàn. Dấu hiệu
của sự lụi tàn đang chập chững buông xuống, bóng tối đang xâm lấn vào từng thớ đất, thớ
trời. Màu đỏ vốn là một gam màu tươi sáng nhưng đặt trong ngữ cảnh nó lại gợi ra cái ảm
đạm, cơ đơn của cảnh sắc, của lịng người. Đây là thủ pháp quen thuộc trong thi ca cổ
điển: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Những đường nét quen thuộc của bức tranh thiên
nhiên trời chiều được dựng lên: “dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
Hình ảnh của dãy tre làng trước mặt cắt hình rõ rệt trên nền trời xám xịt. Đây là một hình
ảnh tả thực, khi thời khắc chuyển dần về buổi tối, nhìn xa xăm thu lại vào ánh mắt ta chỉ
là cái bóng của cảnh vật, mọi cảnh vật đen lại phản chiếu rõ rệt trên nền trời. Không gian
như chỉ bao trùm một màu sắc u tối, nhạt nhịa.Khơng quá cao sang, gay gắt mà chỉ bằng
những câu văn giản dị, rất đỗi chân thực đã miêu tả rõ nét cái thần và hồn của phong cảnh
làng quê Việt Nam, rất đỗi thanh bình, dịu nhẹ nhưng lại u buồn và lặng lẽ nhường nào.
Cảnh thiên nhiên chỉ là khúc dạo đầu để mở ra cảnh sinh hoạt của người dân nơi phố
huyện lúc chiều tà. Bức tranh sinh hoạt được mở ra với không gian cảnh chợ tàn: “Chợ
họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi,
vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Khơng gian yên tĩnh với những hình ảnh ảo não, tiêu
điều, thất thơ được liệt kê: đó là rác rưởi, vỏ bưởi, bã mía. Đây là những gì cuối cùng cịn
sót lại sau khi vãn chợ. Rồi những đứa trẻ nghèo tội nghiệp vất vưởng lom khom trên mặt

đất tìm tịi, nhặt nhạnh những gì người bán hàng để lại. Cảnh chợ thế nhưng lại là chợ
tàn, chợ buồn, xơ xác đến ám ảnh. Và cái mùi “âm ẩm bốc lên”, cái mùi chẳng mấy là dễ
chịu lại cứ “nồng nàn” chìm vào khơng gian, thế nhưng mùi vị ấy lại quá quen thuộc, đó
là mùi của đất quê hương, trở thành một nỗi thắm thiết da diết trong tâm hồn cô bé Liên.
Trong bức tranh cảnh sinh hoạt nổi bật lên với hình ảnh của những kiếp người tàn. Tại
sao lại gọi là kiếp người tàn. Bởi cuộc đời những con người ấy là chuỗi dài những cơ cực,
khổ đau, họ bị cuộc sống nghèo nàn bủa vây, đeo đuổi. Bắt đầu từ những đứa trẻ con nhà
nghèo ở khu bên chợ, rồi đến mẹ con chị Tí loay hoay, mệt nhọc với gánh hàng mà cũng
chẳng mấy ăn thua: “Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này
dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch…..Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng
chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”; hay Bà cụ Thi với tiếng cười ám
ảnh, chua chát và đầy ngao ngán. Phải chăng vì cuộc đời bà đã quá khổ, đã nếm trải đủ
đắng cay, đã khóc quá nhiều đến nỗi nước mắt đã cạn, giờ đây chỉ biết lấy tiếng cười than
thay cho nỗi lịng xót thương, rồi đến cả chị em Liên cịn bé nhưng đã phải đối mặt với
sức lo cơm áo gạo tiền, vốn cái tuổi được ăn chơi học hành nhưng các em đã phải phụ mẹ
bán hàng kiếm tiền trang trải cho cuộc sống, cả mẹ Liên cơ cực gồng gánh cả gia
14 | P a g e


đình.Bức tranh sinh hoạt càng khiến cho phố huyện lúc nhá nhem thêm tàn phai, héo úa,
số phận con người hiện lên thật nhỏ bé, rẻ rúm và đáng thương. Đây chính là thực tại
miền Bắc nước ta một thời.
Dù là cảnh thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt cũng cốt là làm nổi lên bức tranh tâm hồn
nhân vật Liên. Trong tâm hồn của cô bé mới 9 tuổi hiện lên những nét vẽ thật đẹp, thật
thơ mộng. Dưới ánh nhìn của tác giả sáng lên trong tâm hồn ngây thơ hồn nhiên ấy đó là
vẻ đẹp tinh tế nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong thời khắc lụi tàn: Phải
yêu quê hương, gắn bó với quê hương da diết đến thế nào cơ bé mới có thể cảm nhận và
yêu được hết cả cái mùi âm ẩm từ đất bốc lên, phải tinh tế ra sao mới thấy được cái hay
cái đẹp và trân trọng cái dáng vẻ, bóng hình và âm thanh q hương; bóng tối buông
xuống như thấm sâu vào tâm hồn Liên trở thành chút dư vị quen thuộc, gắn bó. Sau tất cả

bừng sáng lên nét đẹp trong tâm hồn em đó chính là tình thương người sâu sắc.Cách kể
về cuộc sống mưu sinh của chị Tí, về tiếng cười bà cụ Thi hay động lòng lương với
những đứa trẻ nghèo “Liên trơng thấy động lịng thương nhưng chính chị cũng khơng có
tiền để mà cho chúng nó”. Quan sát tỉ mỉ từng hoạt động, chi tiết nhất đủ để thấy Liên
quan tâm đến mọi người như thế nào, tình cảm Liên dành cho những người dân xung
quanh thấm đượm nghĩa tình. Những con người nơi đây cứ lẳng lặng, bình yên nhìn dịng
đời chảy trơi như thế, nhìn cái đói hồnh hành mà chẳng thể nào làm gì khác hơn. Để rồi
họ thèm lắm, họ khao khát một chuyến tàu Hà Nội chạy qua, mang theo ánh sáng diệu kì,
soi sáng cho cuộc đời nơi tăm tối ,“ chừng ấy người trong bóng tối hi vọng một cái gì đó
tưới sáng hơn cho cuộc sống nghèo khổ của họ”.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn là đoạn văn giàu chất trữ tình. Chất thơ ấy tỏa ra
từ thiên nhiên, từ cảnh vật quê hương bình dị, rất đỗi thân thuộc là tiếng trống thu khơng,
là tiếng ếch kêu ran ngồi đồng,… Chất thơ còn thể hiện trong tâm hồn đầy nhạy cảm,
tinh tế của Liên khi cảm nhận về cuộc sống xung quanh. Khơng chỉ vậy chất thơ cịn
thấm đượm trong từ câu chữ, những câu văn nhịp nhàng, có tiết tấu, giàu chất nhạc:
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng
ruộng theo gió nhẹ đưa vào” đã tăng thêm chất trữ tình cho tác phẩm.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn vừa khắc họa được bức tranh thiên nhiên đẹp mà
đượm buồn, vừa cho thấy cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, nghèo nàn của những con người
nơi đây. Đằng sau bức tranh phố huyện ta cịn thấy được tình u thiên nhiên, cũng như
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả: trân trọng nâng niu những số phận và ước mơ đổi
đời của họ. Nghệ thuật miêu tả đặc sắc, chất trữ tình thấm đượm cũng là những yếu tố tạo
nên sự thành công cho tác phẩm.
*NOTE:………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………….......................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................

..............................................................................................................................................
15 | P a g e


2.Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya:
Thạch Lam một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn. Các tác phẩm
của ông thiên về những cảm xúc trong trẻo, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu lắng. Đằng sau
những trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những
kiếp người nghèo khổ trong xã hội. “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một trong những
truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết vụn vặt, vơ nghĩa nhưng kì thực lại là tác phẩm đạt
trình độ cao về diễn tả tâm trạng nhân vật. Nội dung truyện ngắn chủ yếu đi sâu vào miêu
tả những cảnh đời thường, số phận nghèo khổ, tối tăm trong xã hội cũ. Qua đó tác giả
muốn gửi gắm một cách kín đáo nhẹ nhàng nhưng khơng kém phần thấm thía tư tưởng
nhân đạo đáng q.Tồn thiên truyện tác giả tập trung vào những chi tiết nhỏ nhặt, vụn
vỡ tưởng như rời rạc nhưng lại có một sức gợi cực tả. Khi tái hiện lên một bức tranh làng
quê nơi phố huyện nghèo nàn với sự leo lét của những ánh đèn, sự tối tắm của không
gian, sự quẩn quanh của cuộc sống. Nhưng có lẽ hình ảnh đồn tàu ở cuối thiên truyện là
hình ảnh nổi bật rõ nét nhất tồn bài. Hình ảnh đồn tàu mang rất nhiều lớp nghĩa khác
nhau, tưởng chừng nhỏ giản đơn nhưng chất chứa trong đó bao bài học, tư tưởng cao cả
của một nhà văn trữ tình lãng mạn tinh tế bậc nhất. Qua đó thể hiện được ước mơ, niềm
tin và khát vọng của những kiếp người nghèo khổ.
Buổi chiều nơi phố huyện mở ra bằng những đường nét đầy ảm đạm, cô quạnh báo
hiệu một ngày sắp tàn theo đúng như nghĩa của nó. Với những âm thanh, hình ảnh: tiếng
trống thu khơng trên cái chịi huyện nhỏ, những đám mây hồng như hòn than, dãy tre làng
đen lại... nhưng khơng kém phần nên thơ trữ tình. Hai nhân vật chính ở đây là hai chị em
Liên và An.Sau một ngày làm việc vất vả cực nhọc. Con người nơi đây mới bắt đầu cuộc
sống với những gánh phở, những chén nước nguội lạnh, mảnh chiếu trải đất kéo đàn....tất
cả thống hiện lơn đơn lẻ, lặng lẽ, nhần chìm trong bóng tối. Cảnh chiều đêm bng
xuống được tác giả miêu tả làm cho nền hình ảnh đồn tàu xuất hiện.
Trên nền trời tối tăm của khung cảnh đó tác giả miêu tả đồn tàu và thói quen đón

đồn tàu của hai đứa trẻ thật cho tiết, tỉ mỉ. Lí do đợi tàu của hai đứa trẻ bao gồm cả việc
chờ tàu đến để bán hàng cho các hành khách trên tàu xuống mua bán. Cái đó chính là cái
thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được ngắm nhìn tàu của hai chị em Liên. Hai chị em
Liên đã sống một ngày vô cùng mệt mỏi và tẻ nhạt. Chúng chỉ bán được vài món hàng
bao diêm, gói thuốc lá, xà phịng... Đến tối thì kiếm hàng và đếm lại số tiền ít ỏi đó. Hai
đứa trẻ trơ trọi trong bóng tối, trên chiếc chõng cũ sắp gãy giữa khơng khí oi bức và tiếng
muỗi kêu ran. Chỉ có một người đến với các em, là bà cụ Thi, một bà già hơi điên tối tối
thường ghé mua rượu hàng các em.Các em chờ tàu đêm chạy ngang qua trong tâm trạng
vô cùng háo hức. Sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu... là cái mốc để
các em đi đếm thời gian đang xích lại gần với chuyến tàu. Cả hai chị em đều buồn ngủ ríu
cả mắt nhưng vẫn cố gắng ngồi chờ chuyến tàu.Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được
nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Với hai đứa trẻ của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu. Có lẽ chính vì thế mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập
trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong
của hai nhân vật Liên và An.
Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước từ xa với ánh đèn của người gác ghi và
tiếng còi tàu theo gió vẳng lại. Tiếp theo là Liên tưởng trơng thấy ngọn lửa xanh biếc, sát
16 | P a g e


mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi tàu xe lửa trong đêm khuya.Kéo dài ra theo
ngọn gió xa xơi. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi,
kèm theo một làn khói bừng sáng trắng đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.
Thế rồi, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi xa dần mất hút trong đêm tối
mênh mông, để lại những đốm than bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn
xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre...Cách quan sát, miêu tả của
Thanh Lam rất tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đồn tàu
đêm từ Hà Nội về theo trình tự lúc tàu từ xa, lúc tàu đến rồi xa dần bằng nhiều giác quan
cùng với rất nhiều sắc thái cảm giác; bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại. Chuyến tàu
đi qua phố huyện chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã để lại cho hai đứa trẻ

bao nhiêu cảm xúc và nuối tiếc. Phố huyện rầm rộ, ồn ào lên trong chốc lát rồi lại chìm
sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Gần như đã thành nếp, những người dân phố huyện chỉ chấm
dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi xa.
Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp. Liên lặng lẽ
mơ tưởng đến Hà Nội xa xăm..., nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng
khi thầy chưa mất việc. Đó là cuộc sống ở một thời xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở
phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.Đồn tàu cịn lại hình ảnh của tương lai, nó khiến
người ta hình dung ra một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh
sáng. Việc Liên và An đón đợi đồn tàu xuất phát từ nhu cầu bức thiết về tinh thần muốn
thoát cuộc sống buồn chán hiện tại và được sống trong một thế giới mới tươi đẹp hơn.
Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người
của hai đứa trẻ khi ngắm đồn tàu khơng chỉ đem đến một thoáng vui và gợi thật nhiều
bâng khuâng thương cảm.Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khát, đợi chờ vừa được thỏa
mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc một thế giới q xa xơi và nó càng sáng rực vui vẻ,
huyên náo bao nhiêu thì càng làm cho cảnh sống nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ
và chìm lặng bấy nhiêu. Chỉ có hình ảnh đồn tàu lướt qua hằng đêm mà những người
dân phố huyện ai cũng nơn nao chờ đợi. Nhưng qua đó ta cũng thấy trong đó sự len lỏi
niềm tin vào một cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ nên một khung cảnh nghèo nàn
nơi phố huyện vào thời khắc sắp tàn. Ở đó hiện lên những kiếp người nhỏ bé nghèo khổ
nhưng trong tâm hồn họ ta thấy niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống tốt đẹp trong tương
lai tươi sáng. Và trên hết ta cịn thấy ở đó tấm lịng xót thương nhân đạo cao cả của nhà
văn Thạch Lam.
*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
17 | P a g e


3. Nhân vật Liên:
Thạch Lam một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn. Các tác phẩm
của ông thiên về những cảm xúc trong trẻo, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu lắng. Đằng sau
những trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những
kiếp người nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những truyện
nổi bật nhất của ông.Cả truyện ngắn bao trùm là cuộc sống quẩn quanh, cơ cực, tối tăm ở
phố huyện nghèo, nhưng dường như ở đó ta vẫn thấy những điểm sáng đó là hình ảnh hai
chị em Liên và An. Hai đứa trẻ là hai nhân vật chính của câu chuyện, mọi biến chuyển
tinh vi của vạn vật đều hiện lên qua ánh nhìn nhạy cảm của cơ bé Liên. Khơng gian phố
huyện được xuất hiện qua tâm trạng Liên và đến với người đọc qua tâm trạng Liên.
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình sa cơ thất thế nên trở về
quê, một phố huyện nghèo hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu.
Một gian hàng th lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Liên
chừng khoảng chín tuổi cịn An khoảng bảy, tám tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đã có
những toan tính cho cuộc sống. Có lẽ vì thế mà trong sâu thẳm tâm hồn cô bé này đã có
những xúc cảm hết sức tinh vi về mọi vật, mọi việc ở phố huyện này.
Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn
nhạy cảm, tinh tế của Liên. Đó là “Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu ran ngồi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu
vo ve.” Trong bức tranh ấy có sự hịa trộn giữa hai loại hình ảnh : hình ảnh êm đềm, lãng
mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho
Liên nỗi buồn: “ Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối
ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị;
Liên khơng hiểu sao nhưng chị thấy lịng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày
tàn.” Thật khó để phân định rạch ròi nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nỗi

buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nỗi buồn sâu
sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu
nó.Khơng gian phố huyện cịn được hiện lên qua hình ảnh : “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi
nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi
riêng của đất, của quê hương này”, “đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh
mơng và n lặng”. Đó chính là mùi riêng của quê hương. Vậy là đủ thấy tình yêu quê
hương trong Liên như một mạch nguồn len lỏi trong tâm hồn. Có lẽ bắt nguồn từ đó mà
trong Liên ln có sự xót thương những kiếp người nghèo khổ trong phố huyện.
Liên thực sự có một tấm lịng thương cảm vô hạn đối với những con người nghèo
khổ, lam lũ, tù túng của phố huyện. Liên thương những đứa trẻ con nhà nghèo nhưng
chính chị cũng chẳng có tiền cho chúng. Hình ảnh những đứa trẻ đã gợi sự xót thương
của Liên đối với cảnh sống nghèo khó của chúng. Liên thương cho chị Tí, bởi vì cuộc
sống của chị cũng khó khăn: “sớm với muộn mà có ăn thua gì? “. Dường như trong lời
hỏi thăm ân cần của Liên có một tiếng nấc khe khẽ. Liên thương cho cụ thi hơi điên, “chị
lẳng lặng rót đầy cút rượu ti” và “hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi lần vào bóng
tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Nhịp sống ở phố huyện cứ lặp đi, lặp
lại, quanh quẩn, đơn điệu, tẻ nhạt. Những cảnh đời bế tắc, cuộc sống của những con
18 | P a g e


người tàn. Họ đang gồng mình lên để sống nói cách khác họ đang sống leo lắt hay chỉ
đang tồn tại. Dường như tất cả cảnh phố huyện đều được cô bé thu vào tầm mắt. Với trái
tim đa cảm giàu lịng thương xót, Liên đã có những cảm nhận tinh tế về cuộc đời mờ
nhạt, quanh quẩn, cái ao đời phẳng lặng trong phố huyện nghèo. Chính sự quan tâm,
niềm cảm thương ấy của Liên đã làm nên tình người bàng bạc khắp thiên truyện. Tình
người trong Liên khơng ồn ào mà dịu nhẹ, sáng trong lắng dần trên trang sách. Cái nhìn
nhân hậu cùng niềm xót thương đã tạo nên giá trị nhân văn cho “Hai đứa trẻ”. Những
kiếp người xuất hiện trong đêm tối, từ bóng tối đi ra rồi lại đi lần vào bóng tối chỉ được
gợi lên qua cái nhìn của Liên hay chính Thạch Lam? Bởi theo Thế Lữ nhận xét : “Thạch
Lam là người sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh đã viết ra trên trang giấy. Sự thực

của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp, nhiều hình vẻ, nhưng bao
giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình
thương.”Hai đứa trẻ dù cho già dặn trong suy nghĩ thì vẫn chỉ là hai đứa trẻ, là hai mầm
cây mới nhú trên mảnh đất cằn cỗi, khắc nghiệt của khơng gian nơi phố huyện. Chúng
vẫn thèm hịa nhập vào những cuộc chơi của bao đứa trẻ khác ở “thềm hè” nhưng cả hai
đều sợ “trái lời mẹ dặn” và “đành ngồi trên chõng”. Hai chị em Liên lũ trẻ đang chơi ở
thềm hè với con mắt thèm muốn và một chút nuối tiếc. Đó là điều hết sức tự nhiên trong
tâm hồn trẻ thơ. Tuổi thơ của chúng sớm phải chia tay với những buổi dạo chơi trên phố,
sớm quên đi bao niềm vui để phải già dặn, toan tính. Rồi liên và An ngồi ở chõng mà
ngước mắt lên bầu trời để khám phá, “vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa
trẻ như đầy bí mật và xa lạ”. Chính sự khám phá tự nhiên ấy đã “làm mỏi trí nghĩ” của cả
hai đứa trẻ. Thạch Lam hơn ai hết thấu cái bi kịch lớn của tình thương, muốn được san sẻ
cùng mà chỉ có thể nâng đỡ về tinh thần. Hai đứa trẻ cũng như ấp ủ bao hi vọng mơ ước
của nhà văn được thay đổi thực tại tù túng kia, để những đứa trẻ như liên và An được
hưởng trọn vẹn trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của cuộc đời.
Hai đứa trẻ - hai niềm hi vọng được nhen nhóm lên như ánh sáng của đoàn tàu làm
bừng sáng cả không gian phố huyện, ánh lên nỗi khao khát về sự thay đổi. Sự khao khát,
hi vọng mãnh liệt của Liên về sự thay đổi được thể hiện trong cảnh Liên và An cố thức để
đợi chuyến tàu đêm. Đoàn tàu hiện ra trong bóng tối với “ngọn lửa xanh biếc”, với tiếng
cịi kéo dài, với “làn khói bừng sáng”. Con tàu hiện lên bằng một thứ ánh sáng khác hẳn
với ngọn đèn leo lắt của chị Tí, của bác phở Siêu. Âm thanh “rầm rộ” làm xáo động cả
không gian phố huyện. Trong sâu thẳm tâm hồn những con người nơi đây, đồn tàu cịn
mang lại ánh sáng giàu sang, no ấm, hạnh phúc, ánh sáng mà “chừng ấy người trong bóng
tối “ đang chờ đợi chăng? Đồn tàu xuất hiện chỉ làm thay đổi không gian phố huyện
trong khoảnh khắc nhưng cũng để mọi người thèm khát. Đặc biệt là Liên, Liên đã càng
hiểu thấu sự khao khát đó do chính cơ bé cũng từng là người Hà Nội, từng có cuộc sống
ấm no như thế. Khi tàu tới “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực rỡ
vui vẻ và huyên náo”. Con tàu như đã đem đến một chút thế giới khác, một thế giới khác
hẳn đối với Liên, một thế giới hạnh phúc, giàu sang khác xa với cuộc sống nghèo khổ, tù
túng hiện giờ nơi phố huyện. Đoàn tàu đi từ kí ức tới hiện tại, mang đến ước mơ và khát

vọng và đem chúng đi trong sự nuối tiếc của Liên. Phố huyện lại trở về với sự yên tĩnh,
tịch mịch và sự bủa vây của bóng tối, nguyên vẹn một cuộc sống tù túng, nghèo khó của
bao kiếp người. Dù có khó khăn nhưng họ vẫn khao khát, vẫn mơ ước về một tương lai
19 | P a g e


tươi sáng. Đó chính là niềm tin sâu sắc của Thạch Lam, là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nhưng đó chỉ là ý niệm mà khơng thể thay đổi được thực tế. Đoàn tàu đến, đi qua nhưng
chỉ làm Liên thanh thản, yên tĩnh chứ không thể thay đổi được thực tại về cuộc sống “tịch
mịch và đầy bóng tối” của Liên. Khơng thấm được một tấm lịng nhân ái sâu xa, khơng
hiểu lịng con trẻ, khơng có một tâm hồn nhạy cảm thì thạch Lam khơng thể diễn tả tinh
tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người trong bóng tối mà đặc biệt là hai
đứa trẻ. Quả thực thạch Lam là một hệ thống dây tơ nhạy bén đến mức có thể cảm nhận
được sự biến chuyển tinh vi trong tâm trạng mỗi nhân vật.
Dòng suối mát lành ấy cứ thấm dần rồi thẩm thấu vào trái tim mỗi người đọc về sự
xót thương, về tình yêu nồng nàn đối với những con người nghèo khổ. Thạch Lam rất đỗi
tinh tế trong việc miêu tả sự biến đổi của cảnh vật và nhân vật mà cụ thể ở đây là cô bé
Liên. Một cô bé mới 9 tuổi nhưng đã phải già dặn trong cuộc sống khó khăn, vất vả, tù
túng, biết cảm thương cho những mảnh đời khốn khổ khiến người đọc xúc động. Với
truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã làm được giá trị đích thực của văn chương, giá
trị thanh lọc tâm hồn con người, cho nó sức sống ngàn đời bất diệt
*NOTE:………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

20 | P a g e



×