Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN, PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.77 KB, 28 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN, PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC TIỀN LƯƠNG
I. TIỀN LƯƠNG VÀ BẢN CHẤT CỦA TIỀN LƯƠNG.
1. Các quan điểm về tiền lương.
Khi phân tích về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nơi mà các quan hệ thị
trường thống trị mọi quan hệ kinh tế, xã hội khác (Mác viết “Tiểu công nghiệp
không phải giá trị hay giá các cả lao động mà chỉ là một hình thức cái trong của
giá trị hay giá cả sức lao động”
Tiền lương phản ánh quan hệ kinh tế, xã hội khác nhau. Tiền lương, trước
hết là số tiền mà người sử dụng lao động (mua sức lao động) trả cho người lao
động (người bán sức lao động). Đó là quan hệ kinh tế của tiền lương. Mật khác,
do tính chất đặc điểm của loại hàng hoá sưc lao động mà tiền lương không
thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến
đời sống và trật tự xã hội. Đó là quan hệ xã hội…
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương được hiểu một cách thống
nhất sau “về thực chất, tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập
quốc dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch
cho công nhân, viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi
người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh sự trả công cho công nhân viên chức
dựa vào nguyên tắc phân phối thu lao động nhằm tái sản xuất lao động. Nói
chung, khái niệm về tiền lương hoàn toàn nhất trí với quan hệ sản xuất và cơ
chế phân phối của nền kinh tế hế hoạch hoá tập trung xã hội cơ chế thị trường
buộc chúng ta phải có những thay đổi trong nhận thức, vì vậy quan niệm về tiền
lương cũng phải được đổi mới về cơ bản “ tiền lương là biểu hiện bằng tiền của
giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (nhà
nước, chủ doanh nghiệp) phải trả cho người cung ứng lao động, tuân thủ các
nguyên tắc cung, cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của nhà
nước”trong quá trình hoạt động nhất là trong hoạt động kinh doanh đối với các
chủ doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất –
kinh doanh. Vì vậy tiền lương luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Đối với
người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động của họ. Phấn đấu


nâng cao mức lương là mục đích của hầu hết người lao động mục đích này tạo
động lực để người lao động phát triển trình độ, và khả năng lao động của mình.
Mặt khác tiền lương còn phản ánh quan hệ phân phối sản phẩm giữa toàn
xã hội. Mức tiền lương, sự vận động của tiền lương được quyết định bởi các quy
luật kinh tế, có cơ sở để xác định mức tiền lương chủ yếu dựa trên trình độ phat
triển của sản xuất xã hội chính sách tiền lương của doanh nghiệp, dựa trên yêu
cầu cần phát triển toàn diện của người lao động và giới hạn tăng tiền lương.
Tiền lương – tiền công cần phải xác định trên cơ sở tính đúng, tính dư giá
trị sức lao động dựa trên hao phí lao động và hiệu quả lao động. Đó là giá trị các
yếu tố đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động thoả mãn nhu cầu tối thiểu
của cuộc sống và các nhu cầu khác.
Trong điều kiện vừa một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở
nước ta hiện nay phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành
phần và khu vực kinh tế.
Trong thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp (khu
vực lao động được nhà nước trả lương, các cơ quan tổ chức của nhà nước trả
cho người lao động theo cơ chế và chính sách nhà nước và được thể hiện trong
hệ thống thang lương bảng lương do nhà nước quy định.
Trong các thành phần khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu
sự tác động, chi phối lớn của thị trường lao động tiền lương trong khu vực này
dù vẫn nằm trong khuôn khổ luật pháp và theo hướng chính sách của chính phủ,
nhưng là những giao dịch trực tiếp giữa chủ và thuê, nhưng “mác nói”cụ thể
giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê. Những hợp đồng lao động này có tác
động trực tiếp đến phương thức trả công.
Tổ chức hợp lý tiền lương có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng xuất lao động, tăng hiệu quả kinh tế. Đây chính là động lực thúc đẩy từng
cá nhân lao động hàng hoá làm việc, nâng cao năng suất lao động.
Nhà nước căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội giá cả thu nhập quôc dân để
quy định mức lương tương đối thiếu cho từng khu vực, từng vùng, các doanh
nghiệp không được ttrả lương với mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu, quy

định nhằm đảm bảo cho người lao động có thể tái sản suất lao động.
Ngoài bản chất kinh tế, tiền lương còn mang tính xã hội vì nó gắn liền với
người lao động và cuộc sống của họ. Sức lao động của con người không giống
như các loại hàng hoá khác mà là tổng thể của các mối quan hệ vì vậy khi tiến
hành công tác xây dựng và các chi trả lương trong doanh nghiệp không những
chỉ tính về mặt kinh tế xã hội mà còn phải đề cập và tính toán đủ cả về mặt xã
hội của tiền lương.
2. Vai trò, chức năng của tiền lương.
* Vai trò của tiền lương: Trong nền kinh tế quốc dân thì tiền lương được
coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng mà không có một quốc gia nào là không quan
tâm tới và nó cũng là một cộng cụ quản lý ở đơn vị sản xuất kinh doanh, Một
động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Trong phạm vi doanh nghiệp,
tiền lương có vai trò quan trọng việc kích thích lao động tăng năng suất lao
động trách nhiệm của người lao động với quá trình sản suất và tái sản suất đồng
thời tiền lương phù hợp với đóng góp của người lao động sẽ đem lại liềm lạc
quan tin tưởng vào doanh nghiệp. Tiền lương là thu nhập chủ yếu của cán bộ
công nhân viên, là yếu tố để đảm bảo tái sản suất sức lao động, nâng cao đời
sống người lao động một bộ phận đặc biệt của lực lượng sản xuất xã hội.
Vì vậy tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển
lực lượng lao động. Người lao động dùng tiền lương để trang trải các chi phí
trong gia đình, ngoài gia còn dùng để tích luỹ, nhưng trước hết tiền lương phải
đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hang ngày của người lao động. Có thể nói
đây là tác động quan trọng nhất, trực tiếp nhất của tiền lương. Vì do đó, chức
năng kinh tế quan trọng nhất của tiền lương là đảm bảo tái sản xuất lao động.
Tiền lương phù hợp với hao phí lao động mà người lao động đã bỏ ra,
trong quá trình sản xuất vật chất sẽ gắn bó họ với công việc và tinh thần trách
nhiệm cao hơn. Được nhận tiền lương phù hợp với sức lao động mình bỏ ra
người lao động tự cảm thấy mình phải không ngừng nâng cao bồi dưỡng trình
độ mọi mặt.
Tiền lương còn có vai trò điều phối lao động. Với tiền lương thoả đáng

người lao động trí nguyện nhận công việc mình được giao dù ở đâu hay bất cứ
công việc nào.
Bảo đảm vai trò quản lý lao động của tiền lương doanh nghiệp sử dụng
công cụ tiền lương không chỉ có mục đích tạo điều kiện vật chất cho người lao
động mà cong có mục đích sử dụng lao động thông qua tiền lương người sử
dụng lao động thư dỗi kiểm tra giám sát người lao động làm việc theo mục tiêu
của mình, đảm bảo tiền lương chi ra phải đem lại hiệu quả rõ rệt. Hiệu quả của
tiền lương không chỉ theo hàng tháng mà còn được tính theo từng ngày, từng
giờ của toàn doang nghiệp. Để cho tiền lương thực sự là đòn bảy kinh tế quan
trọng phát huy tích cực về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đang là
vấn đề khó khăn đòi hỏi các nghiệp phải lựa chọn đúng hình thức trả lương cho
phù hợp với những đặc điểm riêng cho doang nghiệp mình phù hợp với quy
định là trả lương theo đúng giá trị sức lao động đã hao phí.
* Chức năng của tiền lương.
Quá trình tái sản xuất được thực hiện bội ước trả công cho người lao động
thông qua tiền lương. Bản chất của tái sản xuất sức lao động, nghĩa là số tiền
lương nhận đựơc người lao động chỉ để đủ sống mà còn đủ để nâng cao trình
độ về mọi mặt cho bản thân và có một phần để tích luỹ.
+ Chức năng kích thích người lao động:
Tiền lương đảm bảo và góp phần tác động để tạo cơ cấu lao động hợp lý,
trong toàn bộ nền kinh tế, khuyến khích phát triển ngành và lãnh thổ. Khi người
lao động được trả công xứng đáng sẽ tạo niềm say mê hướng thú tích cực làm
việc, phát huy tinh thần làm việc sáng tạo, tự học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ gắn trách nhiệm cá nhân với lợi ích tập thể và công việc.
Tiền lương là đòn bẩy kinh tế, là công cụ khuyến khích vật chất và là động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, tiền lương phải được trả theo kết quả
của người lao động, mới khuyến kích được người lao động làm việc có hiệu quả
và năng suất.
+ Chức năng giám sát lao động.
Người sử dụng lao động thông qua việc trả lương cho người lao động có

thể tiến hành kiểm tra, theo dõi người lao động làm việc theo kế hoạch tổ chức
của mình để đảm bảo tiền lương bỏ ra phải đem lại kết quả và hiệu quả cao.
Nhà nước giám sát lao động bằng chế độ tiền lương đảm bảo quyền lợi tối
thiểu cho người lao động, khi họ hoàn thành công việc. Đặc biệt trong trường
hợp ngưới sử dụng lao động vì sức ép. Vì lợi nhuận mà tìm mọi cách giám chi
phí trong đó có chi phí tiền lương trả cho người lao động cần phải được khắc
phục ngay.
Ngoài ra chức năng vừa nên còn có một số chức năng khác như: chức năng
thanh toán, chức năng thước đo giá trị sức lao động, chức năng điều hoà lao
động.
3. Các nguyên tắc trả lương.
Để phát huy tốt tác dụng của tiền lương trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và hiệu quả của doanh nghiệp, khi các tổ chức tiền lương cho người lao
động cần đạt được các yêu cầu sau:
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất tinh thần cho người lao động.
- Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao.
- Đảm bảo tính đơn giản dễ tính, dễ hiểu.
Xuất phát từ yêu cầu trên, công tác tổ chức tiền lương phải bảo đảm được
các nguyên tắc sau.
Nguyên tắc 1: Đảm bảo nguyên tắc phân phối lao động và gắn với hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc 2: Tổ chức tiền lương phải đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao
động lớn hơn tốc độ tăng trưởng của tiền lương bình quâ.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động các nguyên tắc
trên dù thực hiện tốt mà không đảm bảo những điều kiện sau đây thì không có ý
nghĩa. Việc trả lương:
+Theo điều luật 55: BLLĐ thì tiền lương của người lao động do hai bên
thoả thuận trong hợp đồng và được thực hiện theo năn suất lao động, chất
lượngvà hiệu quả công việc. Mức lương cho người lao động không thấp hơn

mức tối thiểu do nhà nước tuyên bố cụ thể ở từng vùng, từng khu vực(144.000đ
được thực hiện từ 1/1/1997).
Nhà nước không khống chế mức lương tổi thiểu, mức lương tối đa, mức
lương tối đa mà điều tiết bắng thu nhập. Việc khống chế mức lương tối thiểu có
nghĩa là Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích tối thiểu của
người lao động. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ đến mỗi người
lao động có thu nhập dưới mức tối thiểu thì Nhà nước phải can thiệp, kiểm tra
xem xét thay đổi cán bộ lãnh đạo giúp doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất
hoặc thậm chí cho sát nhập với xí nghiệp khác hoặc pha sản. Khi đơn vị phá
sản, giải thể thanh lý, thì tiền lương phải được ưu tiên thanh toán cho người lao
động. Đối với người lao động có thu nhập qua cao sẽ được điều tiết theo luật
thức thu nhập. Việc thực hiện chế độ tiền lương phải được đảm bảo đúng như
trong nghị định 26/CP ra ngày 23/5/1993 của Chính phủ.
+ Đơn vị trả lương cho người lao động và các khoản phụ cấp phải trả đầy
đủ trực tiếp đúng hẹn, tại nơi làm việc và bằng tiền mặt.
+ Người lao động làm công việc gì, đảm nhiệm cức vụ gì thì hưởng việc
đó, chức vụ đó thông qua hợp đồng và thoả ước tập thể.
+ Việc trả lương phải theo kết qủa sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
phải đảm bảo nghĩa vụ đối với nhà nước, không được thấp hơn mức quy định
hiện hành.
+ Khi đơn vị bố trí người lao động tạm thời chuyển sang nơi làm việc hoặc
công việc khác thì phải trả lương cho người lao động không thấp hơn công việc
trước.
+ Người lao động đi làm thêm, làm thêm giờ thì doanh nghiệp phải trả
thêm lương dựa trên cơ sở điều b. Bộ luật lao động.
Đối với người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm tí nhất
bằng 30% tiền lương làm việc vào ban đêm.
Đối với người lao động làm thêm giờ.
- Vào ngày thường được trả ít nhất bằng 150% tiền lương giờ của cả ngày
làm việc bình thường.

- Vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày nghỉ lễ được trả lương ít nhất bằng
200% lương giờ của cả ngày làm việc bình thường.
- Nếu người lao động được nghỉ bù vào những giờ làm thêm thì người sử
dụng lao động chỉ phải trả phần tiền lương chênh lệch so với tiền lương giờ của
ngày làm việc bình thường.
II. CÁC HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG, QUỸ TIỀN LƯƠNG, QUỸ BHXH,
BHYT, KPCĐ
1. Các hình thức tiền lương.
Các doanh nghiệp áp dụng hai chế độ tiền lương cơ bản đó là chế độ trả
lương theo thời gian làm việc và chế độ trả lương theo sản phẩm (đủ tiêu chuẩn
chất lượng) do công nhân viên làm ra tương ứng với hai chế độ trả lương là hai
hình thức trả lương cơ bản.
+ Hình thức trả lương thời gian.
+ Hình thức trả lương sản phẩm.
*. Hình thức lương thời gian là hình thức tính lương theo thời gian làm
việc, cấp bậc kỹ thuật và thang lương của người lao động.
Theo hình thức này, tiền lương thời gian phải trả được tính theo thời gian
làm việc nhân với đơn giá tiền lương thời gian áp dụng đối với từng bậc lương.
Tuỳ theo hình thức và tính chất lao động khác nhau của mỗi ngành nghề cụ
thể có một thang lương riêng, mỗi thang lương có nhiều bậc lương tương ứng
với mỗi loại lương có một mức lương thời gian khác nhau.
Lương thời gian có thể tính theo lương tháng, lương ngày, lương giờ.
Lương tháng = Mức lương cơ bản + các khoản phụ cấp
Lương ngày = lương tháng 26 ngày
Lương giờ = lương ngày 8 giờ.
Tiền lương thời gian tính theo đơn giá tiền lương cố định còn được gọi là
tiền lương thời gian giản đơn. Tiền lương thời gian giản đơn nếu kết hợp với
tiền thưởng (đảm bảo ngày giờ công lao động..) tạo nên dạng tiền lương có
thưởng. Để tính lương thời gian trả công nhân phải theo dõi ghi chép đầy đủ
thời gian cụ thể.

Các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức lương này cho những loại
công việc chưa xây dựng được định mức lao động, chưa có đơn giá lương sản
phẩm.
*. Hình thức lương sản phẩm.
Là hình thức tiền lương theo khối lượng (số lượng) sản phẩm công việc đã
hoàn thành, đảm bảo yêu cầu chất lượng quy định và giá tiền lương tính cho
đơn vị sản phẩm công việc đó.
- Tiền lương sản phẩm tính bằng khối lượng (số lượng) so công việc hoàn
thành đủ tiêu chuẩn chất lượng nhân với đơn giá lương sản phẩm.
Việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu hạch
toán kết quả lao động (ví dụ: Xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành…)
và đơn giá tiền lương mà doanh nghiệp áp dụng đối với từng loại sản phẩm
công việc.
Tiền lương sản phẩm có thể áp dụng đối với lao động trực tiếp sản xuất
kinh doanh gọi là tiền lương sản phẩm trực tiếp hoặc có thể áp dụng đối đối với
người lao động gián tiếp. tuỳ theo yêu cầu kích thích người lao động để nâng
cao chất lượng, nâng cao năng suất sản lượng hay đẩy mạnh tiến độ sản xuất mà
có thể áp dụng các đơn giá tiền lương sản phẩm khác nhau.
Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định thường được gọi
là tiền lương sản phẩm giản đơn.
Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá lương sản phẩm tăng dần (luỹ tiến)
áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt mức khối lượng sản phẩm được gọi là
lương sản phẩm luỹ tiến.
Biến tướng của lương sản phẩm còn là tiền lương sản phẩm khoản theo
khối lượng công việc hay là khoán gọn, khoán sản phẩm, khoán sản phẩm cuối
cùng….
Lương khoán sản phẩm là hình thức trả lương theo sản phẩm trong đó
người công nhân được nhận một số tiền nhất định theo đúng thời gian quy định
công việc đó đảm bảo chất lượng.
Hiện nay lương khoán được áp dụng khá rộng rãi trong nhiều công việc ở

tất cả các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (trong công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải và thương nghiệp).
Hình thức lương sản phẩm có ưu điểm là đảm bảo được nguyên tắc phân
phối theo lao động, tiền lương gắn chặt với khối lượng, chất lượng lao động của
mình, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội. Vì vậy hình thức
tiền lương sản phẩm được áp dụng rộng rãi ở tất cả các loại hình doanh nghiệp
kinh doanh.
Điều đáng chú ý là trả lương theo sản phẩm tập thể (sản phẩm công việc
do nhóm, tổ lao động tạo ra), cần vận dụng cách chia lương theo thời gian làm
việc và cấp bậc kỹ thuật kết hợp bình điểm, chia lương theo bình điểm.
2. Quỹ tiền lương.
Quỹ tiền lương còn gọi là tổng số tiền mà doanh nghiệp cơ quan tổ chức
dùng để trả lương và các khoản phụ cấp có tính tiền lương cho toàn bộ công
nhân viên (thường xuyê, tạm thời ) trong kỳ nhất định.
Quỹ tiền lương bao gồm các khoản mục sau.
-Tiền lương tính theo thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm, tiền lương
khoán.
Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do
nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác, làm nghĩa vụ
theo chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Các khoản tiền lương kế hoạch có tính chất thường xuyên.
Ngoài ra trong tiền lương kế hoạch còn được tính các khoản trợ cấp,BHXH
cho cán bộ công nhân viên trong thời kỳ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động …
Về phương diện hạch toán tiền lương trả cho công nhân viên trong doanh
nghiệp sản xuất được chia làm hai loại: Tiền lương chính và tiền lương phụ
-Tiền lương chính là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian
công nhân viên thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ và thời
gian công nhân viên nghỉ được hưởng theo chế độ quy định của nhà nước (nghỉ
phép, nghỉ ngừng sản xuất …).
Việc phân chia tiền lương thành: Lương chính và lương phụ có ý nghĩa

quan trọng đối với công tác kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản
phẩm.
Tiền lương phụ của công nhân sản xuất không gắn liền với từng loại sản
phẩm nên được hạch toán gián tiếp vào chi phí sản xuất sản phẩm. Quản lý quỹ
tiền lương của doanh nghiệp phải trong quan hệ với việc thực hiện kế hoạch
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm sử dụng hợp lý quỹ tiền lương tiền
thưởng thúc đẩy tăng năng suất lao động, hạ thấp giá thành sản phẩm sản xuất.
Tóm lại quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền thưởng mà doanh
nghiệp trả cho tất cả lao động thuộc doanh nghiệp quản lý. Thành phẩm quỹ tiền
lương bao gồm nhiều khoản như lương thời gian (tháng, ngày, giờ) lương sản
phẩm phụ cấp (cấp bậc, chức vụ, …) tiền thưởng trong sản xuất. Quỹ tiền lương
(hay tiền công) bao gồm nhiều loại, tuy nhiên về mặt hạch toán có thể chia
thành tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp. Trong đó
chi tiết theo lương chính và lương phụ.
3. Các qũy và các khoản trích theo lương.
*.Qũy bảo hiểm xã hội: Được hình thành từ các nguồn sau đây
(theo điều luật lao động).
- Người sử dụng lao động (doanh nghiệp) đóng 155 tổng qũy lương của
người tham gia bảo hiểm xã hội trong đơn vị: trong đó 10 % trả cho các chế độ
hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả
Cho các chế độ ốm đau,thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng góp 5% tiền lương một tháng để chi trả các chế độ
hưu trí tử tuất.
- Nhà nước đóng góp hỗ trợ thêm để bảo đảm và thực hiện các chế độ bảo
hiểm xã hội đối với người lao động.
Qũy bảo hiểm xã hội được phân cấp quản lý sử dụn. Một bộ phận được
nộp lên cơ quan quản lý chuyên ngành để chi trả cho các trường hợp quy định
(nghỉ hưu, mất sức) còm một bộ phận để chi tiêu trực tiếp tại doanh nghiệp cho
những trường hợp nhất định (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động …). Việc sử
dụng chi quỹ lương bảo hiểm xã hội dù ở cấp quản lý nào cũng phải được thực

hiện theo chế độ quy định.
Tài khoản 431 dùng để phản ánh việc trích lập sử dụng quỹ cơ quan của
các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Quỹ cơ quan được trích từ chênh lệch thu lớn hơn chi của các hoạt động
sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc tính từ các khoản thu theo quy định của chế
độ tài khoản (nếu có) hoặc Nhà nước được cấp trên cấp.
Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản 431 (quỹ cơ quan)
Bên Nợ: Các khoản chi quỹ cơ quan.
Bên có: hình thành quỹ cơ quan, từ các khoản thu hoặc các quỹ cơ quan
được cấp, được tài trợ.
Số dư: Số quỹ cơ quan hiện còn chưa sử dụng
- TK 431 “quỹ cơ quan có 3 tài khoản cấp 2”.
Tài khoản 4311:Quỹ Khen thưởng phản ánh việc hình thành quỹ khen
thưởng của đơn vị.
+ TK 4312: Quỹ phúc lợi phản ánh sự hình thành và sử dụng quỹ phúc lợi
của đơn vị.
+ TK 4318: Quỹ khác phản ánh việc hình thành và sử dụng các quỹ khác
ngoài quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi và quỹ phúc lợi như: Quỹ phát triển
khoa học, quỹ phát triển sự nghiệp.
• Bảo hiểm y tế.
Quỹ bảo hiểm y tế được trích từ hai nguồn đó là phân theo chế độ quỹ định
doanh nghiệp phải mua cho người lao động sẽ được tính vào chi phí sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp hàng tháng theo tỷ lệ quy định 2% trên tổng só
tiền lương thực tế phải mua chế độ bảo hiểm, thông thường trừ vào lương công
nhân viên theo tỷ lệ 1%. Bảo hiểm y tế được nộp lên cơ quan quản lý bảo hiểm
để phục vụ bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cho công nhân vien (khám chữa bệnh…).
Các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cùng với tiền lương phải
trả công nhân viên trong tổng chi phí và sản xuất kinh doanh của Công ty
Quản lý được tính toán trích lập và chỉ tiêu sử dụng các quỹ tiền lương,
Quỹ BHXH, BHYT, có ý nghĩa không ngừng đối với việc tính toán chi phí sản

xuất kinh doanh mà cìn cả với việc việc bảo đảm quyền lợi lao động trong
doanh nghiệp.
Ngoài quỹ lương và quý BHXH, BHYT có tính pháp lệnh bắt buộc nói
trên. Các doanh nghiệp còn được phép hình thành các loại quỹ phúc lợi xã hội,
quỹ khen thưởng, qũy trợ cấp thất nghiệp … để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động.

×