Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Bảo đảm quyền của người khuyết tật ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.67 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU TRANG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM

Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 9.38.01.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2021


Cơng trình đƣợc hồn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung

Phản biện 1: GS.TS. Phạm Hồng Thái
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Minh Đoan
Phản biện 3: PGS.TS. Đinh Xuân Thảo

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại:
Học viện khoa học xã hội
Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 20..

Có thể tìm hiểu luận án tại:


- Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
- Thƣ viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
(Liên quan đến luận án)
1. Bảo đảm quyền bình đẳng và khơng phân biệt đối xử với người khuyết
tật trong lao động – Tạp chí Dân chủ và Pháp luật – Bộ Tư pháp – Số 5(314)
tháng 5 năm 2018.
2. Bảo đảm quyền học tập của người khuyết tật – Tạp chí nhân lực khoa
học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã
hội – Số 5(60) năm 2018.
3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền
của người khuyết tật – Tạp chí Khoa học – Đại học Quốc gia Hà nội (Luật
học) – Số 1(35) năm 2019.
4. Bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục hoà nhập của người khuyết tật - Tạp
chí nhân lực khoa học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam –
Học viện Khoa học xã hội – Số 3(82) năm 2020.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Hiện nay, tỷ lệ người khuyết tật (NKT) trên tổng số dân ở Việt Nam tương
đối cao so với các quốc gia khác, chiếm khoảng 6,2 triệu người tương đương
khoảng hơn 7% dân số, bên cạnh đó cịn có khoảng 13% dân số - gần 12 triệu
người sống chung trong hộ gia đình có NKT. Quyền của NKT đã được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc tế và các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
NKT thuộc nhóm xã hội đặc biệt dễ bị tổn thương, vì vậy việc bảo đảm quyền
của họ có ý nghĩa khơng chỉ về phương diện nhân văn mà còn về cả các
phương diện khác như chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia. Nếu như

trước đây, quyền của NKT chỉ được quan tâm ở mức độ đảm bảo cho họ có
được mức sống tối thiểu và được chăm sóc về y tế thì giờ đây trong điều kiện
kinh tế - xã hội phát triển hơn, việc chăm lo đến quyền của họ còn thể hiện ở
việc chống phân biệt đối xử cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện
bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và phát huy khả
năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng và tham gia các hoạt
động văn hoá, xã hội. Mặc dù quyền của NKT đã được pháp luật Việt Nam
ghi nhận và bảo vệ từ lâu, tuy nhiên thực tế vẫn còn tồn tại khơng ít những hạn
chế trong việc bảo đảm quyền này. Nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền của
người khuyết tật ở Việt Nam” trong bối cảnh này là thực sự cần thiết và cấp
bách nhằm đáp ứng những đòi hỏi về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực
tiễn và nhu cầu của bảo đảm cũng như bảo vệ quyền con người, trong đó có
quyền của NKT.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là tìm ra các giải pháp hồn thiện pháp
luật về bảo đảm quyền của NKT và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo đảm quyền của NKT trên thực tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực trạng bảo đảm quyền của NKT ở
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu về bảo đảm pháp lý về quyền
của NKT ở Việt Nam bởi quyền của NKT và bảo đảm quyền của họ là vấn đề
rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực và nhiều ngành khoa học xã hội như
luật học, chính trị học, xã hội học, tâm lý học. Với tính chất là một luận án

1


tiến sĩ luật học, cơng trình này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những mức
độ nhất định.

Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền của NKT, khung pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền của NKT ở
Việt Nam trong khoảng thời gian kể từ khi Việt Nam có Luật Người khuyết tật
năm 2010 trở lại đây. Việc đề cập đến khung pháp luật và thực trạng bảo đảm
quyền của NKT ở Việt Nam trước giai đoạn năm 2010 chỉ mang tính khái qt
nhằm mục đích có một cái nhìn xuyên suốt, hệ thống về vấn đề nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam và pháp luật của Nhà nước.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp;
phương pháp nghiên cứu phân tích pháp lý (phương pháp nghiên cứu pháp
luật truyền thống); phương pháp phân tích tình huống thực tiễn (case study
examination); phương pháp điều tra xã hội học (phỏng vấn chuyên gia);
phương pháp so sánh luật; phương pháp diễn giải, quy nạp... để giải quyết các
vấn đề và nhiệm vụ của luận án.
5. Những điểm mới của luận án
- Về cách tiếp cận: Luận án tiếp cận vấn đề bảo đảm quyền của NKT dưới
góc độ và sự phối hợp của khoa học luật học, khoa học phát triển, xã hội học,
văn hoá học (cách tiếp cận đa ngành và liên ngành), trong đó nổi bật là cách
tiếp cận dựa trên quyền.
- Luận án là cơng trình nghiên cứu chun sâu những vấn đề lý luận về bảo
đảm quyền của NKT; phân tích thực trạng bảo đảm quyền của NKT ở Việt
Nam; kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm quyền của NKT ở một số quốc gia.
- Luận án đưa ra quan điểm bao gồm: cần phải hồn thiện chính sách pháp
luật về bảo đảm quyền của NKT với những nội dung cụ thể; đổi mới cơ chế tổ
chức thực hiện pháp luật về quyền của NKT; kết hợp đồng thời nhiều phương
thức bảo đảm quyền của NKT; huy động sự tham gia của nhiều chủ thể liên
quan, đặc biệt là vai trò của các tổ chức NGO, hội NKT...
- Luận án đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền của NKT được
thực thi đầy đủ, toàn diện thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư

pháp; nâng cao nhận thức về quyền và việc bảo đảm quyền của NKT và các
chủ thể liên quan.

2


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về
bảo đảm quyền của NKT theo pháp luật Việt Nam, góp phần củng cố, làm r
về mặt lý luận và nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền của NKT theo pháp
luật Việt Nam.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những luận cứ
khoa học gi p các cơ quan và tổ chức trong hoạch định chủ trương, chính sách
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của NKT ở Việt Nam trong thời
gian tới. Đồng thời, đề xuất các khuyến nghị quan trọng trong việc thực thi
pháp luật, bảo đảm thực hiện trên thực tiễn quyền của NKT ở Việt Nam trong
thời gian tới.
- Luận án còn có giá trị tham khảo trong cơng tác nghiên cứu, giảng dạy ở
các cơ sở đào tạo có chun mơn liên quan đến đề tài.
7. Bố cục của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
gồm 04 chương và 01 phụ lục.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nội dung cơ bản của các cơng trình nghiên cứu có liên quan
trực tiếp đến đề tài luận án
Về lý luận, các nghiên cứu trong và ngồi nước đã phân tích được khái
niệm, đặc điểm, phân loại NKT và khái niệm, đặc điểm về quyền của họ,
nhưng chưa làm r được khái niệm và đặc điểm đối với vấn đề bảo đảm quyền
của NKT. Luận án sẽ tiếp tục làm r một số vấn đề sau: (1) Khái niệm và đặc

điểm của NKT dưới các góc độ khác nhau; (2) Khái niệm, đặc điểm quyền của
NKT theo pháp luật thể hiện qua chính sách của nhà nước và các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả Việt Nam trong mối tương quan với nhận thức phổ
biến của cộng đồng quốc tế; (3) Lý luận về bảo đảm quyền của NKT.
Về thực tiễn, các nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung cho
thấy sự phản ánh được cơ chế thực hiện bảo đảm quyền con người, qua đó
nhận thức được giá trị th c đẩy và xây dựng việc thực hiện bảo đảm quyền
của một số đối tượng đặc biệt, trong đó có NKT. Luận án sẽ làm r : (1)
Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trong nhận thức về quyền cũng như bảo
đảm quyền của NKT; (2) Nguyên nhân dẫn đến các bất cập, mâu thuẫn trong

3


quá trình thực hiện pháp luật về NKT ở Việt Nam thời gian qua; (3) Làm rõ
nguyên nhân dẫn đến việc không mang lại hiệu quả cao trong việc bảo đảm
các quyền của NKT hay đã được đảm bảo phần nào nhưng chưa đầy đủ và
toàn diện.
Về giải pháp kiến nghị, các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã đề cập
nhiều giải pháp nhằm sửa đổi pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
của con người nói chung, quyền của NKT nói riêng. Luận án tiếp tục kiến
nghị một số vấn đề hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng
bộ, bảo đảm tính phù hợp và có khả năng thực thi của pháp luật về bảo đảm
quyền của NKT trên thực tế. Kiến nghị áp dụng một số kinh nghiệm quốc tế
để nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của NKT theo pháp luật Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu: Vì sao và làm thế nào để bảo đảm các quyền của NKT
được thực thi một cách có hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện nay?
Việc xây dựng nền tảng cơ sở lý luận và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền
của NKT có ý nghĩa quan trọng trong việc để NKT có cơ hội tiếp cận, hưởng

thụ quyền của mình một cách bình đẳng, khơng bị phân biệt đối xử; Các quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của NKT vẫn còn những điểm
chưa thực sự phù hợp, còn tồn tại những khoảng trống pháp lý; Việc đưa ra
các giải pháp tăng cường để quyền của NKT được bảo đảm bền vững cần phải
thông qua việc hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, thực hiện đồng bộ
các biện pháp cũng như là kết hợp đồng thời nhiều phương thức bảo đảm.
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO
ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
2.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật
2.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền của người khuyết tật
Bảo đảm quyền của NKT được hiểu là việc Nhà nước và các chủ thể có
trách nhiệm khác thiết lập, thực hiện, tuân thủ những điều kiện hay hoạt động
cần thiết để NKT được tôn trọng, thực hiện và hưởng thụ đầy đủ các quyền,
lợi ích tự nhiên, chính đáng của họ.
2.1.2. Đặc điểm bảo đảm quyền của người khuyết tật
Thứ nhất, bảo đảm quyền cho NKT được thể hiện trước tiên thông qua việc ghi
nhận các quyền của NKT trong quy định pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp
lý quốc tế về cấm phân biệt đối xử, kỳ thị với NKT vì lý do khuyết tật.

4


Thứ hai, bảo đảm quyền cho NKT theo các quy định của pháp luật phải
phù hợp với các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế và thoả mãn mọi điều kiện để
NKT thực hiện các quyền vốn có của mình một cách đầy đủ, phù hợp và trọn
vẹn nhất.
Thứ ba, bảo đảm quyền cho NKT không đơn thuần chỉ là pháp luật quy
định đầy đủ các quyền hay các điều kiện phù hợp ra sao, mà quan trọng hơn cả
đó là phải nâng cao năng lực của chủ thể quyền – NKT, đánh giá năng lực của
các chủ thể liên quan – gia đình, doanh nghiệp, xã hội và trách nhiệm của chủ

thể có nghĩa vụ thực hiện quyền.
Thứ tư, bảo đảm quyền cho NKT cịn phải thơng qua việc làm r mối quan hệ
giữa chủ thể của quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền. Qua đó, vai trò của
các bên sẽ được xác định r ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bên phải thực hiện
quyền một cách cơng khai, minh bạch và khơng có sự phân biệt đối xử.
Thứ năm, bảo đảm quyền cho NKT đòi hỏi từ sự nhận thức đầy đủ về giá
trị của việc bảo đảm quyền cho NKT, phải làm sao để những NKT nhận thức,
ý thức được là họ có quyền được tiếp cận, hoà nhập và hỗ trợ để hoà nhập vào
cộng đồng, hỗ trợ trong tiếp cận thông tin, trong việc đi lại, chăm sóc sức
khoẻ, phục hồi chức năng và hơn cả, đó là xã hội phải thấy được vị thế của
những người đang sống chung với khuyết tật.
2.2. Nguyên tắc, nội dung, phƣơng thức bảo đảm quyền của ngƣời
khuyết tật
2.2.1. Các nguyên tắc bảo đảm quyền của người khuyết tật
Các nguyên tắc chung mà Công ước quốc tế về quyền của NKT (CRPD) đề cập
đến chính là những tư tưởng, định hướng có tính xun suốt trong tồn bộ Cơng
ước, ch ng được xây dựng trên cơ sở tính đến các nhu cầu đặc thù của NKT nhằm
bù đắp cho những hạn chế, thiệt thòi của họ, bao gồm: Tơn trọng phẩm giá vốn có,
quyền tự chủ của cá nhân bao gồm sự tự do lựa chọn và tôn trọng sự độc lập của cá
nhân; Không phân biệt đối xử; Tham gia và hoà nhập xã hội đầy đủ và hiệu quả;
Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận NKT như một phần của sự đa dạng nhân loại
và nhân văn; Bình đẳng về cơ hội; Tiếp cận; Bình đẳng giữa nam và nữ; Tơn trọng
những khả năng đang phát triển của trẻ em khuyết tật và tơn trọng quyền được bảo
vệ giữ gìn bản sắc riêng của các em.
2.2.2. Nội dung bảo đảm pháp lý quyền của người khuyết tật
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền
của NKT.

5



- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của NKT.
2.2.3. Phương thức bảo đảm quyền của người khuyết tật
Phương thức bảo đảm quyền của NKT – trọng tâm là bảo đảm pháp lý sẽ
được thấy r thơng qua hai nội dung đóng vai trị rất quan trọng, đó là: việc
ghi nhận quyền – “thể chế” cùng với tổ chức và hoạt động để thực thi quyền –
“thiết chế”.
Các quyền của NKT được tôn trọng, ghi nhận, th c đẩy, bảo vệ, bảo đảm
trên các lĩnh vực và với tư cách là một chủ thể bình đẳng với tất cả mọi người
khác - những rào cản hình thành trong cộng đồng như phân biệt đối xử hay bỏ
mặc cần phải được xố bỏ. NKT sẽ có đầy đủ khả năng và những hỗ trợ cần
thiết từ Nhà nước để thực thi các quyền của họ trên thực tế.
Song song với ghi nhận quyền của NKT chính là nghĩa vụ của Nhà nước
trong việc bảo đảm quyền cho họ. Nhà nước bị ràng buộc bởi những cam kết
với cộng đồng quốc tế và với chính các cơng dân của quốc gia nên phải không
ngừng thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm cho đời sống của NKT.
Nghĩa vụ của các quốc gia thể hiện ở các hình thức cụ thể bao gồm nghĩa vụ
tơn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện. Nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên là phải hiện thực hố các ngun tắc và nội dung của Cơng ước
quốc tế về NKT thơng qua việc nội luật hố, qua đó quyền của NKT được
thực thi một cách đầy đủ, đồng thời NKT cũng có thể chủ động khiếu nại hoặc
khởi kiện bất kỳ hành vi nào bị cho là xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật
Yếu tố chính trị: quan điểm chính trị của nhà cầm quyền ảnh hưởng trực
tiếp đến mức độ ghi nhận và bảo đảm thực thi quyền con người nói chung và
quyền của NKT nói riêng. Một chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ thường có
mục tiêu vì con người, lấy con người làm trung tâm để xây dựng đường lối,
chính sách nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất để th c đẩy quyền con người,
trong đó có quyền của NKT.

Yếu tố pháp luật: phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị của quyền con
người, bảo đảm giá trị thực tế của quyền con người. Pháp luật là công cụ gi p nhà
nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người, đồng thời là công cụ của
các cá nhân trong việc bảo vệ quyền của họ, trong đó có quyền của NKT.
Yếu tố kinh tế: một trong những yếu tố có tác động đến quyền của NKT,
hình thành cơ chế bảo vệ quyền, đồng thời góp phần quyết định ý thức bảo vệ

6


quyền của mỗi cá nhân. Khi kinh tế phát triển, các quyền về kinh tế, xã hội và
văn hóa được bảo đảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền được sống độc lập và
hòa nhập cộng đồng của NKT.
Yếu tố văn hoá, xã hội: xã hội là phạm trù rộng lớn và là mơi trường sống
mà ở đó các cá nhân hoạt động, tương tác với nhau. Môi trường, xã hội với
những định kiến, kì thị chính là ngun nhân tạo ra khuyết tật. Văn hố, tín
ngưỡng cũng là yếu tố tác động rất lớn đến NKT, ở nhiều nơi vẫn cịn sự kỳ
thị vì họ được xem như là sự trừng phạt cho tội lỗi mà người nhà của họ kiếp
này hay kiếp trước đã phạm phải.
2.4. Cơ sở pháp lý quốc tế về bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật và
kinh nghiệm bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật ở một số quốc gia trên
thế giới
2.4.1. Khung pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của người khuyết tật
Trên phương diện pháp lý, Liên hợp quốc đã xây dựng và phát triển khuôn
khổ pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền con người của NKT trong những
văn kiện cốt l i có giá trị ràng buộc với các quốc gia thành viên như sau: Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966; Cơng ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hố 1966; Cơng ước quốc tế về xố bỏ mọi hình
thức phân biệt chủng tộc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua ngày
21/12/1965; Cơng ước về xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ

nữ được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 18/12/1979; CRPD được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 30/3/2007…
2.4.2. Kinh nghiệm và giá trị tham khảo về bảo đảm quyền của người
khuyết tật của một số quốc gia trên thế giới
Kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm quyền của NKT ở một số quốc gia trước tiên
được thể hiện thơng qua việc các quốc gia đó có thống nhất với nhau về quan
điểm khuyết tật hay không. Những quy định liên quan tới tình trạng cũng như
mức độ khuyết tật hay cách sử dụng từ ngữ diễn tả vẫn đang là chủ đề gây rất
nhiều tranh cãi ở các quốc gia và cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất
về NKT áp dụng chung cho các nước. Trong quá trình thực thi quyền của NKT,
mỗi quốc gia đều có những thành tựu nhất định và những hạn chế tương ứng. Dù
là ưu điểm hay nhược điểm thì cũng là kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam,
những điểm tốt và phù hợp cần được phát huy, bên cạnh đó cũng gi p cho Việt
Nam tránh khỏi những hạn chế mà các quốc gia khác đã mắc phải.

7


CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI
KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Tình hình ngƣời khuyết tật và những yếu tố tác động đến bảo đảm
quyền của ngƣời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Tình hình về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam hiện nay là nước có tỉ lệ NKT tương đối cao so với các nước
khác trên thế giới, khoảng hơn 7,2 triệu người là NKT và khuyết tật phổ biến
hơn ở nữ giới, người già và người nghèo. Trong đó, có khoảng 13% dân số gần 12 triệu người sống chung trong hộ gia đình có NKT, tỷ lệ này dự kiến sẽ
tăng lên cùng với xu hướng già hóa dân số. Cho dù NKT là đối tượng được
hưởng chính sách bảo hiểm y tế và tình trạng nghèo không phải là rào cản đối
với việc tiếp cận các cơ sở y tế, nhưng rất ít NKT (2.3%) tiếp cận được với
dịch vụ phục hồi chức năng khi bị ốm hoặc bị thương.

Trong tổng số NKT có khoảng 21% NKT còn khả năng lao động và 62%
trong số này đang tham gia hoạt động kinh tế tạo thu nhập. Đa số NKT có
trình độ văn hố thấp và chưa qua đào tạo nghề, lĩnh vực hoạt động kinh tế
chủ yếu của NKT là sản xuất nông nghiệp. Khoảng 80% NKT ở thành thị và
70% NKT ở nông thôn phải sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã
hội, số NKT có thể tự lập được cuộc sống chỉ chiếm khoảng 11% trong tổng
số NKT trong cả nước. Từ những con số biết nói trên có thể đánh giá tình
trạng khuyết tật của dân số và điều kiện kinh tế, xã hội nhằm cung cấp bằng
chứng phục vụ lập kế hoạch, chính sách, cải thiện cuộc sống của NKT tại Việt
Nam.
3.1.2. Thực trạng pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay
Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc bảo vệ và
th c đẩy quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, đặc biệt là với NKT.
Ngày 01/11/2019, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ thị 39-CT/TW về
việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác NKT. Trên thực tế,
vấn đề quyền của NKT đã được thể hiện trong pháp luật và chính sách của
nước ta từ rất sớm, trước khi Việt Nam tham gia, thậm chí trước khi Liên hợp
quốc thơng qua các điều ước quốc tế có liên quan như việc bảo đảm quyền của
NKT trong Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam.
Sau này, vấn đề NKT được thể hiện trong văn bản pháp luật cao nhất, Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua

8


năm 1992 và sửa đổi năm 2001 ghi r : “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ
côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội gi p đỡ. Nhà nước và xã
hội tạo mọi điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù
hợp”, việc bảo vệ NKT được nêu tại Điều 59 và Điều 67 của Hiến pháp này.

Hiến pháp 2013 lại tiếp tục khẳng định thông qua Điều 59: “Nhà nước tạo
bình đẳng về cơ hội để cơng dân thụ hưởng ph c lợi xã hội, phát triển hệ
thống an sinh xã hội, có chính sách trợ gi p người cao tuổi, người khuyết
tật…” và Điều 61 “Nhà nước … tạo điều kiện để người khuyết tật và người
nghèo được học văn hóa và học nghề”. Trên cơ sở này, nhiều văn bản pháp
luật khác đã được ban hành, triển khai áp dụng trong thực tiễn đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của NKT trên mọi mặt của đời sống xã hội, gồm: nhóm
các văn bản về y tế cho NKT; nhóm các văn bản về giáo dục cho NKT; nhóm
các văn bản về lao động việc làm cho NKT; nhóm các văn bản về bảo trợ xã
hội cho NKT; nhóm các văn bản quy định hoạt động thể dục, thể thao và văn
hóa, giải trí cho NKT; nhóm các văn bản quy định về tiếp cận cơng trình công
cộng, phương tiện giao thông và công nghệ thông tin cho NKT.
Sau hơn 10 năm Pháp lệnh Người tàn tật 1998 ra đời, tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Nhà nước có điều
kiện hơn để quan tâm đến NKT, cùng với đó nguồn lực xã hội dồi dào đã
mang lại nhiều cơ hội hơn trong việc giải quyết các vấn đề về khuyết tật, nhận
thức về NKT cũng có những thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Chính vì vậy,
để tiếp tục giải quyết có hiệu quả vấn đề khuyết tật, Quốc hội Việt Nam đã
thông qua Luật NKT 2010 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Đến
năm 2013, Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế
thu nhập doanh nghiệp ra đời đã làm cho Luật NKT 2010 hết hiệu lực một
phần. Năm 2020 Quốc hội đã thông qua ba đạo luật trong đó có lồng ghép các
quy định để bảo vệ quyền của NKT như: Luật Hoà giải, đối thoại tại toà án;
Luật Đầu tư và Luật Cư tr . Ngồi ra, quyền của NKT cịn được quy định
trong rất nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục
nghề nghiệp, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Giao
thông đường bộ, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch...
Bên cạnh các văn bản luật cịn có những văn bản dưới luật điều chỉnh vấn
đề quyền của NKT hay những chương trình quốc gia về NKT như: Quyết định
số 1019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05 tháng 8 năm 2012: Phê

duyệt Đề án trợ gi p NKT giai đoạn 2012 – 2020; Quyết định số 753/QĐ-TTg

9


ngày 03 tháng 6 năm 2020: Ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện Chỉ thị số
39-CT/TW ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Ban bí thư về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác NKT; Quyết định số 1190/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 05 tháng 8 năm 2020: Phê duyệt Chương trình trợ gi p
NKT giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 08/QĐ-UBQGNKT ngày 28 tháng
9 năm 2017 kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia về NKT Việt Nam giai
đoạn 2018-2020...
3.1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền của người khuyết tật ở
Việt Nam hiện nay
Điều kiện kinh tế - xã hội: Điều kiện sống và sinh hoạt của NKT và gia đình có
NKT thường nghèo nàn, thu nhập thường ở mức thấp, điều này dẫn đến việc ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống, sức khoẻ, ph c lợi của các thành viên trong gia đình.
Khuyết tật là ngun nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho NKT trong việc thực
hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch
vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội.
Chính sách, pháp luật: Chính sách chính là cơ sở pháp lý tạo ra các quyền
cho NKT và cũng là cơ sở pháp lý để thực hiện tất cả các biện pháp bảo đảm
thực hiện các quyền này trên thực tế.
Vai trị của nhà nước: Nhà nước đóng vai trị quan trọng tiên quyết trong
việc bảo đảm quyền của NKT bởi nhà nước có thẩm quyền ban hành chính
sách, pháp luật. Nhà nước là chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật và cũng
là chủ thể có khả năng xử lý vi phạm bằng các hình thức chế tài cụ thể đối với
các tổ chức, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ đối với NKT.
Vai trò của cộng đồng, xã hội: NKT gặp khá nhiều rào cản trong cuộc sống
nên để gi p họ tham gia vào các hoạt động cộng đồng và đóng góp cơng sức

của mình cho xã hội, cho sự th c đẩy kinh tế xã hội của quốc gia thì cộng
đồng, xã hội đóng vai trị rất lớn. Điều này có thể thấy rõ từ việc cộng đồng,
xã hội thay đổi nhận thức về NKT, tạo điều kiện hỗ trợ, gi p đỡ họ ở các lĩnh
vực của đời sống xã hội, qua đó góp phần bảo đảm quyền của NKT được thực
thi một cách đầy đủ và hiệu quả trên thực tế.
3.2. Thực trạng bảo đảm một số quyền của ngƣời khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay
3.2.1. Quyền được chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng
Năm 2016 cả nước có 896.644 NKT nặng được cấp thẻ bảo hiểm y tế
(BHYT) theo quy định của Nghị định 28/2012/NĐ-CP và trên 150.000 NKT

10


nhẹ thuộc các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ chính sách xã hội được cấp thẻ
BHYT hoặc hỗ trợ mua thẻ BHYT, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Từ năm 2016, NKT khi tham gia BHYT được
ưu tiên về mức đóng, mức hưởng theo quy định: NKT nặng và đặc biệt nặng,
NKT dưới 6 tuổi, NKT nặng thuộc hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số,
sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, tại
xã đảo, huyện đảo, thuộc đối tượng ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội hàng tháng
được hỗ trợ 100% phí BHYT. NKT tham gia BHYT khi khám bệnh, chữa
bệnh theo đ ng quy định tại Điều 26, 27, 28 của Luật BHYT thì được Quỹ
BHYT thanh tốn chi phí khám bệnh theo các mức 100%, 95% và 80% tuỳ
theo đối tượng; trường hợp tự khám chữa bệnh không đ ng tuyến, phải nằm
điều trị nội tr thì được thanh tốn mức 40% chi phí điều trị nội tr (tuyến
trung ương), 60% (tuyến tỉnh), 70% (tuyến huyện).
Cũng tại hội nghị sơ kết tình hình hoạt động 6 tháng đầu năm 2019 của Uỷ
ban Quốc gia về NKT cho biết ngân sách Nhà nước cấp cho địa phương để
thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP về việc quy định chính sách trợ gi p

xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội (bao gồm trợ cấp hàng tháng và mua
thẻ BHYT) là 17.388 tỷ đồng. Tính đến nay, cả nước có trên 1 triệu NKT nặng
và đặc biệt nặng, khoảng 100.000 gia đình, cá nhân nhận chăm sóc đối tượng
bảo trợ xã hội tại cộng đồng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và hàng
triệu NKT, trẻ em khuyết tật được ni dưỡng, chăm sóc trong các cơ sở bảo
trợ xã hội. Về PHCN, cả nước đã có 63 bệnh viện, trung tâm PHCN, cụ thể:
100% bệnh viện trung ương đều có khoa PHCN, 90% bệnh viện đa khoa và
40% bệnh viện chuyên khoa cấp tỉnh có khoa PHCN; 70% bệnh viện tuyến
huyện có khoa PHCN riêng biệt hoặc ghép với khoa khác; 95% trạm y tế có
phân cơng cán bộ theo dõi cơng tác PHCN và NKT. Ngồi ra, Bộ Y tế cũng đã
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Khám bệnh, chữa bệnh, trong đó có quy
định về PHCN và PHCN dựa vào cộng đồng; sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế
trong đó có mục tăng phạm vi và độ bao phủ chi trả BHYT cho NKT.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, hoạt động chăm sóc sức khoẻ y tế ban đầu, phục hồi chức năng
(PHCN) cho NKT tại cộng đồng và gia đình vẫn cịn rất hữu hạn, chỉ có 2.3%
số NKT nhận được các dịch vụ PHCN cho NKT.
Thứ hai, NKT vẫn cịn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ vì cơ sở hạ tầng thiếu thốn dẫn đến NKT không thể tiếp cận hệ thống

11


phịng khám, khơng tiếp cận được hệ thống giao thơng, ví dụ: NKT phải đi xe
lăn nhưng cơ sở y tế khơng có hệ thống thang máy… đặc biệt là trẻ khuyết tật
ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện đi lại khơng thuận tiện.
Thứ ba, NKT cịn gặp khó khăn rất lớn trong chăm sóc y tế bởi nguồn lực
tài chính có hạn. NKT khơng có khả năng tiếp cận cơ quan y tế để chăm sóc
sức khoẻ của mình vì phần lớn NKT sinh sống trong gia đình có hồn cảnh
kinh tế khó khăn nên việc tiếp cận với dịch vụ y tế, nhất là dịch vụ y tế chất

lượng cao thường vượt quá khả năng tài chính của họ. Trong khi đó, việc sử
dụng thẻ BHYT vẫn còn nhiều bất cập, một số danh mục kỹ thuật PHCN đang
được thực hiện tại các cơ sở y tế chưa được quỹ BHYT chi trả, phần lớn các
dụng cụ trợ gi p cho NKT chưa được BHYT thanh toán.
Thứ tư, năng lực của các nhân viên y tế và những cán bộ khác trong cộng
đồng cũng vẫn còn hạn chế và không đồng đều giữa các khu vực. Họ có thể
khơng đủ khả năng tư vấn và hỗ trợ cho NKT cũng như không hiểu biết về
ngôn ngữ, ký hiệu… của NKT, thái độ của nhân viên y tế với NKT vẫn chưa
được nâng cao một cách toàn diện.
3.2.2. Quyền được giáo dục
Quyền học tập của NKT đã được quy định ở các đạo luật như Luật Giáo
dục năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2014, 2015; Luật NKT năm 2010,
sửa đổi năm 2013; Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, sửa đổi, bổ sung
năm 2015, 2017 và thực tế trong những năm qua số lượng NKT tham gia học
tập đã được tăng lên, đã có nhiều tấm gương về nỗ lực học tập và thành tích
đạt được của NKT. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về việc thực hiện các quy
định này cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, cần tiếp tục được nghiên
cứu, tháo gỡ từ những quy định của luật pháp đến việc tổ chức triển khai thực
hiện. Số lượng trẻ em khuyết tật đến trường có tăng hàng năm nhưng mục tiêu
trong Chiến lược phát triển giáo dục năm 2011 - 2020 về huy động 70% trẻ
em khuyết tật đến trường khó đạt được. Chưa kể đến, mục tiêu cụ thể trong
Chương trình trợ gi p NKT giai đoạn 2021 - 2030 đặt ra: 80% trẻ khuyết tật ở
độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục (giai đoạn 2021 –
2025); 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo
dục (giai đoạn 2025 – 2030).
Theo Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề năm 2015 của Uỷ ban về các vấn
đề xã hội của Quốc hội về việc thi hành Luật NKT, hầu hết các trường phổ
thông chưa bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy để giáo dục

12



hồ nhập; rất nhiều tỉnh, thành phố chưa có trung tâm, trường chuyên biệt
dành cho học sinh khuyết tật; phần lớn cán bộ quản lý, giáo viên dạy học sinh
khuyết tật chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ chun
mơn về giáo dục hồ nhập; số lượng NKT được dạy nghề thấp, hầu hết chỉ ở
trình độ sơ cấp. Năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2012/NĐCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT, quy
định về chế độ phụ cấp, chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục, nhân viên hỗ trợ giáo dục NKT. Tuy nhiên, việc thực thi chế độ phụ
cấp này trong thực tế ở nhiều địa phương có những bất cập, khiến nhiều giáo
viên nản lịng. Mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đến năm 2020 sẽ có ít
nhất 40% tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hỗ trợ phát triển giáo dục hoà
nhập là khá khiêm tốn. Hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hoà nhập
đã được thành lập ở nhiều tỉnh thành (như Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng
Ninh, Ninh Thuận, Vĩnh Long, Tiền Giang…).
Tóm lại, những hạn chế còn tồn tại trong việc bảo đảm quyền giáo dục với
NKT gồm:
Thứ nhất, NKT vẫn gặp một số rào cản trong tiếp cận nhà trường, tài liệu
học tập và phương tiện học tập. Mỗi NKT đều có khả năng đặc thù riêng, các
dạng khuyết tật khác nhau tương ứng sẽ gặp những rào cản khác nhau trong
tiếp cận giáo dục, ví dụ: NKT vận động thì khó để di chuyển từ nhà đến
trường học, người khiếm thị thì khơng có phương tiện học phù hợp…
Thứ hai, ngoài các rào cản vật lý thì sự kỳ thị đối với NKT trong trường
học cũng ảnh hưởng đến quyền giáo dục của họ, gần đây Viện nghiên cứu môi
trường Isee phối hợp với UNDP trong nghiên cứu về xóa bỏ kỳ thị trên quan
điểm của NKT đã công bố: NKT vẫn bị kỳ thị trong trường học và trong quá
trình học của mình.
Thứ ba, cơng tác tun truyền về các chính sách giáo dục cho NKT còn
hạn chế cả về nguồn lực và cách thức thực hiện, dẫn đến NKT chưa có nhiều
thơng tin về cơ sở giáo dục chuyên biệt hoặc bán hịa nhập, từ đó họ chưa thể

tiếp cận với các hình thức giáo dục phù hợp.
Thứ tư, liên quan đến chất lượng giáo dục. Thực tế đội ngũ giáo viên dạy
cho NKT chưa đáp ứng đủ nhu cầu học của NKT, giáo viên chưa được trang
bị các kiến thức cơ bản liên quan đến NKT hay trẻ khuyết tật, trong khi những
đặc điểm tâm sinh lý, kiến thức về dạng tật và mức độ khuyết tật có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập của NKT.

13


Thứ năm, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự phát triển của
kinh tế, quyền tiếp cận giáo dục của NKT cũng đã được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn
còn rất nhiều trường hợp NKT tại các khu vực, gia đình có điều kiện kinh tế khó
khăn không tiếp cận được với các phương tiện giáo dục hiện đại.
3.2.3. Quyền được lao động và có việc làm
Sự phân biệt đối xử và kỳ thị với NKT là khó tránh khỏi trong thực tiễn sử
dụng lao động ở nước ta hiện nay, bởi năng suất lao động của NKT thường
thấp, chi phí đầu tư cơ sở vật chất lớn… Thống kê cho thấy, NKT bị phân biệt
đối xử cao nhất là khuyết tật giao tiếp (95%), khuyết tật ghi nhớ (81%), NKT
bị coi thuờng (17%), NKT bị lăng mạ (54,2%). Thực tế đó cho thấy phân biệt
đối xử với NKT về việc làm ở nước ta vẫn đang là rào cản, trở ngại cho họ
trong q trình hồ nhập cộng đồng. NKT bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết
tật ngay trong quá trình tuyển dụng, cụ thể: các doanh nghiệp sản xuất thường
không muốn tuyển dụng người lao động khuyết tật do khối lượng công việc
lớn, NKT không đáp ứng được yêu cầu của công việc hoặc bản thân các doanh
nghiệp cũng đều ngại nếu tuyển dụng lao động khuyết tật sẽ phải đầu tư cơ sở
vật chất và sợ bị phạt nếu lỡ vơ tình phân biệt đối xử với NKT. Thống kê cũng
cho thấy chỉ có khoảng 65% doanh nghiệp sử dụng lao động NKT được hưởng
các chế độ chính sách hỗ trợ về vay vốn, giảm thuế, hỗ trợ tín dụng. Đối với
những NKT tự tạo việc làm, một số họ chưa được vay vốn bởi để được vay thì

phải thơng qua các tổ chức như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân hay phải nhờ các
tổ chức xã hội khác bảo lãnh. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố giai đoạn
2012-2017 cho thấy, mỗi năm Quỹ quốc gia về việc làm đã hỗ trợ hàng chục
nghìn NKT có việc làm. Dù vậy, để bảo đảm quyền được lao động và có việc
làm của NKT vẫn cần có một hành lang pháp lý chặt chẽ hơn nữa để đáp ứng
ước nguyện của NKT - “hãy đưa ch ng tơi hồ nhập với cộng đồng”.
Qua thực trạng trên, một vài đánh giá việc thực thi quyền này của NKT
như sau:
Thứ nhất, vẫn còn nhiều NKT chưa được học nghề và vay vốn để phát triển
sản xuất. Đa phần các cơ sở dạy nghề cho NKT chỉ tính đầu vào mà chưa tính
đầu ra. Các cơ sở khơng có sự liên kết với các doanh nghiệp nên học viên sau
đào tạo khó có việc làm ổn định, mất nhiều thời gian tìm việc mà khơng được
như mong đợi.
Thứ hai, ở những nơi NKT có việc làm thì thơng thường họ chỉ được làm
những cơng việc được trả lương thấp và thường bị tách biệt khỏi thị trường lao

14


động, thái độ coi thường, không tôn trọng đối với NKT; khi tham gia lao động
NKT chỉ được giao một số công việc nhất định và thường là những công việc
được trả lương thấp và có vị trí thấp; khơng được thăng tiến bình đẳng như
những người khác; ít được tập huấn dạy nghề để nâng cao năng lực sản xuất,
dẫn đến có nguy cơ dễ bị sa thải.
Thứ ba, bản thân NKT thường sống khép kín, thụ động, cộng thêm những
rào cản xã hội như thái độ phân biệt, đối xử... nên khơng quan tâm đến việc
tìm việc làm. Một số gia đình thương con, em mình bị khuyết tật nên khơng
đồng ý cho con em mình đi làm vất vả mưu sinh. Bên cạnh đó, các đơn vị, tổ
chức sử dụng lao động cũng chưa s n sàng nhận NKT vào làm việc, vì hiệu
quả làm việc của họ không cao và họ không chủ động được một số hoạt động

như những người bình thường.
3.2.4. Quyền tham gia vào đời sống chính trị và cơng cộng
Về ứng cử, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
năm 2015 có quy định về tuổi ứng cử và tiêu chuẩn của người ứng cử. Theo
đó, công dân nước CHXHCN Việt Nam đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và phải đáp ứng các tiêu
chuẩn của đại biểu Quốc hội tại Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân tại Điều 7 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Các tiêu
chuẩn về ứng cử đưa ra rất nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí về “sức khoẻ”,
điều này có thể hiểu rằng những người ứng cử phải có sức khoẻ tốt để đảm
nhận vị trí, cơng việc, nhiệm vụ nếu tr ng cử. Thực tế cho thấy, hầu như NKT
ở Việt Nam đều khơng nhận thức được mình có quyền ứng cử vào vị trí đại
biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân, đa số những NKT không quan
tâm và không biết về lĩnh vực này khi được hỏi. Đồng thời với một số lượng
rất ít NKT khi biết mình có quyền ứng cử thì vẫn cịn dè dặt và lo ngại về tiêu
chuẩn sức khoẻ, về tiếp x c cử tri hay được hỗ trợ trong việc đi lại. Kết quả
phỏng vấn những NKT tại Hà Nội và Bắc Giang cho thấy, tỉ lệ NKT từng có ý
định ứng cử vào đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân các cấp khoảng
4%. Bên cạnh đó, một số NKT cho rằng họ chưa đủ năng lực và trình độ để
trở thành ứng cử viên hoặc họ được người khác nhận định cử tri sẽ không bầu
cho ứng cử viên là NKT.
Về bầu cử, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
năm 2015 có quy định cơng dân nước CHXHCN Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên
có quyền bầu cử. NKT khơng thể tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ

15


phiếu vào hịm phiếu hoặc khơng thể đến phịng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử
mang hịm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu

bầu và thực hiện việc bầu cử. Thực tế cho thấy, NKT khi thực hiện quyền bầu
cử vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế như địa điểm tổ chức bầu cử
khơng có đường cho xe lăn lên xuống, bàn đặt hịm phiếu q cao, chưa có
phiếu bầu sử dụng chữ nổi Braille. Theo một khảo sát về bầu cử năm 2013 của
Hội NKT tại Hà Nội, Cần Thơ, Huế, Thái Bình cho thấy 97% NKT tham gia
bầu cử nhưng chỉ có khoảng 31% NKT thực hiện quyền của mình, những
NKT cịn lại có tham gia bầu cử thì cũng khơng biết nhiều về việc này. Kết
quả phỏng vấn những NKT tại Hà Nội và Bắc Giang năm 2020 đưa ra tỉ lệ
NKT trong độ tuổi bầu cử nhưng chưa từng đi bầu chiếm tới 50% trong số
NKT trả lời phỏng vấn, thấp hơn rất nhiều so với kết quả thống kê của Hội
đồng Bầu cử quốc gia năm 2016 với tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu tại Hà Nội và Bắc
Giang là trên 98%.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng NKT khơng biết hoặc khơng tham gia bầu
cử có thể kể đến như: cơng tác tun truyền bầu cử đến NKT chưa được toàn
diện; nhận thức về quyền bầu cử, ứng cử của chính NKT vẫn chưa được đầy
đủ; NKT hay gia đình của họ xem nhẹ hoạt động bầu cử và coi đó như là một
hoạt động chỉ mang tính hình thức. Ý kiến của đa số những NKT khi được
phỏng vấn về quyền bầu cử và ứng cử đều cho thấy, họ không biết hoặc khơng
quan tâm đến quyền này. Bởi lẽ đó, mặc dù quyền bầu cử hay ứng cử được
quy định trong luật nhưng thực tế để bảo đảm quyền này cho NKT vẫn là cả
một vấn đề lớn cần phải quan tâm, giải quyết. Những hạn chế tồn tại khi thực
hiện quyền này xuất phát từ nhiều yếu tố như: nhận thức của chính NKT và xã
hội chưa được đầy đủ; tuyên truyền phổ biến về bầu cử, tiêu chuẩn ứng cử, các
hoạt động tiếp x c cử tri… vẫn còn chưa được toàn diện; điều kiện về cơ hội
cho NKT ứng cử còn hạn chế; điều kiện về tiếp cận và hội nhập cũng rất ít.
3.2.5. Quyền về tiếp cận cơng trình cơng cộng, phương tiện giao thơng
Để hỗ trợ NKT tiếp cận với giao thông và cơ sở hạ tầng giao thông xã hội,
trong các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều khẳng định NKT là
cơng dân, thành viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân,
được Nhà nước và xã hội gi p đỡ khi gặp khó khăn. Thời gian qua, Bộ Giao

thông vận tải chỉ đạo các Tổng cục, Cục quản lý chuyên ngành rà soát các văn
bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý để tiếp tục bổ sung, sửa đổi,
hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho NKT khi tham gia giao

16


thông công cộng. Bộ cũng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các Sở
Giao thông vận tải triển khai thực hiện Luật NKT 2010 và Nghị định số
28/2012/NĐ-CP trong lĩnh vực giao thông vận tải. Trong công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Giao thơng vận tải đã tham mưu cho Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định về cơ chế, chính sách khuyến khích
phát triển hệ thống vận tải hành khách cơng cộng bằng xe buýt trong đó có nội
dung nâng cao khả năng tiếp cận của NKT tại khu vực các điểm dừng, nhà
chờ, điểm trung chuyển, điểm đầu cuối xe buýt thơng qua hệ thống giao thơng
ưu tiên như đèn tín hiệu ưu tiên, biển báo… đảm bảo tỉ lệ phương tiện hỗ trợ
NKT. Bộ cũng ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật có quy định
miễn, giảm giá vé dịch vụ vận tải hành khách công cộng cho NKT, quy chuẩn
kỹ thuật về phương tiện để NKT tiếp cận sử dụng. Ngồi việc thực hiện chính
sách miễn, giảm giá vé thì phương tiện giao thơng tiếp cận cũng ngày một
tăng cao.
Thực trạng hỗ trợ NKT tham gia giao thông ở các địa phương đã và đang
triển khai thực hiện chưa đồng bộ và đầy đủ. Tính đến thời điểm này, mới chỉ
có vài tỉnh, thành phố triển khai thực hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ NKT tham
gia giao thông và Hà Nội là thành phố đi đầu trong việc miễn phí xe buýt cho
NKT. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ rất quan trọng là đầu tư xây dựng hoặc cải
tạo kết cấu hạ tầng giao thông và phương tiện để NKT dễ dàng tiếp cận được
thì lại chưa tốt và chưa đáng kể. Các bến xe, điểm đầu, điểm cuối, điểm trung
chuyển, điểm dừng, nhà chờ xe buýt, vỉa hè... chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật
bảo đảm cho NKT sử dụng. Đội ngũ nhân viên bến xe và phục vụ trên xe buýt

chưa được hướng dẫn các quy định, phương pháp hỗ trợ NKT. Một số khu vực
có lát gạch dẫn đường cho người khiếm thị nhưng chưa đạt tiêu chuẩn như:
gạch bị lát sai rãnh dẫn đến dẫn hướng sai; có đoạn chắp nối cẩu thả với miệng
cống, gốc cây; sử dụng loại gạch dẫn đường chưa đ ng vị trí (như gạch rãnh là
dẫn đi thẳng, gạch chấm bi báo hiệu các góc cua, điểm giao cắt); gạch không
bảo đảm chất lượng chống trơn trượt, nhanh mịn. Nhiều tuyến đường khơng
có vỉa hè đã đành, nhưng ngay cả những tuyến phố có vỉa hè thì người đi xe
lăn vẫn khó tham gia giao thơng khi mà độ chênh lệch giữa hè và nền đường
quá cao, vỉa hè bị hàng quán chiếm dụng. Đối với các xe buýt (trừ xe buýt
nhanh BRT có cửa xe cao ngang bằng cửa nhà chờ), thời gian dừng xe ngắn,
cửa xe hẹp và bậc cửa cao là nguyên nhân làm cho người đi xe lăn không thể

17


sử dụng phương tiện này. Lối sang đường khơng có bảng báo hiệu bằng chữ
nổi hay tín hiệu âm thanh để bảo đảm an toàn cho người khiếm thị…
Những năm gần đây, hệ thống giao thơng vận tải nói chung, trong đó có
phát triển giao thơng tiếp cận cho NKT đã được cải thiện đáng kể. Từ thay đổi
về nhận thức, các cơ quan, đơn vị đã quán triệt sang hành động một cách
nghiêm túc nhằm giúp NKT thực hiện quyền của mình và hịa nhập với cộng
đồng. Song, trên thực tế, việc thiết kế các cơng trình xây dựng để NKT có thể
tiếp cận, sử dụng chưa thực sự được quan tâm đ ng mức. NKT vẫn gặp nhiều
khó khăn trong việc đi lại, đến trường, đến các công sở để giao dịch hoặc tới
những nơi vui chơi giải trí… bởi thiết kế của các cơng trình xây dựng hầu như
chưa có đường tiếp cận hoặc có nhưng chưa đảm bảo yêu cầu. Bên cạnh đó,
có rất nhiều lý do khiến cơng trình chưa có đường xe lăn cho NKT như: không
thấy cấp trên nhắc nhở; đơn vị, cơ quan khơng có người đi xe lăn; khơng có
người đi xe lăn đến giao dịch; trong thiết kế khơng có đường dốc cho xe lăn;
thiết kế có nhưng khơng làm vì tăng kinh phí… Với hành lang pháp lý khá đầy

đủ về quyền tham gia giao thông của NKT, thực tiễn thực hiện những quy
định này đã đạt được một số kết quả khơng nhỏ, góp phần tạo ra mơi trường
thuận lợi để NKT tham gia giao thơng, hịa nhập cuộc sống. Tuy nhiên, cũng
không thể phủ nhận rằng bảo đảm thực hiện quyền này cho NKT hiện nay vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế.
3.3. Đánh giá chung và những yêu cầu đặt ra với việc bảo đảm quyền
của ngƣời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Đánh giá chung về việc bảo đảm quyền của người khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay
Các quyền của NKT ở Việt Nam trong những năm qua đã được bảo đảm và
đạt được những chuyển biến tích cực. Bản thân NKT đã có những thay đổi
trong nhận thức xã hội về khuyết tật và NKT, chính điều này gi p cho NKT tự
tin hồ nhập vào cộng đồng một cách thuận lợi, tạo nên một xã hội bình đẳng,
văn minh. Cùng với sự quan tâm của Nhà nước, nhiều chính sách, chương
trình, đề án trợ gi p NKT được thực hiện theo hướng phù hợp với tinh thần
của luật nhân quyền quốc tế, các hoạt động nhằm bảo đảm thực thi quyền của
NKT cũng thu h t sự quan tâm của các cấp, các ngành, cá nhân, tổ chức, cộng
đồng xã hội. Những rào cản xã hội, rào cản cơng trình xây dựng, giao thông,
đi lại, thông tin đã từng bước được cải thiện, NKT cùng với quyền của họ
ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Cơng tác giao thơng tiếp cận đã có sự thay

18


đổi r nét: Tại các bến xe có cửa bán vé ưu tiên cho NKT, bố trí chỗ ngồi
thuận tiện cho họ, các Sở Giao thông vận tải tại một số địa phương đang tiếp
tục kêu gọi xã hội hoá đầu tư các nhà chờ xe buýt và cải tạo nhà chờ xe bt,
đã có 13/22 sân bay trên tồn quốc đã có trang bị phương tiện, trang thiết bị
cho hành khách cần sự trợ gi p đặc biệt. Các hãng hàng không Việt Nam đã
ban hành và thực hiện quy trình phục vụ hành khách là NKT. Cơng tác truyền

thơng đã triển khai nhiều chương trình truyền thơng trong đó có truyền thơng,
nâng cao nhận thức xã hội về NKT có nhiều đổi mới r rệt. Đặc biệt có
chương trình “Việt Nam hơm nay” trên kênh VTV1 đã có phiên dịch ngôn
ngữ ký hiệu.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực thi quyền của NKT vẫn
còn những hạn chế nhất định: Tiến độ xây dựng, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, khắc phục một số vướng mắc, bất cập vẫn
còn chậm trễ; Còn một số Bộ, ngành, địa phương thiếu quan tâm, coi công tác
NKT là trách nhiệm của riêng ngành Lao động Thương binh & Xã hội nên
chưa xây dựng kế hoạch thực hiện các chính sách hỗ trợ NKT hàng năm; Đời
sống của một bộ phận không nhỏ NKT cịn khó khăn, thu nhập của NKT nhận
được thấp hơn nhiều so với người không khuyết tật, khoảng một nửa số NKT
có mức lương tháng trung bình từ 1,25 triệu đồng trở xuống trong khi người
không khuyết tật là 2 triệu đồng trở lên, khoảng 15% NKT thuộc hộ nghèo;
Vấn đề về tiếp cận giao thông, đi lại vẫn là một trong những vấn đề khó khắc
phục nhất đặc biệt là khu vực nơng thơn, khó bảo đảm lộ trình tiếp cận giao
thơng và cơng trình cơng cộng theo quy định của Luật NKT. Các cơng trình
xây dựng từ trước thời điểm Luật NKT ban hành vẫn còn chưa được cải tạo
đồng bộ, toàn diện để bảo đảm quyền tiếp cận của NKT; Việc tuân thủ các
quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng chưa được triệt để, còn nhiều điểm chưa phù
hợp quy chuẩn như vị trí và hình thức cầu thang bộ thốt nạn, hình thức và
chiều cao lan can an toàn, độ dốc đường dốc đảm bảo tiếp cận cho NKT, khu
vệ sinh chung, bố trí chỗ ngồi cho NKT… Việc thành lập tổ chức của NKT ở
một số địa phương cịn khó khăn, khơng có sự tham gia của đại diện tổ chức
Hội của NKT tại cấp xã, phường nên ảnh hưởng đến hoạt động cấp giấy xác
nhận khuyết tật ở cấp xã, phường; Vẫn còn NKT chưa được tiếp cận đầy đủ
hoặc thậm chí chưa được tiếp cận với các quyền y tế, giáo dục, dạy nghề, việc
làm, an sinh xã hội một cách hiệu quả, vẫn còn nhiều NKT chưa được học
nghề và vay vốn để phát triển sản xuất; Tỷ lệ NKT tiếp cận với công nghệ


19


thơng tin, sử dụng internet vẫn cịn thấp, đặc biệt là ở các vùng miền n i, nông
thôn hoặc với những NKT nghèo. Trang thiết bị y tế, phục hồi chức năng, các
dịch vụ trị liệu tâm lý cho NKT cịn thiếu thốn. Cơng tác giám sát, đánh giá và
tổng hợp số liệu NKT vẫn còn nhiều bất cập, chưa phản ánh, cập nhật đầy đủ,
chính xác quy mơ và thực trạng NKT của cả nước và từng địa phương.
3.3.2. Những yêu cầu đặt ra với việc bảo đảm quyền của người khuyết tật
ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục tổ chức quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện
chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác NKT nhằm tạo chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm
trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tầng lớp nhân dân về công
tác NKT.
Thứ hai, tiếp tục rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến NKT để kịp thời sửa đổi, bổ sung, khắc phục những vướng mắc, bất cập
phù hợp với thực tế của đất nước và CRPD; Nghiên cứu thành lập cơ quan
nhân quyền quốc gia có chức năng bảo vệ và thực thi quyền của NKT.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác truyền thông và tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến CRPD, chính sách, pháp luật về NKT bằng các hình
thức đa dạng, phù hợp với những đối tượng khác nhau.
Thứ tư, tổ chức đánh giá tổng kết 10 năm thực hiện Luật NKT trên cơ sở
đó nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật NKT. Tiếp tục xây dựng và triển khai mơ
hình sinh kế cho NKT; mơ hình khởi nghiệp; mơ hình đào tạo nghề gắn với
việc làm tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; mô hình đào tạo nghề gắn với sinh
kế cho NKT; mơ hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Thứ năm, tổ chức các giải thi đấu thể thao, liên hoan văn nghệ NKT toàn
quốc, tham gia các giải thể thao quốc tế dành cho NKT; kiểm tra hoạt động trợ
giúp NKT tại một số địa phương; tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng cơng trình đảm bảo tiếp cận sử dụng
của NKT.
Thứ sáu, tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác về NKT với các đối tác song
phương, đa phương trong khu vực và trên thế giới; tăng cường các hoạt động
điều phối, chia sẻ thông tin với các đối tác phát triển trong lĩnh vực khuyết tật.

20


CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật phải phù hợp với
tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc về quyền của ngƣời khuyết tật
Quan điểm bảo đảm quyền của NKT phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
về quyền của NKT. Việt Nam hiện nay là thành viên của CRPD do vậy địi
hỏi nhà nước ta phải có nghĩa vụ thực thi Công ước. Về cơ bản, những ghi
nhận và bảo đảm về quyền của NKT của Việt Nam đã tương thích với các
chuẩn mực nhân quyền quốc tế nói chung, phù hợp với Bảng phân loại quốc tế
vê chức năng, khuyết tật và sức khoẻ của Tổ chức y tế thế giới (WHO). NKT
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ưu tiên. Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ
r : “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhà nước... có chính sách trợ gi p người cao tuổi, NKT, người nghèo,
người có hồn cảnh khó khăn khác” và “tạo điều kiện để NKT và người nghèo
được học văn hóa và học nghề”.
4.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật ở Việt Nam
trong thời gian tới
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về quyền và bảo đảm quyền của NKT cho
các chủ thể liên quan: cán bộ nhà nước, các tổ chức xã hội, gia đình, nhà

trường và bản thân NKT, điều này gi p loại bỏ mọi định kiến thiên lệch về
NKT nhằm gi p họ xố đi những mặc cảm tự ti vì lý do khuyết tật.
Thứ hai, hồn thiện chính sách, pháp luật ở một số lĩnh vực: (1) Giáo dục:
Các quy định liên quan đến giáo dục đối với NKT cần phải được quy định tại
luật chuyên ngành, đó là Luật Giáo dục. Chương về giáo dục đối với NKT
trong Luật NKT nên được chuyển sang Luật Giáo dục, điều này gi p khẳng
định và nhấn mạnh tới sự thay đổi về nhận thức của xã hội đối với NKT, coi
họ là bộ phận của nhân loại có tính đa dạng; Cần phải nghiên cứu, bổ sung các
quy định về việc giáo dục tiền hoà nhập, gi p cho NKT dễ dàng thích nghi và
học hồ nhập sau này; Nên có bộ tiêu chí làm căn cứ để quyết định ai có thể
học hồ nhập, ai khơng đủ điều kiện học hoà nhập, kèm theo những quy định
về chế tài xử lý các trường hợp từ chối NKT đủ điều kiện học hồ nhập. (2) Y
tế: Chia sẻ thơng tin, giáo dục cộng đồng về sức khoẻ, các chính sách về y tế,
các quyền mà họ được thụ hưởng; Củng cố hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ,

21


xây dựng thêm các cơ sở y tế nhằm đáp ứng nhu cầu tồn diện của NKT về
chăm sóc sức khoẻ; Triển khai chương trình phục hồi chức năng cho NKT ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố; Khuyến khích các cơ sở y tế tư nhân và bán công
miễn hoặc giảm chi phí khám, chữa bệnh cho NKT; Đẩy mạnh cơng tác phịng
ngừa và phát hiện sớm khuyết tật, xác định khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ sơ
sinh để kịp thời có các biện pháp điều trị, chỉnh hình và phục hồi chức năng
phù hợp; Nâng cao chất lượng mạng lưới y tế tuyến cơ sở, đầu tư trang thiết bị
cho các trạm y tế xã; Có chính sách ưu đãi cho cán bộ y tế làm công tác chăm
sóc sức khoẻ cho NKT; Khuyến khích, huy động các hội nhóm, tổ chức xã
hội, tổ chức tơn giáo, quan tâm đến đời sống tinh thần, sức khoẻ đối với NKT.
(3) Việc làm: Bổ sung những điều khoản cưỡng chế thi hành và xử lý vi phạm
pháp luật về quyền lao động và việc làm của NKT, cũng có thể quy định thêm

về tỷ lệ NKT mà các doanh nghiệp cần phải tiếp nhận tùy vào ngành, nhóm
ngành cụ thể; Hoàn thiện hệ thống các cơ chế giám sát việc thực thi pháp luật
về bảo đảm việc làm cho người lao động khuyết tật. Qua đó, cần có những quy định
r ràng và xác định chính xác các hành vi phân biệt đối xử mà NKT phải gánh chịu
trong lao động; Cần quy định chế tài nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp
không tiếp nhận, sử dụng người lao động là NKT vào làm việc. (4) Tiếp cận cơng
trình cơng cộng, phương tiện giao thông: Nghiên cứu và sửa đổi bổ sung kịp thời
một số đạo luật cho phù hợp như: Luật Giao thông đường bộ, Luật Xây dựng…
nhằm tạo những điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền được hỗ trợ trong việc di
chuyển, tiếp cận thông tin, truyền thông của NKT; Bổ sung chế tài thực thi pháp
luật hiện hành, tránh tình trạng chính sách của Nhà nước đã ban hành hay các văn
bản đã có hiệu lực nhưng không đi vào cuộc sống.
Thứ ba, đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật về quyền của NKT và tăng
cường hiệu quả hoạt động thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của NKT.
Thứ tư, tăng cường nguồn lực cho việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ và hỗ
trợ NKT.
Thứ năm, nghiên cứu xây dựng Cơ quan nhân quyền quốc gia hoặc cơ quan
chuyên trách theo d i việc thực hiện quyền của NKT.
KẾT LUẬN
Bảo đảm quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay là chủ đề nghiên
cứu có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, bởi lẽ xuất phát
từ giá trị quyền con người và phát huy giá trị quyền con người của người
khuyết tật, từ sự cần thiết phải tăng cường hiện thực hoá các quyền con người

22


×