Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Sự chuyển dịch theo xu hướng phân quyền trong quản trị đại học và thực trạng tự chủ của các cơ sở GDĐH Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.87 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

trong QuẢn trỊ đẠi họC và thỰC trẠng tỰ ChỦ


CỦa CáC CƠ SỞ gdđh viỆt nam hiỆn nay



GS.TS. Nguyễn Quý Thanh
ThS-NCS. Vũ Thị Mai Anh1


<b>Tóm tắt: Báo cáo này mơ tả tóm tắt sự chuyển đổi trong quản trị nhà nước ảnh </b>


hưởng tới sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở Việt Nam thể hiện ở phân quyền
từ quản trị tập trung sang giao quyền tự chủ cho các trường đại học và thực trạng
quyền tự chủ của năm nhóm trường đại học hiện nay. Dựa trên dữ liệu được thu
thập thông qua phỏng vấn tại các trường đại học được lựa chọn thuộc năm nhóm
trường và các phân tích khung pháp lý, chính sách về quản trị đại học, sự phân
quyền cho các trường đại học thể hiện ở quyền tự chủ của các trường đại học
trong các lĩnh vực quản trị, tổ chức, nhân sự, học thuật (tập trung vào đào tạo)
và tài chính của 5 nhóm cơ sở giáo dục đại học tiêu biểu được mơ hình hóa và
trình bày trong Báo cáo. Những phát hiện của nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở Việt Nam, từ tập trung hóa trong giai đoạn
trước, tới sự phân quyền cho các trường đại học được thực hiện từng bước trong
hai thập kỷ qua.


<i><b>Từ khóa: Quản trị đại học, Phân quyền, Tự chủ đại học.</b></i>


<b>1. Đặt vấn đề</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

151
nước, các cơ quan quản lý nhà nước giảm bớt quyền lực đối với các cơ sở GDĐH
nhưng tăng cường giám sát, quản lý, đồng thời tập trung vào việc hoạch định chính
sách, xây dựng các quy chuẩn. Các trường đại học được trao nhiều quyền tự chủ
trong các lĩnh vực hoạt động và thực hiện trách nhiệm giải trình và nghĩa vụ đối với
xã hội. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này không đồng đều trong các nhóm trường đại

học khác nhau.


Báo cáo này tóm tắt q trình cải cách quản trị đại học Việt Nam gắn với sự
chuyển đổi trong quyền lực của Nhà nước thông qua các cơ quan quản lý Nhà nước
tới các cơ sở giáo dục đại học. Sự chuyển đổi được khảo sát dựa vào sự biểu hiện
trong mối quan hệ giữa cơ sở GDĐH với cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chủ
quản trong việc ra các quyết định của nhà trường, từ mức trường được toàn quyền
quyết định, trường phải báo cáo hoặc xin phép trước khi quyết định, trường quyết
định sau đó báo cáo, trường được quyết định nhưng phải tuân theo các khung pháp
lý của nhà nước và việc quyết định là do cơ quan quản lý nhà nước hoặc Nhà nước
quyết định. Kết quả của khảo sát được thể hiện trong các mô hình quản trị đại học ở
các lĩnh vực quản trị, tổ chức, nhân sự, học thuật (tập trung vào đào tạo) và tài chính
của 5 nhóm cơ sở giáo dục đại học tiêu biểu được mơ hình hóa qua khảo sát thực tế
được trình bày trong Báo cáo.


<b>2. Khái niệm về phân quyền </b>


Phân quyền hay phi tập trung hóa (decentralization) thường được sử dụng để
chỉ sự chuyển đổi quyền và trách nhiệm từ chính phủ xuống các cơ quan/tổ chức
cấp dưới. Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) phân quyền đề cập
đến tái cấu trúc hoặc tổ chức lại chính quyền để có hệ thống đồng trách nhiệm giữa
các tổ chức quản trị ở cấp trung ương, khu vực và địa phương theo nguyên tắc của
công ty con (UNDP 1999, p. 2).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tập trung hóa sang phân quyền hóa có nghĩa là các trường đại học được giảm bớt
những hạn chế trong việc đạt được sứ mệnh và mục tiêu (Lee&Gopinathan, 2004).


Như vậy, sự phân quyền trong các khái niệm trên đều có điểm thống nhất là
sự chuyển giao quyền lực, quyền quyết định và trách nhiệm trong mối quan hệ cấp
trên và cấp dưới. Khi nghiên cứu sự dịch chuyển trong quản trị GDĐH Việt Nam,


Báo cáo này vận dụng điểm chung trong các khái niệm này và tập trung vào sự dịch
chuyển trong quyền ra quyết định của các trường đại học trong các lĩnh vực quản trị
đại học bao gồm quản trị tổ chức, nhân sự, học thuật và tài chính.


<b>3. Sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở Việt Nam </b>


<i><b>a) Quản trị tập trung trước thời kỳ Đổi mới</b></i>


Trước Đổi mới và ngay cả trong những năm đầu của Đổi mới, nền kinh tế của
Việt Nam được quản trị theo cơ chế tập trung hành chính mệnh lệnh quan liêu bao
cấp. Nhiều tác giả đã mơ tả mơ hình quản trị kinh tế theo kiểu “nhà nước trị”, nhà
nước trực tiếp ra quyết định và điều hành tất cả các hành vi, hoạt động kinh tế của
tất cả các chủ thể kinh tế từ cá thể đến hộ gia đình, tổ hợp tác đến các tập thể lao
động như hợp tác xã, nhà máy xí nghiệp và các bộ ngành kinh tế của đất nước. Mô
hình quản trị kinh tế kiểu nhà nước này đã tỏ ra rất hiệu quả trong việc huy động
và tập trung các nguồn lực cần thiết để thực hiện những mục tiêu quốc gia cấp bách
trong thời kỳ chiến tranh nhưng lại tỏ ra lạc hậu trong thời kỳ hịa bình, xây dựng
đất nước. Trong bối cảnh đó, GDĐH cũng được quản trị theo mơ hình dựa vào nhà
nước một cách tuyệt đối, tập trung cao độ, từ trên xuống (top-down governance)
trong đó nhà nước đứng ở trên tầm cao chỉ huy xuống dưới thông qua vai trò của
các bộ (Lê Ngọc Hùng, 2019).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

153
đào tạo, nghiên cứu khoa học, quan hệ hợp tác, tốt nghiệp, cơ sở vật chất (Lê Ngọc
Hùng, 2019).


Như vậy, trước Đổi mới, trong thời kỳ quản lý toàn xã hội theo cơ chế tập trung
hành chính mệnh lệnh, quan liêu bao cấp trước năm 1986 và ngay cả những năm
đầu 1990, hầu như khơng có sự tham gia của thị trường và trở thành trục quản trị
từ trên xuống dưới và tạo thành mơ hình trường “đại học khổng lồ”. Trong mơ hình


quản trị đại học khổng lồ này, Bộ GD&ĐT lúc đó là Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp hoạt động như một bộ máy quản trị của một nhà trường trong đó các trường
đại học. Cơ quan Bộ trực tiếp xác định mục tiêu, lập kế hoạch, phân bổ và cấp phát
các nguồn lực gồm cả ngân sách và chỉ đạo, điều hành trực tiếp các hoạt động của
từng trường đại học.


<i><b>b) Sự chuyển đổi sau Đổi mới - xu hướng phân cấp, phân quyền và tản quyền</b></i>


Việt Nam chính thức đổi mới kinh tế - xã hội năm 1986 và cả nước bước vào
thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã
trải qua thời kỳ quá độ kép: vừa quá độ từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vừa quá độ
từ trình độ “chậm phát triển” sang “đang phát triển” với biểu hiện rõ nhất là q
độ để thốt trình trạng nghèo đói. Quyền lực quản lý nhà nước được phân công cho
các bộ ngành, các cơ quan chính quyền địa phương và các tổ chức chuyên môn thực
hiện và phối hợp tham gia thực hiện một cách đồng bộ.


Trong môi trường đổi mới, quá độ hệ thống GDĐH và quản trị đại học cũng
phải biến đổi theo để đáp ứng ba yêu cầu chức năng cấp thiết từ nhà nước và xã hội.
Lĩnh vực GDĐH Việt Nam cũng đã mở rộng nhanh chóng và nó đã chuyển từ tinh
hoa sang GDĐH đại chúng, điều này dẫn tới sự bùng nổ các trường đại học. Nếu
như năm 1987, chỉ có 101 trường cao đẳng và đại học trong cả nước, thì tới năm
2012, số trường đại học và cao đẳng lên tới 419 trường. Năm 2016, tổng số trường
đại học được thành lập hoặc cho phép thành lập đã vượt 10 trường(234/224), so với
quy hoạch 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ1<sub> (Bộ GD&ĐT, </sub>


2016). Sự phát triển về số lượng các trường đại học còn kéo theo sự phong phú,
đa dạng của các chiến lược, chính sách, mơ hình, cách thức quản trị đại học ở cấp
trường. Sự phát triển số lượng các trường luôn chứa đựng nguy cơ phân tán các
nguồn lực đầu tư, khó có thể tập trung được sức mạnh để thay đổi về chất trong


đào tạo và nghiên cứu khoa học, khó thốt khỏi “bẫy giáo dục trung bình” (Lê
Ngọc Hùng). Sự bùng nổ các trường đại học đã gây áp lực đáng kể tới ngân sách
của Chính phủ cho giáo dục đại học. Hàng năm kể từ sau Đổi mới, Chính phủ đã
1 Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 về việc Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tăng ngân sách cho GDĐH nhưng cũng vẫn không đáp ứng nhu cầu của sự bùng nổ
này. Việc quản lý hệ thống khổng lồ như vậy cũng là một gánh nặng, là nhiệm vụ
khó khả thi cho Bộ GD&ĐT đã có những biểu hiện về sự yếu kém trong việc quản
lý tồn bộ hệ thống. Chính phủ đã nhận thấy mơ hình quản trị tập trung khơng cịn
phù hợp và mong muốn phân cấp trách nhiệm giải quyết việc ra quyết định cho các
cơ sở GDĐH với mục đích đạt hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các nguồn lực
(Hayden và Lâm Quang Thiệp, 2007).


Việc thành lập hai ĐHQG (năm 1993) với mơ hình đặc biệt, theo cơ chế đặc biệt
với quyền tự chủ cao là biểu hiện đầu tiên của Chính phủ về việc phân quyền cho
cơ sở giáo dục đại học. Hơn một thập kỷ sau, sự phân cấp mới được thực hiện trong
tồn bộ hệ thống GDĐH thơng qua Luật Giáo dục năm 2005, trong đó nêu rõ Chính
phủ quyết định thực hiện phân cấp quản lý giáo dục; tăng cường quyền tự chủ và
trách nhiệm của các tổ chức giáo dục (Điều 14). Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày
02/11/2005 về đổi mới toàn diện và toàn diện GDĐH của Việt Nam trong giai đoạn
2006 – 2020, là nỗ lực thể hiện sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở cấp độ tổ chức,
nêu rõ về việc chuyển đổi cơ chế quản lý “Chuyển các cơ sở GDĐH công lập sang
hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền tự chủ và chịu trách
nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, nhân sự và tài chính” (HERA 2005).


Sự phân quyền cho các đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục được thể hiện trong
đổi mới về cơ chế tài chính, thể hiện bằng việc ban hành Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
cơng lập, trong đó có các cơ sở GDĐH cơng lập. Nghị định 16/2015/NĐ-CP (ngày


14/2/2015) ra đời thay thế Nghị định số 43, đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
nhân sự và tài chính. Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Chính phủ về đổi
mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, tiếp tục chỉ rõ “giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học”
và “tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở GDĐH”. Thực hiện chủ
trương tiếp tục đổi mới theo xu hướng phân quyền, ngày 24/10/2014, Chính phủ ban
hành Nghị quyết 77/NQ-CP (gọi tắt là Nghị quyết 77) thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014 – 2017, thực chất đây là chủ
trương thí điểm trao quyền tự chủ tồn diện cho các trường đại học công lập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

155
Loan Thùy, 2013), thì tới nay, có các trường đại học đã được trao nhiều quyền tự
chủ, ví dụ: tự chủ về tuyển sinh, tự chủ về nội dung dạy học - Bộ Giáo dục và Đào
tạo quản lý Khung chương trình, tự chủ mở ngành (đối với nhóm trường theo Nghị
quyết 77, hai ĐHQG). Kết quả của sự chuyển đổi, phân quyền trong quản trị đại học
ở Việt Nam thể hiện ở việc Bộ GD&ĐT đã khơng cịn nắm giữ và can thiệp trực tiếp
vào nhiều vấn đề của các trường đại học mà đã giao cho các trường tự quyết định
nhiều hơn trong khuôn khổ pháp lý, quy định, quy chuẩn.


<b>4. Tự chủ đại học ở các trường đại học hiện nay</b>


<i><b>a) Chọn mẫu khảo sát</b></i>


Nghiên cứu các mơ hình quản trị đại học ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã
thực hiện phỏng vấn tại 20 trường đại học thuộc năm nhóm cơ sở GDĐH chủ yếu
ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: (i) Đại học Quốc gia (ĐHQG); (ii) Đại học vùng; (iii)
Các trường đại học công lập khác; (iv) Trường đại học tự chủ theo Nghị quyết 77; (v)
Trường đại học ngồi cơng lập. Các trường đại học thuộc các nhóm này khác nhau


về loại hình trường, về cơ quan chủ quản, về chủ sở hữu, quy định về mức độ tự
chủ. Trong đó, ĐHQGvà đại học vùng là các đại học hai cấp; nhóm trường đại học
cơng lập gồm các trường đại học công lập thuộc Bộ GD&ĐT và các bộ/ngành khác;
trường đại học tự chủ theo NQ 77.


Các mơ hình quản trị của 5 nhóm trường tập trung vào mức độ các trường
được ra quyết định trong các lĩnh vực quản trị bao gồm tổ chức, nhân sự, học thuật
và tài chính. Đối với từng lĩnh vực quản trị, các tiêu chí được xác định lựa chọn để
có thể đánh giá mức độ được ra quyết định của nhà trường. Cụ thể:


<i>Về tổ chức, 7 tiêu chí được lựa chọn đưa vào khảo sát bao gồm: Thành lập Hội </i>


đồng đại học/trường; Thành lập Hội đồng Khoa học và Đào tạo; Thành lập đơn vị
trực thuộc trường (cấp 2) Khoa/Phòng/Trung tâm; Thành lập đơn vị pháp nhân trực
thuộc trường Trung tâm/Viện/Cơng ty (có con dấu, tài khoản riêng); Phê duyệt chiến
lược phát triển; Bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng trường; Ban hành Qui định về tổ chức
hoạt động.


<i>Về nhân sự, 8 tiêu chí được lựa chọn đưa vào khảo sát, bao gồm: Phê duyệt </i>


đề án vị trí việc làm; Xác định tiêu chuẩn giảng viên; Tuyển dụng giảng viên; Bổ
nhiệm/miễn nhiệm Hiệu trưởng; Bổ nhiệm các chức danh nghề nghiệp của giảng
viên (hạng); Bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư; Quyết định định mức công việc của
giảng viên; Quyết định định mức công việc cho chuyên viên.


<i>Về học thuật, 5 tiêu chí được lựa chọn đưa vào khảo sát, bao gồm: Mở ngành đào </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đào tạo Nhà nước; Điều chỉnh chương trình đạo tạo (> 20%); Tiêu chí tuyển sinh (bao
gồm cả điểm sàn); Chỉ tiêu tuyển sinh của đơn vị.



<i>Về tài chính, 7 tiêu chí được lựa chọn đưa vào khảo sát, bao gồm: Mức thu học </i>


phí bậc đại học; Mức lương (theo ngạch, bậc); Mức thưởng; Thu nhập tăng thêm;
Chi tiêu dưới 100 triệu; Chi tiêu trên 100 triệu; Trích lập các Quỹ (Quỹ phát triển sự
nghiệp, Quỹ học bổng, Quỹ khen thưởng; Quỹ phúc lợi; Quỹ dự phịng,…) từ kết
quả hoạt động tài chính của Trường (mức trích quỹ, tỉ lệ các quỹ).


<i><b>b) Trục của các mức độ tự chủ</b></i>


Mức độ tự chủ của các nhóm trường đại học được được thể hiện bằng một trục
với hai chiều, trường không được quyết định - do bên ngoài (Nhà nước, cơ quan
quản lý) quyết định cao nhất là mức 1; và trường được hoàn toàn quyết định, cao
nhất là mức 6.


Nhà nước/cơ
quan quản lý


quyết định


Trường quyết
định theo
khung pháp lý


Trường
xin phép –
Quyết định


Trường
quyết định -



Báo cáo


Trường báo
cáo - Quyết


định


Trường
quyết định


1 2 3 4 5 6


Trường hồn
tồn khơng


quyết định


Trường hồn tồn quyết
định


<i><b>c) Các mơ hình quản trị đại học trong lĩnh vực tổ chức</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

157
“Thành lập Hội đồng Khoa học và Đào tạo” phải tuân theo các quy định trong Điều
lệ trường đại học về số lượng, thành phần của hội đồng. “Thành lập các đơn vị cấp
2…”. “Thành lập các đơn vị cấp 2…”, “Thành lập các đơn vị pháp nhân trực thuộc”,
ĐHQG được chủ động nhưng tuân theo cơ cấu quy định tại Luật Giáo dục đại học.
ĐHQG chủ động xây dựng “Chiến lược phát triển”. Tuy nhiên, sau khi ban hành
ĐHQG phải báo cáo Thủ tướng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

pháp nhân trực thuộc”, tuân theo cơ cấu quy định tại Luật Giáo dục đại học, đồng
thời xin phép Bộ GD&ĐT trước khi quyết định. Đại học vùng chủ động xây dựng
“Chiến lược phát triển” và báo cáo Bộ GD&ĐT.


Về bổ nhiệm “Chủ tịch Hội đồng trường/quản trị” và “Ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động” ở tất cả các nhóm cơ sở GDĐH đều do Nhà nước hoặc cơ quan
quản lý quyết định, trừ trường hợp trường đại học ngoài công lập được bổ nhiệm
Chủ tịch hội đồng quản trị nhưng phải được UBND tỉnh/TP ra quyết định công
nhận. Các quy chế tổ chức và hoạt động của các nhóm cơ sở GDĐH đều Thủ tướng
hoặc Bộ GD&ĐT ra quyết định ban hành1<sub>. </sub>


Về “Thành lập Hội đồng đại học/trường”, “Thành lập Hội đồng Khoa học và
Đào tạo” các nhóm trường đều phải tuân theo các quy định trong Điều lệ trường đại
học về số lượng, thành phần của hội đồng. Về “Thành lập các đơn vị cấp 2…”, các
nhóm trường đều được tự quyết định thành lập, nhưng sau đó phải báo cáo cơ quan
quản lý/chủ quản, trừ nhóm trường ngồi cơng lập được tự quyết định hoàn toàn.
Về “Thành lập các đơn vị pháp nhân trực thuộc”, nhóm ĐHQG, Đại học Vùng và
các trường đại học công lập phải xin phép trước khi ra quyết định, trừ nhóm trường
ngồi cơng lập được tự chủ hồn tồn. Về “Chiến lược phát triển”, trừ nhóm trường
ngồi cơng lập được tự chủ, các nhóm trường cịn lại phải báo cáo cơ quan quản lý
Nhà nước hoặc cơ quan chủ quản.


Nhóm trường đại học tự chủ theo Nghị quyết 77 được quyền quyết định về
tổ chức và nhân sự, lựa chọn trong nghiên cứu này, tương đương với ĐHQG, song
vẫn phải theo khung pháp lý, hoặc xin phép hoặc báo cáo cơ quan chủ quản. Nhóm
trường đại học ngồi cơng lập được tự chủ cao nhất về tổ chức, nhân sự, trừ việc
Thành lập hội đồng quản trị phải theo khung pháp lý và Bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng
quản trị do UBND tỉnh/thành phố ra quyết định cơng nhận.


<i><b>d) Các mơ hình quản trị đại học trong lĩnh vực nhân sự</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

159
kiểm soát trong lĩnh vực này thông qua các tiêu chuẩn nhân sự do Bộ Nội vụ và Bộ
GD&ĐT tạo để làm đề án gửi bộ chủ quản phê duyệt đề án và sau đó trường thực
hiện đề án tuyển dụng nhân sự. Tùy thuộc vào cơ quan chủ quản, hình thức sở hữu
mà mức độ tự quyết định của các trường đại học về nhân sự của mình có sự khác
nhau. Trong biểu đồ, đường biểu diễn mức độ tự chủ của trường đại học ngồi cơng
lập nằm chủ yếu ở mức 6, phía bên tay phải của Biểu đồ, trong khi các nhóm cơ sở
GDĐH khác nghiêng về phía trái của Biểu đồ nhiều hơn, tức là việc ra các quyết
định bị ràng buộc hoặc hạn chế bởi Khung pháp lý hoặc các quy định của cơ quan
quản lý, cơ quan chủ quản.


Về Phê duyệt đề án vị trí việc làm, Xác định tiêu chuẩn giảng viên, Tuyển dụng
giảng viên, Quyết định định mức công việc của giảng viên, Quyết định định mức
công việc, các cơ sở GDĐH công lập phải tuân theo các luật có liên quan hoặc của
Bộ Nội vụ đối với cơng chức viên chức, thì trường đại học ngồi cơng lập được hồn
tồn tự quyết định đối với đội ngũ nhân sự của mình. Các trường đại học công lập
chưa được tự chủ trong bổ nhiệm lãnh đạo cao nhất, thì trường đại học ngồi cơng
lập được tự quyết định Hiệu trưởng của mình, tuy nhiên, tiêu chuẩn Hiệu trưởng
của một trường đại học vẫn phải tuân theo quy định của Nhà nước (Điều lệ trường
đại học và Luật Giáo dục đại học).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Biểu đồ 2. Mức tự chủ trong lĩnh vực nhân sự của một số nhóm trường đại học</i>


<i><b>e) Các mơ hình quản trị đại học trong lĩnh vực học thuật</b></i>


Về học thuật, những vấn đề quan trọng của đào tạo như mở ngành đào tạo và
tuyển sinh, cho tới thời điểm hiện tại, các cơ sở GDĐH được trao nhiều quyền quyết
định hơn rất nhiều so với giai đoạn trước, khi mọi việc đều do Bộ GD&ĐT quyết
định. Cụ thể, trên Biểu đồ 3, đường biểu diễn mức độ tự chủ của các nhóm cơ sở


GDĐH nằm chủ yếu bên phía tay phải của Biểu đồ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

161
khác và trường ngồi cơng lập, được tự chủ hơn trong quá trình xây dựng ngành
đào tạo mới trong Danh mục đào tạo của Nhà nước, nhưng vẫn do Bộ GD&ĐT ra
quyết định cho phép.


<i>Biểu đồ 3. Mức tự chủ trong lĩnh vực đào tọa của một số nhóm trường đại học</i>
Về tiêu chí tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh, nếu như trước đây, Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định các tiêu chí tuyển sinh, phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho từng
trường thì trong những năm gần đây, các các cơ sở GDĐH được tự quyết định tiêu
chí tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp với năng lực của mình đồng thời tuân
theo quy định về cách xác định chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ GD&ĐT1<sub>. </sub>


<i><b>f) Các mơ hình quản trị đại học trong lĩnh vực tài chính</b></i>


Tự chủ về tài chính là cơ sở quan trọng để cơ sở GDĐH thực hiện các nội
dung tự chủ khác. Tự chủ về tài chính cho phép các trường đại học chủ động trong
việc huy động nguồn lực tài chính và duy trì nguồn lực tài chính, từ đó chủ động
trong việc lựa chọn đội ngũ giảng viên, nhà khoa học cũng như các chính sách đãi
ngộ, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư và các điều kiện đảm bảo chất lượng cho phát
1 (Thông tư 06/2018/TT-BGDĐT ngày 28/02/2018; trước đó là Thơng tư 32/2015/TT-BGDĐT, ngày


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

triển và nâng cao chất lượng. Sự chuyển dịch trong quản lý tài chính thể hiện rõ
thơng qua sự thay đổi cơ chế tài chính của Chính phủ đối với các đơn vị sự nghiệp
cơng lập, thơng qua việc Chính phủ ban hành các chính sách về giao và đẩy mạnh
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính1<sub>.</sub>


<i>Biểu đồ 4. Mức tự chủ trong lĩnh vực tài chính của một số nhóm trường đại học</i>


Trong lĩnh vực tài chính, các cơ sở GDĐH thuộc hai nhóm, nhóm sử dụng ngân
sách Nhà nước sẽ phải thu – chi tn theo khung pháp lý và nhóm khơng sử dụng
ngân sách Nhà nước được chủ động nhiều hơn trong việc chi tiêu. Trên Biểu đồ 4
cho thấy, các trường được quyết định mức thu học phí, mức lương, thưởng, thu
nhập tăng thêm… của người lao động trong khuôn khổ khung pháp lý và các quy
định. Trừ nhóm trường ngồi cơng lập được hồn tồn tự quyết định các vấn đề này.
Trong số các hoạt động thuộc lĩnh vực tài chính, các trường đại học rất quan tâm đến
1 Các nghị định: Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định 16/2015/NĐ-CP được Chính


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

163
mức học phí, đặc biệt là các trường đại học công. Thực tế, các trường đại học đã được
tự chủ ở một khoảng tương đối rộng trong xác định mức học phí, nhưng vẫn phải
tuân theo quy định của Nhà nước về mức trần học phí. Cũng từ thực tế, nguồn thu
của các trường đại học hiện nay chủ yếu vẫn từ học phí, dựa vào tăng quy mơ đào
tạo, việc huy động được các nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa
học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và
cá nhân trong nước cịn rất hạn chế… Do đó, đây là điểm các trường đại học thấy
cần được Nhà nước trao quyền tự chủ tài chính cho các trường trong xác định mức
học phí, để bù đắp chi phí đầu tư còn thấp. Trong giai đoạn hiện nay, nguồn thu từ
học phí được xem như một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục của các
trường đại học Việt Nam.


<b>3. Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>LỜI CẢM ƠN</b>


Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
QG.18.27.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



<i>1. Bộ GD&ĐT, Báo cáo về việc rà soát quy hoạch mạng lưới và thành lập trường đại học </i>


<i>mới giai đoạn 2016 – 2020, văn bản số 54 /BC-BGDĐT ngày 04/02/2016. </i>


2. Chương trình cải cách GDĐH (viết tắt là HERA), ban hành tại Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt
Nam giai đoạn 2006-2020”.


3. Lê Ngọc Hùng. “Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: Lý thuyết hệ thống và
<i>kiến tạo mơ hình hiện đại, chun nghiệp”. Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2019.</i>
4. Phong, N. Đ., & Huy Nhựt, N. H. “Quản trị đại học và mơ hình cho trường


<i>đại học khối kinh tế ở Việt Nam”. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (8 (18)), 63-68.</i>
5. Tran, T. T. (2014). “Governance in higher education in Vietnam–a move towards


<i>decentralization and its practical problems”. Journal of Asian Public Policy, 7(1), </i>
71-82.


<i>6. Thùy, B. L. “Phác thảo bức tranh tự chủ đại học hiện nay”. Tạp chí Phát triển và </i>


<i>Hội nhập, (3 (13)), 71-75.</i>


7. Hayden, M., & Thiep, L. Q. (2007). Institutional autonomy for higher education
in Vietnam. Higher Education Research & Development, 26(1), 73-85.


8. Marginson, S. (2010), Higher education in East Asia and Singapore: Rise of the
<i>Confucian Model, Higher Education, 61(5), 587-61A1.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

165

<b>THE TRANSITION TOWARD DECENTRALIZATION IN UNIVERSITY </b>


<b>GOVERNANCE AND CURRENT AUTONOMY OF HIGHER EDUCATION </b>
<b>INSTITUTIONS IN VIETNAM</b>


<b>Abstract: This report summarizes briefly the transition in state governance to the </b>


transformation of university governance in Vietnam, reflected in the decentralization
from centralized governance to power sharing to universities and the current
autonomy of the five university groups. Based on the data collected through
interviews at selected universities in five groups and the analisis the legal and policy
frameworks for university governance, the decentralization shown in autonomy
of universities in the areas of organization, personnel, academia (focused on
training) and finance of five groups of typical higher education institutions modeled
and spresented in the Report. The findings of the study contribute to shedding light
on the transformation of university governance in Vietnam, from centralization in
the previous period, to the decentralization of universities to be done step by step
in two decades.


</div>

<!--links-->

×