Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thi hành các quy định về Thủ tướng Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013 – Một số vấn đề pháp lý cần hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.85 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ </b>


<b>TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ </b>



<b>CẦN HOÀN THIỆN </b>



<i><b> ThS. Nguyễn Nhật Khanh</b></i>


<i><b>1. Vị trí, tính chất pháp lý của Thủ tướng Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013 </b></i>


Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay thế cho Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001). Sự ra đời của Hiến pháp mới là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng,
đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Giá trị to lớn của Hiến pháp
năm 2013 được thể hiện qua việc kế thừa những tinh hoa của các bản Hiến pháp trước đây,
đồng thời hiến pháp hóa nhiều quy định mới tiến bộ, trong đó đáng chú ý là các quy định về
vị trí pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ (TTCP).


Hiến pháp năm 2013 đã nâng chức danh TTCP lên một tầm cao mới khi lần đầu tiên
<i>quy định tư cách “người đứng đầu Chính phủ” của TTCP. Nếu như các bản Hiến pháp trước </i>
<i>đây chỉ ghi nhận một cách gián tiếp tư cách “người đứng đầu Chính phủ” của TTCP thông </i>
qua các cụm từ như “chủ tọa”, “lãnh đạo cơng tác”179<sub> của Chính phủ thì Hiến pháp năm 2013 </sub>


<i><b>đã quy định rất rõ ràng: “TTCP là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước </b></i>


<i>Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo cơng tác của </i>
<i>Chính phủ, TTCP trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”</i>180<sub>. Bên cạnh </sub>


đó, cùng với việc nâng tầm vị trí của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước khi lần đầu
tiên đưa chức năng “hành chính nhà nước cao nhất” lên trước chức năng “chấp hành của
Quốc hội” và trao cho Chính phủ thực hiện “quyền hành pháp”181<sub> thì Hiến pháp năm 2013 đã </sub>



<i>gián tiếp ghi nhận tư cách thứ hai để nâng tầm của TTCP đó là “người đứng đầu hệ thống </i>


<i>hành chính”. Như vậy có thể thấy rằng Hiến pháp năm 2013 đã trao cho TTCP hai tư cách </i>


<i>rất quan trọng đó là “người đứng đầu Chính phủ” và “người đứng đầu hệ thống hành </i>


<i>chính”, cùng với đó là việc mở rộng thêm nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mới để TTCP thực sự </i>


trở thành trung tâm của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước.182


Chính phủ, theo Hiến pháp năm 2013, trước hết là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp với hai nhiệm vụ cốt yếu: “xây dựng chính sách” và “tổ chức thi hành pháp luật”183<sub>, do </sub>


đó với tư cách là “người đứng đầu Chính phủ - người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền
<i>hành pháp”, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 quy định TTCP “lãnh đạo việc xây dựng chính </i>


<i>sách và tổ chức thi hành pháp luật” song song với quy định “lãnh đạo công tác của Chính </i>


phủ” như các bản Hiến pháp trước đây184<sub>. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cịn bổ sung </sub>


<i>quy định TTCP “lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà </i>


<i>nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thơng suốt của nền hành </i>
<i>chính quốc gia”</i>185<sub>. Điều này cho thấy Hiến pháp năm 2013 đã củng cố và mở rộng thẩm </sub>
<sub> Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. </sub>


179<sub> Điều 75 Hiến pháp năm 1959, Điều 110 Hiến pháp năm 1980, khoản 1 Điều 114 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, </sub>


bổ sung năm 2001).



180<sub> Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013. </sub>


181<sub> Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa </sub>


xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”


182<sub> Khoản 2 Điều 4 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 đã cụ thể hóa 02 tư cách này của TTCP như sau: “TTCP là </sub>


người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước”.


183183<sub> Trần Thị Thu Hà (2016), “Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015”, </sub>


Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>quyền của TTCP với tư cách “người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước”. Bên cạnh đó, </i>
<i>Hiến pháp năm 2013 còn trao thêm cho TTCP thẩm quyền “Quyết định và chỉ đạo việc đàm </i>


<i>phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; </i>
<i>tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành </i>
<i>viên”</i>186<sub>. Những bổ sung này của Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục củng cố và nối dài “cánh </sub>


tay quyền lực” của TTCP, biến chức danh này trở thành một nhân vật rất “thực quyền” trong
bộ máy nhà nước.


Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định khá rõ ràng về vị trí pháp lý,
nhiệm vụ và quyền hạn của TTCP, thế nhưng các quy định này chỉ mang tính chất khung và
nền tảng, còn các vấn đề cụ thể sẽ phải được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật
khác để thi hành các quy định của Hiến pháp về chức danh TTCP. Bài viết sẽ phân tích các
nội dung cịn bất cập để góp ý hồn thiện các quy định pháp luật có liên quan trong việc tổ
chức triển khai thi hành các quy định của Hiến pháp năm 2013 về chức danh TTCP.



<b>2. Một số vấn đề pháp lý cần hoàn thiện trong quá trình triển khai thi hành quy </b>
<b>định về Thủ tướng Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013 </b>


<i><b>2.1. Về vấn đề tuyên thệ của Thủ tướng Chỉnh phủ </b></i>


<i>Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp năm 2013 quy định: “sau khi được </i>


<i>bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, TTCP, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải </i>


<i><b>tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp”</b></i>187<i><sub>. Quy định về nghi thức </sub></i>


“tuyên thệ” của những người giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước là điều khoản mới
phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện tầm quan trọng cũng như trách nhiệm chính trị của các
chủ thể này trước Nhà nước và Nhân dân trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.


Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy quy định về nghi thức tuyên thệ của các
quốc gia trên thế giới thường chỉ dành cho nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước,
trong khi đó Hiến pháp năm 2013 quy định về nghi thức này cho 04 chức danh: Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, TTCP và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Việc quy định Chủ
tịch nước thực hiện nghi thức tuyên thệ là điều tất yếu vì Chủ tịch nước là người đứng đầu
Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại188<sub>. </sub>


Đối với các chức danh còn lại là Chủ tịch Quốc hội, TTCP, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, theo tác giả, Hiến pháp năm 2013 hồn tồn có lý khi quy định các chức danh này cũng
phải thực hiện nghi thức tuyên thệ vì họ là người đứng đầu của các cơ quan được trao chức
năng thực hiện các bộ phận của quyền lực nhà nước. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định
<i>“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan </i>



<i>nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”</i>189<sub>. Trong đó, Quốc </sub>


hội là cơ quan được giao thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và
Tòa án thực hiện quyền tư pháp190<sub>. </sub>


Mặc dù đã có quy định về nghi thức tuyên thệ, thế nhưng cách thức, trình tự thực hiện
cũng như lời tuyên thệ của các chức danh này như thế nào thì đến nay vẫn chưa có quy định
cụ thể, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong quá trình thực hiện.


Cụ thể, trong buổi lễ nhậm chức TTCP nhiệm kỳ 2011-2016 ngày 07/4/2016, TTCP
<i><b>Nguyễn Xuân Phúc tuyên thệ: “Trước cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc </b></i>


186<sub> Khoản 5 Điều 98 Hiến pháp năm 2013. </sub>
187<sub> Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013. </sub>
188<sub> Điều 86 Hiến pháp năm 2013. </sub>


189<sub> Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>hội, trước đồng bào và cử tri cả nước, tôi xin tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, </b></i>
<i><b>với Nhân dân, với Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tôi nguyện </b></i>


<i><b>ra sức phấn đấu, rèn luyện để hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân </b></i>


<i>dân giao phó”.</i>191<sub> Trong khi đó, lần thứ hai được bầu làm TTCP nhiệm kỳ 2016 - 2021 vào </sub>


<i><b>ngày 26/7/2016, ông Nguyễn Xuân Phúc lại tuyên thệ như sau: “Dưới cờ đỏ sao vàng thiêng </b></i>


<i><b>liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước, tôi TTCP nước Cộng hòa xã </b></i>


<i><b>hội chủ nghĩa Việt Nam, xin tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với </b></i>



<i><b>Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nỗ lực công tác tốt để hoàn thành </b></i>
<i>nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó”</i>192<i><sub>. Rõ ràng lời tuyên thệ của TTCP </sub></i>


Nguyễn Xn Phúc đã khơng có sự thống nhất trong hai lần tun thệ, qua đó vơ tình làm
giảm giá trị của nghi thức tuyên thệ.


Nghi thức tuyên thệ là một nghi thức thiêng liêng, thể hiện niềm tin của Nhân dân,
thông qua Quốc hội để lựa chọn những chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước. Lời tuyên
thệ như một lời “thề”, lời cam kết sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của người tuyên thệ trước Nhân dân. Do đó, nghi thức tuyên thệ cần phải được cụ thể hóa
thành các quy định pháp luật một cách rõ ràng để bảo đảm tính thống nhất trong q trình
thực hiện.


Ở các quốc gia trên thế giới, nội dung và nghi thức tuyên thệ của những người đứng
đầu Nhà nước đã được quy định minh thị ngay trong Hiến pháp. Theo mục 1 Điều II Hiến
<i>pháp Mỹ thì trước khi nhậm chức, Tổng thống sẽ tuyên thệ hoặc thề nguyện như sau: “Tôi </i>


<i>trân trọng tuyên thệ (hoặc thề) rằng tôi sẽ giữ chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ với lòng trung </i>
<i>thành và tận dụng hết khả năng của mình để duy trì, giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ”. </i>


Trong khi đó, theo Điều 130 Hiến pháp Ba Lan thì trong lễ nhậm chức, Tổng thống Cộng
<i>hòa Ba Lan phải tuyên thệ trước Quốc hội như sau: “Với mong muốn của nhân dân, nhậm </i>


<i>chức Tổng thống Cộng hịa Ba Lan, tơi chính thức tuyên thệ trung thành với các quy định </i>
<i>của Hiến pháp; tơi cam kết rằng tơi sẽ kiên trì bảo vệ các giá trị của dân tộc, sự độc lập và </i>
<i>an ninh của quốc gia, cũng như những điều tốt đẹp của Tổ quốc và sự phồn vinh của người </i>
<i>dân sẽ là nghĩa vụ cao quý của tôi”. Khoản 1 Điều 82 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 </i>


<i>thì quy định khi nhậm chức, Tổng thống Liên bang Nga tuyên thệ: “Tôi xin thề khi thực thi </i>



<i>quyền hạn của Tổng thống Liên bang Nga sẽ tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của </i>
<i>con người và công dân, tuân thủ và bảo vệ Hiến pháp Liên bang Nga, bảo vệ chủ quyền, </i>
<i>độc lập, an ninh và toàn vẹn của quốc gia, trung thành phục vụ nhân dân”. Điều 91 Hiến </i>


<i>pháp Bỉ năm 2014 quy định khi nhậm chức Nhà vua sẽ tuyên thệ như sau: “Tôi xin thề sẽ </i>


<i>tuân thủ Hiến pháp và luật pháp của người dân Bỉ, giữ gìn sự độc lập và bảo đảm tồn vẹn </i>
<i>lãnh thổ quốc gia”. Mục 5 Điều 7 Hiến pháp Philippines năm 1987 quy định lời tuyên thệ </i>


<i>nhậm chức của Tổng thống như sau: “Tôi xin thề trước mọi người là tôi sẽ thực hiện chu </i>


<i>đáo và mọi nhiệm vụ của Tổng thống Philippines, gìn giữ và bảo vệ Hiến pháp Philippines, </i>
<i>thi hành luật pháp Philippines, thực hiện công bằng cho mọi người, hiến dâng bản thân để </i>
<i>phục vụ đất nước. Xin Chúa giúp tôi”. Do vậy, kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia có quy </i>


định về nghi thức tuyên thệ cho thấy sẽ hợp lý nhất khi nghi thức và lời tuyên thệ được quy
định một cách cụ thể trong Hiến pháp, đáng tiếc Hiến pháp năm 2013 chỉ mới ghi nhận về
việc tuyên thệ chứ chưa quy định cụ thể trình tự thực hiện cũng như lời tuyên thệ của TTCP
và các chức danh khác.


Cho đến nay, hướng dẫn duy nhất về việc tuyên thệ được quy định tại Điều 29 Nghị


191<sub> Hoàng Thùy - Võ Hải, “Ông Nguyễn Xuân Phúc nhậm chức Thủ tướng”, tại website: </sub>


truy cập ngày 06/9/2018..


192<sub> Báo Điện tử Chính phủ, “Lễ tuyên thệ nhậm chức của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”, tại website: </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

quyết số 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của Quốc hội về Ban hành Nội quy kỳ họp của


<i>Quốc hội quy định: “Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, TTCP, Chánh án Tòa án nhân dân </i>


<i>tối cao tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp. Ngoài nội dung trên, </i>
<i>người tuyên thệ quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao. Người </i>
<i>tuyên thệ phải đứng trước Quốc kỳ tuyên thệ. Thời gian tuyên thệ không quá 03 phút”. Trong </i>


bối cảnh Hiến pháp năm 2013 thiếu vắng các quy định cụ thể về nghi thức và lời tuyên thệ
thì quy định của Nghị quyết số 102/2015/QH13 có thể xem là giải pháp hợp lý để khỏa lấp
“lỗ trống” đó mà vẫn bảo đảm tính pháp lý bởi lẽ các chức danh thực hiện nghi thức tuyên
thệ đều do Quốc hội bầu ra trong số các vị đại biểu Quốc hội, đồng thời việc tuyên thệ được
thực hiện tại Kỳ họp của Quốc hội. Tuy nhiên, hướng dẫn này vẫn chưa đầy đủ khi thiếu nội
dung “người tuyên thệ đặt một tay lên Hiến pháp” hay cách thức đặt tay, giơ tay khi tuyên
thệ, đồng thời để bảo đảm việc tuyên thệ sẽ thực hiện thống nhất để thể hiện tính trang trọng
cũng như trách nhiệm của người tuyên thệ với lời tuyên thệ của mình thì Nghị quyết số
102/2015/QH13 nên quy định cụ thể lời tuyên thệ của từng chức danh thay vì trao cho các
chức danh quyền chủ động, sáng tạo thực hiện “lời tuyên thệ” của mình.


<i><b>2.2. Phân định thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật giữa Chính phủ và Thủ </b></i>
<i><b>tướng Chính phủ </b></i>


Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp năm 2013 trao cho, Chính phủ và
TTCP sẽ có quyền ban hành các văn bản pháp luật tương ứng với thẩm quyền của mình.
<i>Điều 100 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ, TTCP, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan </i>


<i>ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra </i>
<i>việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”. Cụ </i>


thể hóa điều này, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định TTCP ban
hành quyết định để quy định:



<i>“1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính </i>
<i><b>nhà nước từ trung ương đến địa phương, chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, </b></i>


<i><b>chính quyền địa phương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; </b></i>


<i>2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra </i>
<i>hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương </i>
<i>trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà </i>
<i>nước”.193</i>


Từ quy định này có thể thấy thẩm quyền quy định “chế độ làm việc với các thành viên
Chính phủ, chính quyền địa phương” thuộc thẩm quyền của TTCP và nội dung này phải được
chuyển tải trong hình thức văn bản là quyết định của TTCP. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này
lại được điều chỉnh trong nghị định của Chính phủ. Ví dụ, ngày 01/10/2016, Chính phủ ban
hành Nghị định số 138/2016/NĐ-CP để ban hành quy chế làm việc của Chính phủ trong khi
đúng ra vấn đề này phải được quy định trong quyết định của TTCP. Sự “lấn sân” này là không
phù hợp với quy định của pháp luật, vơ hình trung cịn xóa nhịa ranh giới về phạm vi thẩm
quyền trong việc ban hành quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ và TTCP194<sub>. </sub>


Do đó, để bảo đảm thẩm quyền của TTCP trong việc ban hành các văn bản pháp luật
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thiết nghĩ Chính phủ cần trả lại cho
TTCP quyền quy định “quy chế làm việc của Chính phủ” bằng văn bản quy phạm pháp luật
với hình thức “Quyết định” và bãi bỏ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP nói trên bởi lẽ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 không trao cho Chính phủ quyền ban hành Nghị


193<sub> Điều 20 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. </sub>


194<sub> Cao Vũ Minh, Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

định để quy định vấn đề này195<sub>, do đó cần phải chấm dứt ngay tình trạng này để bảo đảm tính </sub>



hợp pháp về mặt nội dung trong văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành.
<i><b>2.3. Thẩm quyền quyết định nhân sự của Thủ tướng Chính phủ </b></i>


<i>Với tư cách là “người đứng đầu Chính phủ” và “người đứng đầu hệ thống hành </i>


<i>chính”, TTCP có quyền hạn rất lớn trọng việc quyết định các nhân sự của Chính phủ và hệ </i>


thống hành chính nhà nước. Cụ thể:


<i>Thứ nhất, đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quang ngang Bộ (gọi tắt là Bộ trưởng), </i>


bên cạnh các quyền hạn mang tính truyền thống như trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Bộ trưởng; trong thời gian Quốc hội khơng họp, trình Chủ
tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Bộ trưởng thì lần đầu tiên Luật Tổ chức
<i>Chính phủ năm 2015 quy định cho TTCP một quyền hạn mới đó là “Trong thời gian Quốc </i>


<i><b>hội không họp, quyết định giao quyền Bộ trưởng theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ </b></i>
<i>trong trường hợp khuyết Bộ trưởng”</i>196<sub>. Việc Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định </sub>


cho TTCP thẩm quyền “giao quyền Bộ trưởng” là một bước đi táo bạo trong việc mở rộng
thẩm quyền của TTCP, thậm chí có phần mở rộng hơn so với Hiến pháp năm 2013, song vẫn
ở trong giới hạn được phép. Việc “giao quyền Bộ trưởng” chủ yếu nhằm khắc phục khoảng
trống tình thế, dẫu hy hữu nhưng không phải là không thể xảy ra trong thực tiễn. Có trong
tay nhiệm vụ, quyền hạn này, TTCP có thể hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời, chủ
động ứng phó với tình hình để khắc phục sự khuyết thiếu người đứng mũi chịu sào của một
ngành, lĩnh vực nào đó, bảo đảm tính liên tục của hoạt động điều hành, quản lý197<sub>. </sub>


Triển khai thực hiện quy định mới của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, trong bối
cảnh Bộ Thơng tin và Truyền thông bị khuyết chức danh Bộ trưởng do ông Trương Minh


Tuấn bị tạm đình chỉ cơng tác198<sub>, TTCP Nguyễn Xuân Phúc đã ban hành Quyết định số </sub>


900/QĐ-TTg ngày 25/7/2018 để giao quyền Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thơng đối
với đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng. Mặc dù việc “giao quyền Bộ trưởng” chỉ
mang tính chất tạm thời nhưng lại hết sức cần thiết để kịp thời lãnh đạo công tác của Bộ
Thông tin và Truyền thông trong thời gian khuyết Bộ trưởng. Để TTCP quyết định giao
quyền Bộ trưởng, thiết nghĩ là một sự mạnh dạn (bởi chưa từng có tiền lệ ở nước ta) nhưng
cần thiết. TTCP vẫn không có quyền bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan của Chính phủ, phê
chuẩn Bộ trưởng mới vẫn là thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Song cho
phép TTCP chọn ra một người xứng đáng để kịp thời gánh vác trọng trách của Bộ trưởng,
thay vì buộc TTCP phải chờ đợi Quốc hội một cách thụ động là đặt niềm tin vào người lãnh
đạo, điều hành hệ thống hành chính nhà nước, tạo điều kiện cho họ thể hiện sự năng động,
linh hoạt vốn là bản chất của hành pháp, buộc họ phải dám chịu trách nhiệm với sự lựa chọn
của mình. Vả lại, bằng việc giao quyền Bộ trưởng trong trường hợp khuyết Bộ trưởng, TTCP
có được một khoảng thời gian cần thiết để thử thách và khẳng định nhân tài, từ đó đề nghị
Quốc hội phê chuẩn nhân sự Bộ trưởng mới một cách chính xác hơn199<sub>. Tuy nhiên, quy định </sub>


về việc “giao quyền Bộ trưởng” của TTCP vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần hoàn thiện để
việc thực hiện thẩm quyền “đặc biệt” này đạt được mục đích như mong đợi.


195<sub> Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định về nội dung Nghị định của Chính phủ thì </sub>


khơng có quy định về việc “quy định quy chế làm việc của Chính phủ”.


196<sub> Khoản 5 Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. </sub>


197<sub> Trần Thị Thu Hà (2016), “Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015”, Tạp </sub>


chí Khoa học pháp lý, số 04.



198<sub> Ngày 23/7/2018, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ban hành Quyết định số 1261/QĐ-CTN về việc tạm đình chỉ </sub>


cơng tác Bộ trưởng Bộ Thơng tin và Truyền thông đối với ông Trương Minh Tuấn do có vi phạm khuyết điểm
và Bộ Chính trị đã có thi hành kỷ luật về Đảng tại Quyết định số 806-QĐNS/TW ngày 16/7/2018.


199<sub> Trần Thị Thu Hà (2016), “Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015”, Tạp </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Về mặt quy định pháp luật, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 chưa làm rõ mối quan </i>


hệ cũng như sự khác biệt về địa vị pháp lý giữa “Quyền Bộ trưởng” và “Bộ trưởng”. Mặc dù
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như Bộ trưởng tuy nhiên Quyền Bộ trưởng chỉ là chức danh
“tạm quyền” và chưa được Quốc hội phê chuẩn, do đó, địa vị pháp lý của “Quyền Bộ
trưởng” có thể sánh bằng với các Bộ trưởng khác khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn hay
khơng là một câu hỏi cịn bỏ ngõ. Bởi song hành với nhiệm vụ, quyền hạn là trách nhiệm.
Giao “quyền Bộ trưởng” không nhằm giản đơn lấp đi một khoảng trống về “chiếc ghế quyền
lực” mà chính là sự bổ sung kịp thời chủ thể lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm, đáp
ứng yêu cầu của quản lý hành chính nhà nước200<sub>. </sub>


<i>Về mặt tổ chức thực hiện, Quyết định giao quyền Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền </i>


thơng đối với đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng có thể coi là ví dụ điển hình đầu
tiên về việc thực hiện thẩm quyền “giao quyền Bộ trưởng” của TTCP, thế nhưng ngay trong
lần đầu thực hiện thì Quyết định này vẫn cịn tồn tại những sai sót cần phải khắc phục. Cụ
thể ở phần căn cứ ban hành, Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 25/7/2018 căn cứ vào ý kiến
của Bộ Chính trị tại Văn bản số 7175-CV/VPTW ngày 16/7/2018 và căn cứ quyết nghị của
Ban cán sự Đảng Chính phủ tại phiên họp ngày 16/7/2018 là không phù hợp với căn cứ ban
hành một Quyết định áp dụng pháp luật bởi đây là văn bản của Đảng. Bên cạnh đó, Quyết
<i><b>định này cịn được ban hành dựa trên việc xét đề nghị của Bộ Nội vụ tại Tờ trình số </b></i>
273/TTr-BNV ngày 18/7/2018 là chưa phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015,
<i><b>bởi quyền đề nghị TTCP quyết định giao quyền Bộ trưởng thuộc về Bộ trưởng Bộ Nội vụ </b></i>


<i><b>chứ không phải theo đề nghị của Bộ Nội vụ. Ngoài ra, Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày </b></i>
25/7/2018 còn tồn tại những thiếu sót khác về mặt kỹ thuật soạn thảo khi chức danh Bộ
trưởng là do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm mà trong phần “Nơi nhận” lại
không thấy gửi cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.


Do đó, để việc “giao quyền Bộ trưởng” có thể thực hiện với đầy đủ ý nghĩa của nó,
thiết nghĩ các văn bản triển khai thi hành Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, đặc biệt là quy
chế làm việc của Chính phủ cần bổ sung quy định “quyền Bộ trưởng” có đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn của một Bộ trưởng trong thời gian được giao quyền. Đồng thời, để việc ban hành
quyết định giao quyền đúng văn phong, thể thức của một quyết định hành chính địi hỏi
Chính phủ cần phải xem xét ban hành biểu mẫu về quyết định giao quyền để bảo đảm tính
thống nhất và chính xác khi TTCP thực hiện việc giao quyền Bộ trưởng trong tương lai.


<i>Thứ hai, về quyền quyết định nhân sự đối với Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Với tư cách là </i>


“người đứng đầu hệ thống hành chính”, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015 đã trao cho TTCP quyền phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình
chỉ cơng tác, cách chức Chủ tịch UBND cấp tỉnh201<sub>. Ngoài ra, trong thời gian giữa hai kỳ họp </sub>


Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, TTCP có quyền quyết định giao quyền Chủ tịch UBND cấp tỉnh
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Đây
cũng là quy định mới về thẩm quyền của TTCP đối với việc quyết định nhân sự Chủ tịch
UBND cấp tỉnh, tuy nhiên so với việc “giao quyền Bộ trưởng” thì việc “giao quyền Chủ tịch
UBND cấp tỉnh” khơng mang tính đột phá. Nếu như TTCP khơng có toàn quyền để quyết định
nhân sự Bộ trưởng mà phải phụ thuộc vào ý chí của Quốc hội và Chủ tịch nước thì việc quyết
định nhân sự Chủ tịch UBND cấp tỉnh gần như nằm hoàn toàn trong tay của TTCP khi có
quyền phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ cơng tác, thậm chí là
cách chức. Vì thế việc TTCP có thể giao quyền Chủ tịch UBND là điều dễ chấp nhận. Tuy
nhiên, vấn đề cần bàn luận ở đây về mặt thẩm quyền của TTCP đối với Chủ tịch UBND cấp
tỉnh thể hiện ở quyền lập ra chức danh này. Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ



200<sub> Trần Thị Thu Hà (2016), “Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015”, Tạp </sub>


chí Khoa học pháp lý, số 04.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

năm 2015 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 không trao cho TTCP quyền
trực tiếp lập ra chức danh Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà chỉ trao một cách hạn chế qua việc quy
định quyền phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch UBND cấp tỉnh của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Mặc dù có những tác động nhất định đến việc lập ra chức danh Chủ tịch UBND cấp tỉnh thế
nhưng quyền hạn của TTCP bị hạn chế bởi sự lựa chọn của HĐND cấp tỉnh, việc phê chuẩn đã
đặt TTCP vào thế “đã rồi” nhiều hơn là quyền “quyết định” nhân sự, vì thế chưa thể hiện một
cách trọn vẹn tư cách “người đứng đầu hệ thống hành chính” của TTCP.


Tư tưởng về việc trao quyền mạnh dạn cho TTCP đã được đề cập trong các văn bản
của Đảng, cụ thể Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
<i>lý của bộ máy nhà nước có quy định “Trường hợp cần thay đổi Chủ tịch UBND mà nhân sự </i>


<i>là người phải điều động từ nơi khác đến thì sau khi trao đổi với cấp ủy cùng cấp và được cấp </i>
<i><b>có thẩm quyền quản lý cán bộ đồng ý, TTCP bổ nhiệm Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch </b></i>
<i>UBND cấp trên bổ nhiệm Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp”. Tiếc rằng, Hiến pháp năm </i>


2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm
2015 chưa mạnh dạn để luật hóa nội dung này. Theo tác giả, việc trao cho TTCP quyền “bổ
nhiệm” Chủ tịch UBND cấp tỉnh là việc làm hết sức cần thiết bởi lẽ quy định hiện hành
khơng bảo đảm tính logic của vấn đề khi TTCP có tồn quyền trong việc sử dụng nhân sự
Chủ tịch UBND cấp tỉnh qua quyền điều động, đình chỉ cơng tác, thậm chí có quyền xóa bỏ
chức danh Chủ tịch UBND cấp tỉnh qua quyền cách chức nhưng lại không được trực tiếp
quyết định việc hình thành chức danh Chủ tịch UBND cấp tỉnh qua quyền bổ nhiệm. Do đó,
để thật sự xứng tầm với tư cách là “người đứng đầu hệ thống hành chính”, thiết nghĩ cần sửa


đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để trao cho TTCP quyền bổ nhiệm Chủ tịch
UBND cấp tỉnh thay vì quyền phê chuẩn việc bầu như quy định hiện hành.


<i><b>2.4. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong xử phạt vi phạm hành chính </b></i>
Xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
VPHC theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC202<sub>. Hình thức của việc xử phạt thể hiện </sub>


bằng quyết định xử phạt VPHC được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền. Xử phạt
VPHC là một hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật cụ thể, tức là một hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước. Với đặc thù là một biện pháp cưỡng chế hành chính, xử phạt VPHC có
khả năng gây ra thiệt hại nhất định cho các đối tượng bị áp dụng. Do đó, q trình xử phạt và
ban hành quyết định xử phạt VPHC phải tuân thủ chính xác và đầy đủ các yêu cầu của pháp
luật thì mới bảo đảm được tính hợp pháp của việc xử phạt VPHC.


Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC năm 2012) quy
<i>định về thời hạn ban hành quyết định xử phạt VPHC như sau: “Người có thẩm quyền xử phạt </i>


<i>VPHC phải ra quyết định xử phạt VPHC trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản </i>
<i>VPHC. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình </i>
<i>hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều </i>
<i>61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên </i>
<i>bản”. Quy định về thời hạn xử phạt VPHC như trên là cần thiết và hợp lý vì từ khi lập biên </i>


bản VPHC khơng phải lúc nào các chủ thể có thẩm quyền cũng ra quyết định xử phạt ngay
được, trong những trường hợp nhất định, họ cần thời gian để chuẩn bị, xác minh, thu thập tài
liệu… nhằm đưa ra được quyết định xử phạt VPHC phù hợp với tính chất, mức độ nguy
<i>hiểm của hành vi vi phạm. Điều khoản này còn quy định: “Trường hợp vụ việc đặc biệt </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i><b>thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng </b></i>



<i><b>trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn </b></i>


<i>gia hạn không được quá 30 ngày”. Thế nhưng, Luật XLVPHC năm 2012 lại không quy định </i>


rõ ràng “thủ trưởng trực tiếp” ở đây là thủ trưởng quản lý trực tiếp hay thủ trưởng có thẩm
quyền xử phạt.


Khắc phục thiếu sót này, Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC đã bổ sung quy
định giải thích “thủ trưởng trực tiếp” tại khoản 13 Điều 1. Theo đó, điều khoản này bổ sung
<i>Điều 6e vào sau Điều 6đ của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP như sau: “Thủ trưởng trực tiếp </i>


<i>của người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc theo quy định tại các Điều 66, 77, 125 và </i>
<i><b>128 Luật XLVPHC là cấp trên trực tiếp trong quan hệ hành chính đối với người đang giải </b></i>


<i><b>quyết vụ việc”. Mặc dù đã có quy định để “chữa cháy” như trên nhưng trong trường hợp Chủ </b></i>
tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh xin gia hạn thì cũng rất khó xác định chủ thể có thẩm
quyền gia hạn thời hạn xử phạt VPHC.


Theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, TTCP là người có quyền
quyết định điều động, đình chỉ cơng tác, cách chức Chủ tịch UBND cấp tỉnh203<sub>. Do đó, có thể </sub>


<i>xem TTCP là “thủ trưởng trực tiếp” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh vì TTCP chính là “cấp trên </i>


<i>trực tiếp trong quan hệ hành chính” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, quy định pháp </i>


luật về thẩm quyền của TTCP204<sub> lại không trao cho chủ thể này thẩm quyền gia hạn thời hạn </sub>



ra quyết định xử phạt VPHC. Theo Luật XLVPHC năm 2012 thì TTCP cũng khơng có quyền
xử phạt VPHC. Do đó, câu hỏi đặt ra là TTCP có quyền gia hạn thời hạn xử phạt VPHC của
cấp dưới trực tiếp hay không. Câu hỏi này đã không được trả lời rõ ràng trong Luật
XLVPHC năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành dẫn đến nhiều khó khăn khi thực
hiện trong thực tế205<sub>. </sub>


Do đó, để khắc phục thiếu sót của Luật XLVPHC năm 2012 về chủ thể có thẩm
quyền gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt VPHC, tác giả đề xuất cần bổ sung quy định cụ
<i>thể TTCP là “thủ trưởng trực tiếp” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm cơ sở cho việc xác định </i>
chủ thể có thẩm quyền gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt VPHC. Đây là vấn đề rất quan
trọng, khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn nhằm áp dụng
pháp luật thống nhất khi xử phạt VPHC206<sub>. </sub>


<i><b>2.5. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong giải quyết khiếu nại </b></i>


Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trước tác động
của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các chủ thể quản lý nhà nước, pháp
<i>luật đã quy định về quyền khiếu nại. Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Khiếu nại là việc </i>


<i>công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề </i>
<i>nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi </i>
<i>hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành </i>
<i>chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định </i>
<i>hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”</i>207<sub>. Để bảo </sub>


đảm tính khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời của việc giải quyết khiếu nại, Luật


203<sub> Khoản 7 Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. </sub>


204<sub> Điều 98 Hiến pháp năm 2013 và Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 không quy định quyền gia hạn thời </sub>



hạn ra quyết định xử phạt VPHC của TTCP.


205<sub> Cao Vũ Minh (2018), “Hạn chế của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nhìn từ góc độ kỹ thuật lập pháp”, </sub>


Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03 + 04.


206<sub> Cao Vũ Minh (2017), “Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong </sub>


lĩnh vực mơi trường”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Khiếu nại năm 2011 quy định chủ thể thực hiện khiếu nại có quyền khiếu nại hai lần. Khi có
căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực
tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã
ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính. Trường hợp người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà
khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực
tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu208<sub>. </sub>


Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh thì
người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc
hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến
Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực209<sub>. Cụ thể hóa nội dung này, khoản 3 Điều 23 Luật Khiếu </sub>


<i>nại năm 2011 quy định Bộ trưởng (ở đây bao gồm cả Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) có </i>
quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có nội dung thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành đã
giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa
được giải quyết.



Theo tác giả, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai của Bộ trưởng đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh vừa không phù
hợp với quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, vừa khơng bảo đảm tính khả thi
khi áp dụng trong thực tiễn. Về mặt pháp lý, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất210<sub>, UBND cấp tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm </sub>


trước Chính phủ211<sub>. Chủ tịch UBND cấp tỉnh là người đứng đầu UBND cấp tỉnh</sub>212<sub> chịu trách </sub>


nhiệm trước TTCP. Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 thì TTCP có quyền phê chuẩn
việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ cơng tác, cách chức Chủ tịch UBND
cấp tỉnh213<sub>. Trong khi đó, Bộ trưởng hồn tồn khơng có những quyền hạn này. Như vậy, xét </sub>


<i>về thứ bậc hành chính thì TTCP mới là thủ trưởng cấp trên trực tiếp của Chủ tịch UBND cấp </i>
tỉnh chứ không phải là Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực. Do đó, quy định về thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai của Bộ trưởng đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
<i>của Chủ tịch UBND cấp tỉnh là không phù hợp với nguyên tắc “thẩm quyền giải quyết khiếu </i>


<i><b>nại lần hai thuộc về thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu </b></i>
<i>nại lần đầu” được nêu tại khoản 1 Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 vì TTCP mới là “thủ </i>
<i>trưởng cấp trên trực tiếp” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, do đó thẩm quyền giải quyết khiếu </i>


nại lần hai này phải được quy định cho TTCP.


Tuy nhiên, đáng tiếc rằng Luật Khiếu nại năm 2011 đã không quy định thẩm quyền
giải quyết khiếu nại cho TTCP. Bất cập này đã phần nào hạn chế quyền khiếu nại của người
khiếu nại và là nguyên nhân chính dẫn đến những những hạn chế về mặt pháp luật cũng như
thực tiễn giải quyết khiếu nại liên quan đến phân cấp thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quy định
Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính,


hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng cịn khiếu nại
như đã phân tích vừa khơng phù hợp với nguyên tắc thứ bậc hành chính, vừa không bảo đảm
<i>hiệu quả giải quyết khiếu nại. Bởi lẽ như đã phân tích, TTCP mới là “thủ trưởng cấp trên </i>


208<sub> Khoản 1 Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011. </sub>
209<sub> Khoản 3 Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011. </sub>
210<sub> Điều 1 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>trực tiếp” của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Do đó, TTCP sẽ khơng bị vướng tâm lý e ngại và sẽ </i>


quyết đoán hơn trong việc giải quyết khiếu nại lần hai. Chính vì thế, các quyết định giải
quyết khiếu nại của TTCP có hiệu lực thi hành cao, bảo đảm công bằng, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khiếu nại214<sub>. </sub>


Để khắc phục bất cập trên, Luật Khiếu nại năm 2011 cần bãi bỏ quy định Bộ trưởng
giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch
UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại bởi Bộ trưởng không phải là cấp
trên trực tiếp của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Đồng thời, Luật Khiếu nại năm 2011 cần bổ sung
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai cho TTCP đối với các khiếu nại đã được Chủ tịch
UBND cấp tỉnh, Bộ trưởng giải quyết lần đầu mà còn khiếu nại. Trên cơ sở sửa đổi Luật
Khiếu nại năm 2011, Quốc hội cần tiến hành sửa đổi quy định về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại trong các đạo luật chuyên ngành nhằm bảo đảm tính thống nhất về thẩm quyền giải
quyết khiếu nại trong các lĩnh vực tương ứng. Quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại cho
TTCP không chỉ tạo niềm tin cho người khiếu nại mà còn bảo đảm chất lượng, hiệu quả
trong việc giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài.


<b>3. Kết luận </b>


Thiết chế TTCP được quy định trong Hiến pháp năm 2013 là một thiết chế “thực chất”
và “thực quyền” qua việc trao cho TTCP hai cương vị “người đứng đầu Chính phủ” và “người


đứng đầu hệ thống hành chính”. Cùng với việc củng cố và mở rộng các nhiệm vụ, quyền hạn
cho TTCP, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan đã trao cho TTCP
những công cụ cần thiết để thực sự trở thành “tổng tư lệnh” của Chính phủ và của hệ thống
hành chính, hướng đến việc xây dựng một Chính phủ mạnh với vai trị thực hiện quyền hành
pháp cũng như bảo đảm tính thơng suốt trong hoạt động của nền hành chính quốc gia. Bên
cạnh những điểm tích cực đã đạt được, thiết chế TTCP vẫn cần tiếp tục được hồn thiện để
TTCP có thể đảm trách một cách hiệu quả nhất vị trí của mình, trong đó việc làm trước tiên
cần phải thực hiện là hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh về chủ thể này./.


<b>Tài liệu tham khảo </b>


1. Trần Thị Thu Hà (2016), “Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của TTCP theo Luật Tổ
<i>chức Chính phủ năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04. </i>


<i>2. Cao Vũ Minh, Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ - Lý luận và thực tiễn, </i>
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, năm 2017.


3. Cao Vũ Minh (2018), “Hạn chế của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
<i>nhìn từ góc độ kỹ thuật lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03 + 04. </i>
4. Cao Vũ Minh (2017), “Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về xử


<i>phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường”, Tạp chí Khoa học pháp lý, </i>
số 6.


5. Cao Vũ Minh (2018), “Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải
<i>quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát </i>


<i>triển kinh tế, số 01. </i>


214<sub> Cao Vũ Minh (2018), “Hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất </sub>



</div>

<!--links-->
<a href=' />

×