Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thực hiện quyền bảo tồn văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập: qua trường hợp của dân tộc Tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.65 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THỰC HIỆN QUYỀN BẢO TỒN VĂN HOÁ CỦA CÁC DÂN TỘC </b>
<b>THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP: </b>


<b>QUA TRƯỜNG HỢP CỦA DÂN TỘC TÀY </b>


<i><b>Hoàng Thị Thu </b></i>
<i>(Học viên cao học nhân quyền khoá 6 </i>
<i>Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) </i>
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, từ thời xa xưa đã là nơi gặp gỡ của
nhiều làn sóng di cư, là nơi giao lưu văn hóa của nhiều dân tộc. Nước Việt Nam ta
từ thời cổ đại đã là quốc gia đa dân tộc, nhưng vì hồi ấy các dân tộc nước chưa có
chữ viết, nên tri thức dân tộc học đã không được ghi lại và lưu truyền cho đời sau.
Hiện nay, các nhà khoa học nước ta vẫn công nhận tài liệu dân tộc học sớm nhất ở
Việt Nam là tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi - nhà thơ, nhà bác học và là
người anh hùng dân tộc; hay trong tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” của nhà bác học Lê
Quý Đôn, ngồi việc nói đến đời sống của người Việt, dân tộc đa số, Lê Q Đơn
cịn nói đến các dân tộc thiểu số anh em như người Thổ (Tày), người Thái, người
Nùng..v.v. Các tài liệu về dân tộc học hoặc có liên quan đến các dân tộc ở Việt Nam
cũng có thể tìm thấy trong các thư tịch cổ của Trung Quốc như Sử ký Tư Mã Thiên,
Tùy thư, Bắc sử, Nam sử, Tống sử275<sub>..v.v. </sub>


Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập năm 1930 cho đến nay rất coi
trọng vấn đề dân tộc và đã đề ra đường lối, chính sách, chủ trương, nhiệm vụ đúng
đắn về vấn đề này trong từng thời kỳ, dựa vào tình hình đặc điểm các dân tộc
trong nước, căn cứ vào học thuyết Mác - Lê nin về vấn đề dân tộc. Từ khi thành
lập cho đến Đại hội III (năm 1960), Đảng đã đề ra 3 chính sách cơ bản của dân tộc
là: đồn kết, bình đẳng, tương trợ. Đến Đại hội IV (năm 1976), các nguyên tắc
trên lại được khẳng định, đồng thời được bổ sung một nguyên tắc nữa là cùng làm
chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong báo cáo chính trị của Ban
chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội IV có đoạn viết: “Chính sách dân tộc của
Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tạo những điều kiện


cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế - văn hóa giữa các
dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao
tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có một cuộc sống ấm no hạnh
phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ”276<sub>..vv.. Tới Đại </sub>


hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, song song với việc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế,
Đảng chủ trương từng bước xây dựng thể chế chính trị mới, tiếp thu di sản của
275<i><sub> Phan Hữu Dật (tái bản lần thứ nhất), Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Một số vấn đề về dân </sub></i>


<i>tộc học Việt Nam, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2018, tr.38. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lịch sử nước ta về thiết chế xã hội cổ truyền, xác định những mặt tích cực, có thể
cải biên, nâng cao phục vụ cho sự nghiệp xây dựng thể chế chính trị mới, kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại trong việc bảo tồn, làm giàu và phát huy truyền
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.


Có thể hiểu truyền thống văn hóa là những kinh nghiệm tích lũy được của
con người trong q trình thích ứng với mơi trường tự nhiên mà họ đã và đang sinh
sống, đó là các chuẩn mực của ứng xử xã hội giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cộng
đồng này với cộng đồng khác. Đó là các thói quen trong nếp nghĩ, các tri thức đã
tích lũy được, niềm tin và biểu tượng của thế giới tinh thần và tâm linh..v.v. Tất cả
những điều đó trải qua q trình lịch sử lâu dài, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã
tạo nên các hệ giá trị của di sản văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa. Đó là xuất phát
điểm, là nền tảng và môi trường xã hội cho mọi sự phát triển của cộng đồng.


Việt Nam rất giàu về truyền thống văn hóa, trước hết là truyền thống văn hóa
của 54 tộc người, trong đó người Việt (Kinh) là dân tộc đa số, còn lại là 53 dân tộc
thiểu số khác, với quy mô dân số, trình độ phát triển kinh tế xã hội và sắc thái văn
hóa khác nhau. Đã có nhà nghiên cứu nói Việt Nam như một Đơng Nam Á thu nhỏ
về mặt sắc tộc và văn hóa. Đó là các truyền thống văn hóa địa phương, với 7 vùng


văn hóa lớn và 25 tiểu vùng. Mỗi vùng văn hóa như vậy chứa đựng các truyền
thống văn hóa và mang bản sắc văn hóa riêng277<sub>. </sub>


Truyền thống văn hóa tộc người là điều dễ nhận diện, phức tạp hơn là truyền
thống văn hóa địa phương. Theo quan điểm chung nhất, có thể hiểu truyền thống
văn hóa địa phương là hệ thống các tri thức, quan niệm, thói quen, phong tục, nghi
thức đã nảy sinh và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài của cộng đồng trong
mối quan hệ với tự nhiên, hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội, đời sống vật chất tinh
thần của con người, từ đó có thể tạo nên ý thức và niềm đồng cảm giữa con người
trong cùng một địa phương ấy, tạo nên tính tự tơn dân tộc.


<b>Quyền văn hóa của người thiểu số trong luật quốc tế </b>


Quyền của các dân tộc thiểu số thuộc quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn
thương được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế quan trọng. Đó khơng
phải là những đặc quyền, mà nó được quy định để tạo điều kiện cho các dân tộc
thiểu số có thể bảo tồn những bản sắc, đặc trưng và truyền thống của họ. Các quyền
đó chỉ quan trọng trong việc bảo đảm sự đối xử bình đẳng.278


Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người của Liên Hợp Quốc (UDHR)
năm 1948 có ghi: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do
277<i><sub> Phan Hữu Dật, Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, tái bản lần </sub></i>


thứ nhất, 2018, tr.271.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khơng có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ,
tơn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” - (Điều 2) và Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị ICCPR năm 1966 ghi: “Tại những nước có nhiều nhóm dân
tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân
tộc, tơn giáo, ngơn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng


đồng mình, khơng thể bị tước bỏ về quyền được thụ hưởng nền văn hóa riêng, quyền
được thể hiện và thực hành tơn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng nói riêng
của họ” - (Điều 27). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng, ghi nhận các quyền
pháp lý cơ bản của con người về dân sự, chính trị, mà quyền dân tộc thiểu số được coi
là quyền cơ bản trong nhóm các quyền các quyền dân sự, chính trị đó.


Bên cạnh ghi nhận quyền của các dân tộc thiểu số, luật pháp quốc tế còn quy
định trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước phải bảo đảm cho các cá
nhân thuộc các nhóm dân tộc thiểu số quyền được hưởng nền văn hóa, ngơn ngữ
trong các điều kiện đặc thù của mình.


Trong Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân
tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 ghi: “Các quốc gia sẽ bảo vệ sự tồn
tại và bản sắc dân tộc hay sắc tộc, văn hóa, tơn giáo và ngơn ngữ của người thiểu số
trong phạm vi lãnh thổ thuộc sự quản lý của họ và khuyến khích những điều kiện để
thúc đẩy bản sắc đó; Các quốc gia sẽ thông qua những biện pháp lập pháp và những
biện pháp thích hợp khác để đạt được những mục tiêu này” (Điều 1). Đây là văn
kiện riêng biệt duy nhất của Liên Hợp Quốc đề cập đến các quyền đặc biệt của
người thiểu số. Tuyên bố sau khi quy định bảo đảm một sự cân bằng giữa các quyền
của những người thuộc các nhóm thiểu số được duy trì, phát triển bản sắc và những
đặc trưng của họ cùng những nghĩa vụ tương ứng của các quốc gia, đã đề cập đến
việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập về chính trị của các quốc gia. Các
nguyên tắc được ghi nhận trong Tuyên bố được áp dụng cho những người thuộc các
nhóm thiểu số nhằm bổ sung cho các quyền con người đã được thừa nhận rộng rãi
và đã được bảo đảm trong các văn kiện quốc tế khác.


Các văn kiện khu vực ghi nhận những quyền đặc biệt của người thiểu số bao
gồm Công ước khung về bảo vệ người dân tộc thiểu số, Hiến chương Châu Âu về
các ngôn ngữ thiểu số và khu vực, Văn kiện của Hội nghị Copenhagen về vị thế của
con người (Tổ chức An ninh và hợp tác Châu Âu - OSCE)..v.v. Theo đó, pháp luật


quốc tế quy định quyền của các dân tộc thiểu số gồm các quyền sau:


* Được các quốc gia bảo vệ cuộc sống và những đặc trưng về dân tộc, chủng
tộc, văn hóa, tơn giáo và ngơn ngữ của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

* Có quyền tham gia vào đời sống cơng cộng và các hoạt động văn hóa, tơn
giáo, kinh tế, xã hội.


* Có quyền tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng tới họ ở cấp độ quốc
gia và khu vực.


* Có quyền thiết lập và duy trì những tổ chức riêng của họ.


* Có quyền thiết lập và duy trì các mối quan hệ hịa bình với các thành viên
khác của nhóm họ và của những người thuộc các nhóm thiểu số khác, cả trong
phạm vi quốc gia và ngoài biên giới quốc gia.


* Được tự do thực hiện các quyền của họ, dưới hình thức cá nhân hay cùng
các thành viên khác trong cộng đồng, mà không bị phân biệt đối xử.


Như vậy, quyền dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của pháp luật
quốc tế về quyền con người. Việc thúc đẩy và thường xuyên thực hiện quyền của
những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ
như là một phần gắn liền trong sự phát triển xã hội nói chung và trong khn khổ
dân chủ, pháp luật nói riêng, góp phần vào việc tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
giữa các dân tộc và các quốc gia279<sub>. </sub>


Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa có vị trí quan trọng trong hệ
thống quyền con người, được đề cập trong Điều 27 của UDHR 1948 sau đó được cụ
thể hóa trong Điều 15 của Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa


ICESCR 1966. Theo đó, các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người
đều có quyền: a, được tham gia vào đời sống văn hóa; b, Được hưởng các lợi ích
của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó; c, Được bảo hộ các quyền lợi tinh
thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của
mình… Theo Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, các quốc gia thành
viên cần phải cung cấp thông tin về việc tạo lập quỹ cho việc thúc đẩy, phát triển
văn hóa và tham gia rộng rãi vào đời sống văn hóa như hỗ trợ các sáng tạo cá nhân,
thiết lập các thiết chế cơ sở hạ tầng (trung tâm văn hóa, nhà bảo tàng, rạp chiếu
phim, thư viện, làng nghề, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể..v.v.).


Nhằm góp phần cụ thể hóa các quy định trên, năm 2009, Ủy ban về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đã thơng qua Bình luận chung số 21 về quyền tham gia
vào đời sống văn hóa, trong đó Ủy ban đã giải thích những khái niệm căn bản về
“văn hóa” và “đời sống văn hóa”, “tham gia vào đời sống văn hóa” cũng như các
khía cạnh của quyền tham gia vào đời sống văn hóa và nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên để đảm bảo quyền này, cụ thể là:


Văn hóa “bao gồm những lối sống, ngôn ngữ, văn học truyền miệng và viết,
279<i><sub> Trịnh Quốc Toản, Vũ Công Giao, Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật, </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

âm nhạc và bài hát, các hình thức giao tiếp không lời, tôn giáo hay các hệ thống tín
ngưỡng, nghi thức và nghi lễ, thể thao và các trị chơi, phương thức sản xuất hay
cơng nghệ, môi trường tự nhiên và nhân tạo ẩm thực, trang phục và nơi sinh sống,
nghệ thuật, phong tục và truyền thống mà qua đó các cá nhân, nhóm người và cộng
đồng thể hiện tính nhân văn và ý nghĩa của sự tồn tại của họ, cũng như xây dựng thế
giới quan thể hiện sự tương tác với các thế lực bên ngồi có ảnh hưởng đến cuộc
sống của họ. Văn hóa hình thành và phản chiếu các giá trị của hạnh phúc và đời
sống kinh tế, xã hội và chính trị của các cá nhân, nhóm người và cộng đồng người”
- (Trích Đoạn 13, Bình luận chung số 21 về quyền tham gia vào đời sống văn hóa
của Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 2009).



Việc “tham gia vào đời sống văn hóa” được hiểu là: i, Tham gia vào đời sống
văn hóa, bao gồm việc lựa chọn và nhận diện bản sắc văn hóa của cá nhân hay
nhóm cá nhân và tham gia vào các thực hành văn hóa để thể hiện bản thân; ii, Tiếp
cận với đời sống văn hóa thông qua một nền giáo dục tôn trọng đầy đủ bản sắc văn
hóa cũng như việc tìm kiếm và truyền bá thơng tin về các nền văn hóa và hưởng lợi
từ các di sản văn hóa; iii, Đóng góp vào đời sống văn hóa qua việc tham gia vào các
sáng tạo và biểu đạt về cảm xúc, trí tuệ và tinh thần cũng như tham gia vào các
chính sách và quyết định có ảnh hưởng đến quyền về văn hóa của mình.


Theo đó, quyền tham gia vào đời sống văn hóa là một quyền tự do, chủ thể
của quyền có thể lựa chọn quyết định thực hành hay không thực hành thực hành
quyền này, trong khi các quốc gia thành viên có nghĩa vụ khơng can thiệp và phải
thúc đẩy việc thực thi quyền này, theo quy định của Bình luận chung số 21, quyền
tham gia vào đời sống văn hóa có tính chất như sau:


<i>- Tính sẵn có: thể hiện ở sự hiện diện của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa </i>
mở cho mọi người thưởng thức và hưởng lợi từ chúng, bao gồm thư viện, bảo tàng,
nhà hát, rạp chiếu phim và sân vận động, thể dục thể thao; Văn học, bao gồm cả văn
hóa dân gian và nghệ thuật dưới mọi hình thức; Khơng gian cơng cộng cần thiết cho
các tương tác văn hóa như cơng viên, quảng trường, đường phố; Cảnh vật tự nhiên
như biển, hồ, sông, núi, rừng và các khu dự trữ sinh quyển cùng các hệ thực vật và
động vật có ở đó thể hiện bản sắc và sự đa dạng sinh học của những khu vực này;
Các sản phẩm văn hóa phi vật thể như ngôn ngữ, phong tục, truyền thống, tín
ngưỡng, kiến thức và lịch sử, cũng như những giá trị tạo nên bản sắc và đóng góp
vào sự đa dạng văn hóa của các cá nhân và cộng đồng.


<i>- Khả năng tiếp cận: bao gồm các cơ hội cụ thể và hiệu quả cho các cá nhân </i>
và cộng đồng để hưởng thụ văn hóa một cách đầy đủ, trong khả năng vật chất và tài
chính cho tất cả mọi người ở cả thành thị và nông thôn mà không có sự phân biệt


đối xử nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

pháp được các quốc gia thành viên thông qua về việc hưởng và thực hiện các quyền
về văn hóa cần được xây dựng và thực hiện với sự thừa nhận của các cá nhân và
cộng đồng có liên quan.


<i>- Tính thích nghi: liên quan đến sự linh hoạt và phù hợp của các chiến lược, </i>
chính sách, chương trình và biện pháp được các quốc gia thành viên thông qua trong
bất kỳ lĩnh vực đời sống văn hóa nào và phải tơn trọng sự đa dạng văn hóa của cá
nhân và cộng đồng.


<i>- Tính phù hợp: đề cập tới việc thực hiện một quyền con người cụ thể một </i>
cách thích hợp và phù hợp với một phương thức hay bối cảnh văn hóa, có nghĩa là
tơn trọng nền văn hóa và các quyền văn hóa của các cá nhân và cộng đồng, bao gồm
các cá nhân hoặc nhóm thiểu số và người bản địa280<sub>. </sub>


<b>Quyền văn hoá của các dân tộc thiểu số trong pháp luật Việt Nam </b>


Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn
hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị
văn hóa” (Điều 41). Nhà nước Việt Nam cũng ban hành nhiều văn bản quy định
pháp luật trong lĩnh vực văn hóa như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, Luật Di
sản văn hóa, Luật xuất bản, Luật Quảng cáo..., tạo lập một hành lang pháp luật rộng
mở, thuận lợi cho các hoạt động về bảo tồn di sản văn hóa, tơn trọng quyền tự do
sáng tạo và tự do hoạt động văn hóa của các tổ chức, cá nhân, bảo vệ quyền tác giả
và các quyền liên quan… Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa quy định rõ trách nhiệm
của các Bộ, ngành, đoàn thể liên quan ở Trung ương và Ủy ban Nhân dân các cấp
trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, mở rộng giao lưu, tuyên truyền,
<b>giới thiệu di sản văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. </b>



Ngoài ra, nhiều Luật và Pháp lệnh khác liên quan đến lĩnh vực văn hóa như
Bộ luật Hình sự sửa đổi; Luật Báo chí sửa đổi; Luật Xuất bản; Luật Bình đẳng giới;
Luật trẻ em, Nghị định số 79/2012/NĐ - CP, ngày 05/10/2012 của Chính phủ
khuyến khích tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; đầu tư cho việc sưu tầm, nghiên cứu, giữ
gìn, phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới.


Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền văn hóa về cơ bản được xây dựng
hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
đồng thời bảo đảm phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam khơng ngừng xây dựng và triển khai
các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh
280<i><sub> Nguyễn Bá Diến, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Mối quan hệ giữa luật Việt Nam và Luật nhân </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thần ngày càng cao của người dân; khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát
triển cho lĩnh vực văn hóa; bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc,
nhất là của các dân tộc thiểu số, trong đó có bảo tồn tiếng nói và chữ viết.


Nước ta là một nước đa dân tộc, các dân tộc ở nước ta sinh sống trong những
vùng có hồn cảnh địa lý tự nhiên không giống nhau. Các dân tộc cộng cư với nhau
trong những vùng khác nhau, môi trường địa lý và môi trường nhân văn khác nhau
đó làm cho các dân tộc trong từng vùng trải qua q trình giao lưu văn hóa lâu đời
có những sắc thái địa phương mà ta không thể không quan tâm, vùng Đơng bắc có
giao lưu văn hóa của các dân tộc người Tày, Nùng, Dao, Việt; Vùng Tây bắc có bản
sắc và giao lưu văn hóa của các dân tộc nói tiếng Thái, Mông, Việt, Mường, Khơ
Me, Mianma…v.v, việc nghiên cứu và giao lưu văn hóa theo từng vùng cho phép ta
tìm hiểu được kỹ càng hơn văn hóa tộc người, từ đó có cách xử lý tốt hơn mối quan
hệ giữa văn hóa và phát triển.281



Trong sự phát triển giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, đối với dân tộc ở vùng
rẻo cao và vùng căn cứ cách mạng trước đây còn gặp nhiều khó khăn, việc bảo tồn
bản sắc đối với của các dân tộc này không dễ dàng. Trải qua thời gian, việc giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc là quá trình đồng hóa dân tộc. Ở nước ta, cơ bản là sự
đồng hóa tự nhiên, đồng hóa ở đây khơng chỉ dân tộc có số dân đơng hơn đồng hóa
một bộ phận dân tộc có số dân ít hơn mà cịn có trường hợp một bộ phận dân tộc đa
số bị dân tộc thiểu số đồng hóa. Ví dụ như cư dân ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An
(Cao Bằng) hiện nay chủ yếu là con cháu của các quan lại họ Lê, nay tiếp thu văn
hóa Tày..v.v. Ở Việt Nam ít nói đến sự đồng hóa dân tộc bằng biện pháp cưỡng
bức. Tuy nhiên, thời kỳ nhà nước đưa ra chủ trương xây dựng “chế độ mới xã hội
chủ nghĩa” với chủ thể là “con người mới xã hội chủ nghĩa” thì nhà nước cũng đồng
thời chủ trương phá bỏ các phong tục tập quán bị cho là “bảo thủ lạc hậu” để “xây
dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, rất nhiều thứ thuộc về văn hóa
truyền thống của dân tộc Tày bị phá bỏ, những người hoạt động tín ngưỡng sẽ bị
loại trừ, những ông Tảo, bà Pửt, Then..v.v, đều bị cho là những kẻ gieo rắc mê tín dị
đoan làm u mê dân chúng, cho nên họ đều bị bắt và đem đi đến các “trại cải tạo” để
học tập, họ phải viết bản kiểm điểm và phải lên tiếng tự phỉ báng những việc họ đã
từng làm, sau đó họ phải viết giấy cam kết là khơng bao giờ hành nghề mê tín nữa,
cịn các sách và dụng cụ hành nghề thì bị mang ra đốt. Việc này khác gì thực hiện
việc đồng hóa toàn diện giữa dân tộc lớn với dân tộc nhỏ một cách hợp pháp.
Những ông Tảo, bà Pửt, Then.. khi hành nghề đều có những cuốn sách, sách đó
khơng phải chỉ có giá trị cúng bái (tín ngưỡng của người Tày), mà sách cịn có giá
trị văn học mang tính nhân văn rất cao, ví dụ như Trường ca “Khảm hải” (Vượt


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

biển) dài 650 câu, được hát ở các đêm Then và Pửt, tác phẩm “Khảm hải” đã được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường, may mắn là các khúc ca này vẫn có nhiều
người lúc đó thuộc nên đã được sưu tầm và ghi chép lại.282


Chủ nghĩa Mác - Lênin lên án hiện tượng đồng hóa cưỡng bức. Đảng và Nhà
nước ta không bao giờ chủ trương một sự đồng hóa như vậy. Tuy nhiên, một số cán


bộ các ngành, các cấp địa phương, do tư tưởng chủ quan nóng vội, cố tình hay vơ
thức đã có một số việc làm trên thực tế là sự cưỡng bức về thực chất. Như ở Tây
Nguyên, để xúc tiến việc giải thể nhà dài, có nơi đề ra chủ trương cấp đất cấp rừng
cho từng hộ gia đình. Ở Thừa Thiên - Huế, có cuộc vận động đồng bào thiểu số bỏ
nhà sàn để ở nhà đất…v.v. Những biện pháp cưỡng bức như vậy cần được loại bỏ,
vì nếu khơng, trong mối quan hệ giữa các dân tộc có lúc phải trả giá.283


Từ thời kỳ đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong xây
dựng hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền con người nói chung, quyền của các dân
tộc thiểu số nói riêng, trong đó có quyền được tham gia vào đời sống văn hóa. Các
quy định của pháp luật Việt Nam là phù hợp và tương thích với Luật Nhân quyền
quốc tế, đồng thời thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước: bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Tuy nhiên, việc
bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện nay vẫn nổi lên những thách
thức như: năng lực thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ, nhất là vùng dân tộc thiểu
số cịn bất cập; Trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân tộc thiểu số còn hạn
chế. Bên cạnh đó, một số thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng tình hình khó
khăn, sự chưa hồn thiện của hệ thống pháp luật vu cáo, vu cáo, xuyên tạc về vấn đề
dân tộc; Tuyên truyền, chia rẽ khối đại đồn kết, gây mát ổn định chính trị xã hội ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy, việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu
số theo tinh thần Hiến Pháp 2013 là vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu lý
luận, xây dựng, thực thi pháp luật ở Việt Nam hiện nay.284


<b>Khái quát về văn hóa và ngơn ngữ của dân tộc Tày </b>


Trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt
Nam sau người Kinh, dân số hiện nay là 1.626.392 (số liệu 2009), người Tày sinh
sống chủ yếu ở vùng miền núi phía bắc Việt Nam. khu vực tập trung nhiều người
Tày là các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Cạn, Yên Bái,
lào Cai, Đắc lắc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hịa Bình, Lâm Đồng..v.v.



Người Tày, Nùng có mối quan hệ gần gũi với người Choang tại Trung Quốc.
Về ngơn ngữ khi giao tiếp có thể hiểu được nhau, chỉ khác về ngữ điệu vùng miền.
282<i><sub> Dương Thuấn, Văn hóa Tày ở Việt nam và tiến trình hội nhập thế giới, nhà xuất bản Tri thức, 2012, tr.299. </sub></i>
283<i><sub> Phan Hữu Dật, Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, tái bản lần </sub></i>


thứ nhất, 2018, tr.234.


284<i><sub> Trịnh Quốc Toản - Vũ Công giao, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Thực hiện các quyền hiến định </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Dân tộc Tày có bản sắc văn hóa rất đặc biệt: Tiếng Tày nằm trong ngữ hệ
Thái - Ka Đai cùng với 7 dân tộc trong nước là Thái, Nùng, Giáy, Bố Y, Sán Chay,
<b>Lào, Lự và các quốc gia Đông Nam Á là Thái Lan, Lào và dân tộc Choang (Quảng </b>
Tây - Trung Quốc). Người Tày có thể nói chuyện, trao đổi thông thường với các
dân tộc này.


<i><b>Về tôn giáo, người Tày không theo tôn giáo nào. Đây là một điểm khác biệt </b></i>
chủ yếu giữa dân tộc Tày với nhiều dân tộc khác, có lẽ do người Tày tin vào việc
thờ cúng tổ tiên và tin vào phong thủy. Một số ít gia nhập Đạo Thiên chúa vì họ di
dân vào phía nam và khi họ sống ở vùng đất Cơng giáo, họ chỉ có suy nghĩ là “nhập
gia tùy tục” để con cái không bị lẻ loi nơi phương xa, hoặc do kết hôn với người
<b>Công giáo nên họ theo Đạo Thiên chúa. </b>


<b>Về chữ viết, trải qua quá trình lịch sử, từ xưa người Tày đã có nền văn học bằng </b>
<b>nhiều thứ chữ khác nhau: chữ Hán, chữ Nôm Tày, chữ Tày la - tinh, chữ Quốc ngữ. </b>


Người Tày có chữ viết riêng là chữ Nơm Tày, đó là loại chữ vuông gốc Hán
giống như chữ Nôm Kinh, chữ Choang (Quảng Tây - Trung Quốc), chữ Hàn Quốc,
chữ Trung Quốc và chữ Nhật Bản.285



So với các dân tộc khác ở Việt Nam, ngôn ngữ và chữ viết Tày phát triển khá
sớm. Hiện nay các văn bản còn lưu giữ được, bao gồm văn bản chữ Hán và chữ
Nôm Tày, được xác định là có từ rất lâu đời, ngồi các tác phẩm văn học được lưu
truyền trong nhân dân, người Tày còn có các pho sách của các thầy mo, thầy tảo
dùng để hành nghề cúng bái, các pho sách dân ca mỗi cuốn dài hàng nghìn câu như:
<i>lượn lương, lượn cọi, lượn nàng ơi, then pửt, hát đám cưới, Phuối rọi…, được dân </i>
gian ghi chép và lưu truyền lại. Tục ngữ ca dao Tày, Truyện cổ dân gian Tày, truyện
thơ Nôm Tày được sưu tầm và phiên âm, biên dịch sang tiếng Việt như: Nam Kinh
Thị Đan, Bjoóc Lạ Lương Quân, Tần Chu, Lý Thế Khanh..v.v, và hàng trăm câu
chuyện khuyết đang chưa được sưu tầm đầy đủ và phiên âm, biên dịch để công bố
với bạn đọc.


Chữ Nôm Tày là một sáng tạo tuyệt vời do các thế hệ người Tày làm nên để
ghi lại tiếng nói, ghi chép các sự kiện về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội, phong tục
tập quán và sáng tác văn học nghệ thuật. Với hàng trăm đầu sách nôm Tày, đơn cử
một số tác phẩm thể hiện khả năng sáng tạo tuyệt vời của dân tộc Tày, đó là:


* Trong tín ngưỡng của người Tày, nổi bật là các bài then cổ, hiện nay bộ
then cổ tại Tuyên Quang còn khá đồ sộ với 81 cung khoảng 1000 trang, gần 20.000
câu thơ thất ngôn, ông Then - bà Then mượn lời ca tiếng đàn dẫn đoàn quân Then
mang lễ vật đến với các đấng siêu nhiên để cầu xin các vị thần linh phù hộ, che chở,
285<i><sub> Tống Đại Hồng, Chữ nôm Tày - kho tàng văn hóa vơ giá đang bị lãng quên, Thực trạng và giải pháp bảo </sub></i>


<i>tồn, phát huy văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), thư viện quốc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

bảo vệ cho cộng đồng tránh khỏi thiên tai, dịch bệnh, cầu mong cuộc sống no đủ,
hạnh phúc. Ngồi ra, Then cịn là loại hình dân ca độc lập được sử dụng trong sinh
hoạt văn hóa văn nghệ cộng đồng, là loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh của người
Tày nói riêng và của người Nùng và Thái nói chung.



Bộ Then cổ là một tài liệu đồ sộ quý giá, thể hiện sự sáng tạo tài tình của dân tộc
Tày. Vì vậy, Then cổ đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và
đang lập hồ sơ để UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.286


* Văn quan làng: Hát quan làng là lối hát đối đáp giữa hai vị trưởng đoàn nhà
trai và nhà gái trong lễ đón dâu của người Tày, trên thế giới có lẽ ít có dân tộc nào
mà tồn bộ nghi lễ đón dâu, từ việc mời nhà trai vào nhà, mời trầu, mời nước, nộp
đồ lễ, xin dâu, xin rể vào lạy tổ tiên, họ hàng, lạy bố mẹ, anh chị, mời cơm, mời
rượu..v.v cho đến khi đoàn đón dâu về đến nhà trai lại giao dâu, nhận rượu, xin dâu
ra cửa..v.v, tát cả thủ tục ấy được vận dụng bởi hàng trăm bài thơ và được hát với
làn điệu dân ca trữ tình, mượt mà, ấm áp, cảm động. Đó được gọi là hát quan làng,
thực là một nghi lễ độc đáo, thể hiện tính nhân văn riêng có của người Tày.


* Người Tày rất yêu thích tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La
Quán Trung (Trung Quốc), do nội dung hấp dẫn nên họ đã chuyển thể toàn bộ
truyện từ văn xuôi thành truyện thơ thất ngôn trường thiên, ghi chép lại bằng chữ
Nôm Tày và đến nay một số cụ già vẫn thuộc làu. Điều này thể hiện sự lao động
công phu và sáng tạo tài hoa của các học giả người Tày đã làm cho tác phẩm của họ
sống mãi trong lòng dân.


Tuy nhiên, hiện nay chữ Nôm Tày đang dần mai một, chỉ có một số ít người
già trên 80 - 90 tuổi hiện nay cịn có thể đọc được chữ này, nhiều địa phương chưa
có chương trình, kế hoạch gì để bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống của các văn bản chữ Nơm Tày, sổ sách sưu tầm từ lâu nằm trong các bảo tàng
của tỉnh gần như bị lãng quên vì khơng ai dịch, khơng có kế hoạch sử dụng nó. Hiện
nay, Viện Hán Nôm đã dịch thuật được 18 tổng tập truyện thơ nôm dân tộc Tày
nhưng rất ít người quan tâm sử dụng, do đó khả năng mai một và thất truyền là rất
lớn. Đây là điều trăn trở của những nhà nghiên cứu về chữ Nôm Tày và những
người con dân tộc Tày, hiện tại tiếng Tày được phiên âm la tinh và vẫn được sử
dụng là ngôn ngữ hàng ngày song song với tiếng Việt (tiếng phổ thông), sử dụng


chủ yếu ở các làng bản trong khu vực các tỉnh biên giới phía bắc, một phần trong
khu vực các tỉnh Tây Nguyên do thời kỳ di dân từ những năm 1954, 1975 người dân
di cư từ các tỉnh biên giới phía bắc vào phía nam, số lượng người Tày ở các tỉnh
phía nam lên đến hàng chục vạn người. Họ vào phía nam dựng nên các bản Tày, các
286<i><sub> Tống Đại Hồng, Chữ nôm Tày - kho tàng văn hóa vơ giá đang bị lãng qn, Thực trạng và giải pháp bảo </sub></i>


<i>tồn, phát huy văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), thư viện quốc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

xã, huyện Tày, họ có cơ ngơi, nhà cửa trên quê hương mới. Ngay từ khi bắt đầu rời
quê cũ ra đi, họ đã có ý thức mang theo văn hóa Tày để hịa nhập với cư dân ở miền
trong. Hiện nay, ở miền nam có thể tìm hiểu văn hóa Tày ở một số tỉnh và thành
phố như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông,
Kon Tum, Khánh Hòa..v.v.


Ngay từ thời Pháp thuộc, người Pháp cũng đã có chính sách giáo dục của họ,
từ những năm 1889 của thế kỷ XIX, dưới thời thuộc Pháp, một số trường học đã
được tổ chức ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và một vài địa phương như Đồng
Đăng, Na Sầm, Thất Khê..v.v, mục đích của người Pháp là để “truyền bá tiếng nói
và chữ viết của người Pháp (kể cả chữ Quốc Ngữ) cho người Thổ để trong một thời
gian khơng dài lắm họ có thể theo học được những trường miền xuôi”.287


Từ năm 1900 đến 1926, người Pháp đã hai lần tiến hành cải cách giáo dục
(năm 1906 và 1917), nhưng cả hai lần cải cách đều không tác động mấy đến vùng
dân tộc ít người. Phải đến năm 1927, khi có chủ trương của tồn quyền Merlin thì
những trường học miền núi Bắc, Trung, Nam Kỳ mới có chuyển biến rõ rệt. Nha
Học chính Đông Pháp đề ra phương châm là cố gắng sao cho mỗi dân tộc đều học
bằng tiếng mẹ của mình. Tuy nhiên, chủ trương này đã tỏ ra rất khó thực hiện vì
miền núi nước ta, nhất là Bắc Kỳ có nhiều dân tộc ngơn ngữ không giống nhau,
sống phân tán, do đó người ta phải điều chỉnh lại bằng một nguyên tắc chung là: lấy
ngôn ngữ của dân tộc đơng nhất làm ngơn ngữ chung cho một vùng, cịn nếu phân


tán quá thì dùng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp.


Việc đào tạo giáo viên cũng được tiến hành bằng nhiều biện pháp, ngoài việc
chọn những người địa phương có trình độ cao dạy cho các lớp thấp hơn (tốt nghiệp
tiểu học Pháp - Việt dạy các lớp sơ học), trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội đã tổ
chức một Ban sư phạm miền núi cung cấp giáo viên cho các tỉnh ở biên giới. Đến
kỳ nghỉ hè, giáo viên sơ học được về tỉnh lỵ để bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và
chuyên môn. Tuy nhiên, số giáo viên này cũng chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu
(20/40). Nha Học chính cũng cho dịch cuốn tập đọc lớp Đồng Ấu ra hai thứ tiếng là
tiếng Tày và tiếng Pháp và giữ nguyên phần tiếng Việt để làm sách giáo khoa trong
các trường sơ học, còn các mơn khác thì phải học chung với chương trình miền
xuôi. Theo thống kê, dân tộc thiểu số Bắc Kỳ là 450.000 người thì số dân đi học chỉ
chiếm 0,028%, số học sinh còn phụ thuộc vào điều kiện địa lý, những vùng sâu,
vùng xa bao giờ cũng ít hơn vùng thấp.


Từ năm 1933 - 1945 bậc tiểu học được giao lại cho triều đình Huế quản lý,
tuy vậy Nha Học chính Đơng Pháp vẫn là tổ chức bao trùm. Giai đoạn này, sách
giáo khoa bậc sơ học Pháp - Việt miền núi đã được biên soạn bằng chữ Tày về các
287<i><sub> Phan Trọng Báu, Giáo dục vùng dân tộc ít người ở Việt Nam thời thuộc Pháp, Nghiên cứu lịch sử, Thư </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

môn tiếng Tày, Luân lý, Cách trí, Vệ sinh..v.v, tiếng địa phương cũng được chú
trọng ở ba lớp dưới, đồng thời tiếng Pháp càng lên các lớp trên càng được mở rộng
và nâng cao. Tuy có cải tiến như vậy, nhưng sách giáo khoa biên soạn bằng tiếng
địa phương cũng chỉ dừng lại ở bậc sơ học còn muốn học lên các lớp trên thì học
sinh vẫn phải theo các chương trình chung của miền xi, nghĩa là hầu như bằng
tiếng Pháp.


Từ năm học 1940 - 1941 số học sinh miền núi Bắc Kỳ tăng khá nhanh, số
trường học là 468, số học sinh là 25.861, tăng nhiều nhất là Tày và Thái: Tày -
11.449, Thái: -11.228..v.v.



Người Pháp trong khi chỉ đạo và điều hành giáo dục vùng dân tộc ít người đã
<i>tùy theo từng địa phương mà có chính sách phù hợp. Ở vùng núi phía bắc, các dân </i>
<i>tộc Tày Nùng mặc dù đã có chữ viết từ lâu đời nhưng loại chữ này khơng dùng </i>
<i>hồn tồn mà phiên âm theo mẫu tự la tinh để dễ viết và dễ đọc hơn.</i>288


Chữ viết và văn học người Tày đã được các học giả người Pháp tìm hiểu và
nghiên cứu từ sớm, sau đó người Pháp đã la - tinh hóa chữ viết Tày. Chữ Tày la –
tinh đễ đọc đễ viết, dễ phổ cập hơn hẳn chữ Nôm Tày nên dễ dàng trở thành chữ
viết chính thức. Đầu thế kỷ XX đã có các cơng trình của các học giả Pháp được
<i>công bố như: P. Silve với cuốn Grammaire Thổ (Ngữ pháp tiếng Thổ - Thổ là tên </i>
<i>gọi trước đây của người Tày), Hà Nội, 1906; F.M Savina với cuốn Dictionnaire Tay </i>
<i>Annammite Francais (Từ điển Tày - An Nam - Pháp), Hà Nội, 1910; Ediguet với </i>
<i>cuốn Etude de langue Thổ (Nghiên cứu ngôn ngữ Thổ), Pari, 1910; R.Darnault với </i>
<i>cuốn Cours de dialecte Thổ (Giáo trình tiếng Thổ), Hà Nội, 1939..v.v, năm 1937, </i>
Ơng Coedès, giám đốc trường Viễn Đơng Bác Cổ đã cho sưu tập các tác phẩm văn
học dân gian người Tày và lưu trữ tại trường.289


Sau Cách mạng tháng Tám trở đi, với chủ trương của Đảng và Nhà nước
“đưa miền núi tiến kịp miền xi” thì mong muốn về một nền giáo dục phù hợp với
các dân tộc ít người mới từng bước trở thành hiện thực.


Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, đặc biệt là việc tăng cường dạy và học tiếng dân tộc thiểu số trong
trường học. Ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà nước, Hiến pháp 1946 đã quy
định việc học tiếng thiểu số là một quyền của người dân tộc thiểu số (DTTS): “Ở các
trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình”
(Điều thứ 15). Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó, Nhà nước ta đã ban hành một
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản dưới luật quy định cụ thể và chi tiết
288<i><sub> Phan Trọng Báu, Giáo dục vùng dân tộc ít người ở Việt Nam thời thuộc Pháp, Nghiên cứu lịch sử, Thư </sub></i>



viện quốc gia Việt nam, 2005. - Số 7. Tr.25 - 27; (ĐKCB: DV0015).


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>về việc dạy và học tiếng thiểu số. Nhờ vậy, một số DTTS có tiếng nói, chữ viết đã </b>
<b>được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông, mang lại hiệu quả giáo dục to lớn </b>
đồng thời góp phần giữ gìn và phát huy giá trị ngơn ngữ, văn hóa các DTTS.


Dạy tiếng thiểu số trong trường phổ thông ở Miền Bắc được thực hiện từ
những năm 1960 của thế kỷ XX, bắt đầu là từ tiếng Hmông (Mèo), Tày Nùng, Thái
và đã có những thời kỳ được đẩy mạnh thành phong trào phát triển rầm rộ và đã thu
được những kết quả to lớn cả trong giáo dục phổ thơng và xóa mù chữ ở vùng DTTS.
Từ đó đến nay, nhiều địa phương vẫn duy trì việc dạy tiếng thiểu số, đã có hàng vạn
<b>người DTTS mỗi năm được hưởng quyền lợi học tập từ các chính sách này. </b>


Sau khi chữ Quốc ngữ được sử dụng một cách phổ biến, nhất là từ khi hệ
<i>thống chữ Tày được La tinh hoá, và “Phương án chữ Tày Nùng” được chính thức </i>
cơng bố và sử dụng năm 1961, thì phạm vi sử dụng tiếng Tày trong đời sống xã hội
càng trở nên quan trọng. Sách báo được viết bằng tiếng Tày thuộc nhiều thể loại
khác nhau trong nhiều lĩnh vực được xuất bản ngày càng nhiều trong khu vực Đơng
Bắc nói riêng và tồn quốc nói chung.


Năm 1956, thành lập Khu tự trị Việt Bắc thì tiếng Tày trở thành ngơn ngữ
chính thức của khu, tiếng Tày được đưa vào đài phát thanh và được giảng dạy trong
nhà trường. Nhưng đến năm 1975, sau khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất
nước thì Trung ương đã ra quyết định giải thể các khu tự trị trong cả nước, đồng
thời xóa bỏ tất cả các thiết chế cơ sở văn hóa của người Tày. Cũng từ đó, tiếng Tày
được phát thanh với thời lượng ít ỏi trên các đài phát thanh của tỉnh, một số trang
báo văn nghệ của các tỉnh thỉnh thoảng in vài trang sáng tác tiếng Tày. Mặc dù có
nhiều ý kiến đề nghị khơi phục lại đài phát thanh, nhà xuất bản và một số tờ báo
dành riêng cho tiếng Tày nhưng đều không được nhà nước chấp thuận. Các tác giả


văn học Tày sáng tác bằng tiếng Tày sau năm 1975 khơng có nơi để in ấn nên họ
chủ yếu sáng tác bằng tiếng Việt. Người Tày có thói quen coi tiếng Việt là ngơn
ngữ học thuật, cịn ngơn ngữ nghệ thuật phải là tiếng Tày, vì họ được ni dưỡng
lớn lên bằng các bài hát, lời ru… tiếng Tày. Quan niệm này tuy hơi khiên cưỡng,
<b>nhưng xét ở góc độ nguồn gốc sâu xa thì cũng có phần đúng, tuy nhiên đối với văn </b>
hóa viết, khi tâm hồn, tình cảm của người viết cịn đậm chất dân tộc thì dù sáng tác
bằng ngôn ngữ nào, bản sắc dân tộc cũng vẫn được thể hiện ra đậm nét, đó là bản
sắc riêng có trong sáng tác của tác giả. Đó cũng chính là sự phân biệt tác giả dân tộc
thiểu số sáng tác bằng tiếng phổ thông với tác giả người kinh sáng tác về đề tài dân
tộc, làm phong phú thêm văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam.


Nhưng rất tiếc, trong khoảng hơn sáu thập kỷ trở lại đây, ngôn ngữ và văn
hóa người Tày đã khơng được nghiên cứu như thời thuộc Pháp. Việc xao nhãng này
không chỉ thiệt thòi cho riêng người Tày mà còn thiệt cho cả ngành khoa học xã hội
nói chung.290


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ngôn ngữ của người Tày rất giàu và đẹp, điều đó đã khiến cho lời ăn tiếng
nói của người Tày trở nên hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh tế và khái quát. Với
số đơn vị ngữ âm phong phú đã tạo ra các từ ngữ diễn đạt mọi khía cạnh của đời
sống vật chất và tinh thần bên cạnh vốn từ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt.
Bởi thế, tiếng Tày đã trở thành phương tiện lưu truyền một kho tàng văn học dân
gian phong phú bao gồm: truyện cổ tích, thần thoại và vốn thi ca cổ truyền gồm:
dân ca trữ tình, thơ ca đám cưới, hát ru, văn cúng bái, văn than... không biết được
sáng tác từ bao giờ. Nội dung chủ yếu của những câu chuyện đó nhằm giải thích vũ
trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân tộc, nêu lên lịng chính nghĩa, ghét
gian tà, tinh thần đấu tranh chống lực lượng siêu nhiên thần kỳ, chống cường quyền
ác bá, đấu tranh để giữ trọn vẹn mối tình chung thuỷ lứa đôi, bạn bè, đấu tranh
chống ngoại xâm, truyền thống đồn kết dân tộc…Ta có thể tìm thấy vơ vàn dẫn
chứng nói lên điều đó. Ví dụ như nói về tình cảm giữa con người với con người,
<i>đồng bào dân tộc Tày thường truyền nhau câu: "Lảc mạy tẩn, lạc gần rì" (Rễ cây </i>


<i>ngắn, rễ người dài). Hay ca ngợi giá trị của con người quý hơn mọi giá trị tiền bạc </i>
<i>được các thế hệ ông cha đúc kết lại: "Ngần chèn tang tôm nhả/Tha nả tảy xiên </i>
<i>kim" (Tiền bạc như đất cỏ/Danh dự tựa ngàn vàng)291<b><sub>. </sub></b></i>


Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho Chính phủ trong việc ban hành các
chính sách về dạy và học TDT, như: Quyết định số 53/CP ngày 22/02/1980 của Hội
đồng Bộ trưởng về chủ trương đối với chữ viết của các DTTS; Nghị định số
82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ
viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên.


Hiện nay việc giảng dạy tiếng Tày trong nhà trường chưa được thực hiện, mà
chỉ giảng dạy các khóa ngắn hạn để cấp chứng chỉ. Theo Thông tư số:
36/2012/TT-BGDĐT của Bộ giáo dục & Đào tạo ban hành Quy định về tổ chức dạy học, kiểm
tra và cấp chứng chỉ tiếng dân tộc thiểu số, ngày 24 tháng 10 năm 2012, thì việc
giảng dạy chủ yếu là dành cho các cán bộ, công chức làm việc tại các tỉnh biên giới
phía bắc để lấy chứng chỉ với các khóa học ngắn hạn do Trung tâm giáo dục thường
xuyên các tỉnh phụ trách, ở nơi tập trung nhiều người dân tộc sinh sống như các tỉnh
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Tuyên Quang..v.v.


Nói đến văn hố Tày thì có rất nhiều điều phải làm. Về văn hóa Tày nói
chung, đặc biệt là ngơn ngữ Tày, càng ngày càng nhận được ít hơn sự quan tâm của
nhà nước và chính phủ. Đài tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam từ
nhiều năm nay đã có kênh riêng cho các tiếng Ê đê, Ba Na, Chăm, K’ho, Mông,
Dao, Thái, Khơ - me.., nhưng khơng có phát thanh tiếng dân tộc Tày.292


291<i><sub> Triệu Thị Kiều Dung, Nét đẹp trong ngôn ngữ dân tộc Tày, , Sở Khoa học và </sub></i>
công nghệ Cao Bằng, truy cập ngày 19/6/2019.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Xét trên phương diện lí thuyết, pháp lí cũng như mục đích thực tế thì tất cả
các ngơn ngữ dân tộc thiểu số đều có thể và cần được phát sóng trên phát thanh


truyền hình, vì:


* Tất cả các dân tộc, các ngơn ngữ đều bình đẳng.


* Phát thanh truyền hình bằng ngôn ngữ là một trong hai cách làm (cùng với
giáo dục ngôn ngữ) hiệu quả nhất để bảo tồn và phát huy các ngôn ngữ dân tộc thiểu
số. Thậm chí, xét ở một góc độ nào đó (về tính nhân văn, về nhu cầu bảo tồn sự đa
dạng sinh thái về ngơn ngữ, văn hóa, tri thức bản địa,…), chúng ta thấy rằng chính
những ngơn ngữ yếu, có số lượng người nói ít, dễ bị mai một, tiêu vong (ví dụ như
tiếng Si La, Pu Péo, Ơ Đu) lại là những ngôn ngữ cần được hỗ trợ phát triển qua con
đường truyền thông và giáo dục nhất. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau, cơ hội
được lựa chọn để phát sóng khơng thể đến được với những ngơn ngữ này nói riêng
và đến được với tất cả các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, chúng
ta buộc phải lựa chọn một số ngôn ngữ nhất định để phát sóng.


Có một nền văn hóa tốt thì mới có các tập tục, lễ nghi, gia đình, xã hội mới
có thứ bậc và tơn ti, trật tự. Hiện tại, nhà nước chưa có chính sách cụ thể để phát
triển văn hóa riêng cho từng dân tộc thiểu số cũng như phát triển riêng cho văn hóa
Tày. Nhà nước chỉ có chính sách phát triển văn hóa chung cho cả nước, bước đầu đã
có sự thay đổi, đó là cho các tín ngưỡng tự do phát triển, các thầy pửt, then.. đã
được hành nghề tự do; Khôi phục lại một số lễ hội do Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch
tổ chức đã được khởi xướng ở một số địa phương..v.v, mấy năm qua, Bộ Văn hóa
Thể thao Du lịch đã tổ chức một số chương trình lễ hội văn hóa các dân tộc ở trung
tâm triển lãm vân Hồ, Hà Nội, làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam ở Đồng
Mô và các lễ hội dân tộc thiểu số ở từng khu vực.


<b>Phương hướng bảo tồn, giữ gìn chữ viết của người Tày </b>


Trong xã hội hiện đại, với làn sóng hội nhập tồn cầu và cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, việc bảo tồn, giữ gìn chữ viết và văn hóa của một dân tộc phải


được thực hiện trong mối liên kết theo năm phương hướng sau:


1. Bảo tồn và phát huy trong mơi trường sinh hoạt văn hóa của nhân dân
Tồn bộ kho tàng khổng lồ văn hóa dân tộc thiểu số đều là vốn sống trong
môi trường cộng đồng dân chúng, sinh thành, được nuôi dưỡng và phát triển trong
môi trường này, phục vụ cuộc sống vật chất và tinh thần (sản xuất, thờ cúng, sinh
đẻ, cưới xin, tang ma..v.v.) của cộng đồng. Vì vậy, muốn bảo tồn và phát huy văn
hóa dân gian, trước hết phải trả nó về cộng đồng cơng chúng để họ giữ gìn và phát
triển nó trong mơi trường gốc.


2. Bảo tồn và phát huy trong môi trường kỹ thuật hiện đại


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thiểu số là kỹ thuật truyền thơng hiện đại với các máy móc thiết bị như vô tuyến, radio,
băng đĩa, máy vi tính, máy ghi âm, truyền thơng bằng kỹ thuật số..v.v, đây là những
thành tựu của trí tuệ tài năng của nhân loại, có hiệu lực đặc biệt trong đời sống. Chúng
ta cần tận dụng các thành tựu của khoa học - kỹ thuật này để chuyển tải các giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số, làm cho chúng có sức hấp dẫn, lan tỏa mạnh mẽ hơn.


3. Bảo tồn và phát huy, kết hợp với sưu tầm, lưu trữ


Văn hóa dân tộc thiểu số truyền thống vốn chủ yếu được ghi trong trí óc của
nhân dân và nghệ nhân, được lưu truyền và trao lại qua các thế hệ bằng miệng, bằng
tay, phương thức đó là bắt buộc, cần thiết và cũng có lợi thế riêng mà máy móc
khơng đạt được. Tuy nhiên, vẫn có mặt bất lợi, đó là:


- Sau những lần truyền đạt bằng cách này hay cách khác sẽ có sự sai lệch đi
ít nhiều so với bản chất ban đầu (tam sao thất bản).


- Người già qua đời mang theo cả kho báu xuống mồ, người trẻ luôn có xu
hướng tiếp cận cái mới, cái bên ngồi hơn là giữ gìn vốn cổ của ơng bà, do đó dễ


quên những giá trị vốn quý hiện có của dân tộc mình.


Vì vậy, phải khẩn trương sưu tầm, văn bản hóa, số hóa. Ví dụ như chương
trình sử thi Tây Nguyên do Nhà nước đầu tư, từ năm 2002 đã sưu tầm được khoảng
200 tác phẩm sử thi và đã xuất bản được 100 tác phẩm. Đây là những thắng lợi bất
ngờ, là một bài học rất quý, nghĩa là nếu chọn được đối tượng và địa bàn thích hợp
và làm việc cơng phu, khoa học thì có khả năng tìm ra những kho báu lớn.


Đối với chữ nôm Tày: Chữ nôm Tày là chữ viết riêng của người Tày ở Việt
Nam, không giống bất kỳ chữ viết của tộc người nào trên thế giới, vì vậy cần phải
được mã hóa vào trong bộ mã quốc tế chung, chữ nơm Tày phải được đề nghị là di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Mặt khác, thực hiện tin học hóa chữ nơm Tày
là một việc làm quan trọng, tiến hành chuẩn hóa hình chữ nơm Tày, tạo dựng bộ
phông chữ và bộ gõ chữ nơm Tày trên máy tính, chỉ có như vậy mới có thể đưa
được các tác phẩm văn học Tày lên mạng internet thì mới có nhiều người biết đến
tiếng Tày, phục vụ mục đích khai thác sử dụng và giữ gìn bản sắc văn hóa của
người Tày.293


4. Bảo tồn và phát huy kết hợp với bồi dưỡng đào tạo


Văn hóa dân tộc thiểu số là do con người làm nên, tồn tại vì con người. Vậy
phải chủ động tìm mọi biện pháp trao nó lại cho các thế hệ, đặc biệt là các thế hệ
trẻ. Bên các biện pháp dân gian truyền thống cần phải tổ chức các trường lớp riêng
hoặc đưa vào giảng dạy ở các trường lớp từ tiểu học, trung học, đại học và chuyên


293<i><sub> Tống Đại Hồng, chữ nôm Tày - kho tàng văn hóa vơ giá đang bị lãng quên, Thực trạng và giải pháp bảo </sub></i>


<i>tồn, phát huy văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), thư viện quốc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

nghiệp..v.v, tất nhiên trình độ cao thấp, khối lượng nhiều ít, sẽ phụ thuộc vào mục


tiêu đào tạo của các cấp học.


Ngành giáo dục phải xây dựng chương trình, sách giáo khoa và phương pháp
dạy học phù hợp với đối tượng học của từng dân tộc, từng vùng trên cơ sở hai ngôn
ngữ (ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ phổ thông)294<sub>. </sub>


5. Bảo tồn và phát huy các giá trị nội tại, đồng thời tiếp thu học tập những
<b>tiến bộ của nước ngoài. </b>


<b>Thay lời kết: </b>


Bảo tồn và phát huy bản sắc riêng của địa phương và tộc người ngay trong
chính cuộc sống của nhân dân các dân tộc. Một khi người dân nhận thức được ý
nghĩa to lớn của việc bảo tồn giá trị cổ truyền thì họ sẽ là người thực hiện tốt nhất.


Muốn giải quyết tốt giữa văn hóa và phát triển, cần phải có đường lối, chính
sách, chủ trương đúng và phải có một loạt các biện pháp đồng bộ, liên hồn, trong
đó chú ý:


+ Sưu tầm, nghiên cứu và tìm hiểu các giá trị văn hóa quý báu của từng dân
tộc và vùng dân tộc.


+ Phổ biến các giá trị văn hóa để mọi người cùng hiểu biết, đưa văn hóa các
dân tộc vào chương trình giáo dục và đào tạo quốc gia, nghĩa là vào học đường.


+ Xây dựng nơi lưu trữ, bảo tàng, trưng bày, biểu diễn các nét hay nét đẹp
của truyền thống văn hóa dân tộc và địa phương. Tổ chức ngày hội văn hóa dân tộc
và vùng.


+ Xây dựng và phát triển chữ viết, ngơn ngữ dân tộc, coi đó là phương tiện


để duy trì, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc.


+ Đặc biệt quan trọng là đưa văn hóa vào chương trình kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, coi văn hóa như mục tiêu và động lực của sự phát triển, cũng như
văn hóa là môi trường của sự phát triển.


+ Xem đầu tư cho văn hóa như là đầu tư cho con người, đầu tư cho sự phát
triển, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước.


+ Quý trọng, bảo vệ, phát huy vai trò cá nhân của các nhà văn hóa dân tộc và
địa phương, đào tạo và bồi dưỡng những nhân tố, những người tiêu biểu cho sự kế
thừa, và phát triển văn hóa các dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Việt lập nên nước Âu Lạc xưng ngôi là An Dương Vương (cai trị 50 năm từ 257
đến 208 trước công nguyên và xây dựng kinh đô đầu tiên là thành Cổ Loa (nay là
huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).295


Việt Bắc là địa bàn sinh sống chủ yếu của người Tày. Trong hai kháng chiến
chống Pháp, Mỹ, Việt bắc trở thành căn cứ địa cách mạng, Việt Bắc còn được gọi
tên là thủ đơ gió ngàn, con em người dân tộc Tày trở thành lực lượng đầu quân cho
cách mạng, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam được thành lập tại Cao Bằng, với 34 chiến sĩ đầu tiên, trong đó
có 31 người là người dân tộc thiểu số. Đến thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, Việt Bắc
lại trở thành căn cứ địa cách mạng, là nơi sơ tán không chỉ của các cơ quan, trường
học của trung ương và Hà Nội, mà còn là nơi sơ tán của nhiều người dân cho đến
<b>khi kết thúc cuộc chiến. </b>


Trải dài trên 17 vĩ độ, dải đất hình chữ S Việt Nam có sự đa dạng với các
vùng lãnh thổ khác nhau về văn hóa, tơn giáo, tín ngưỡng, khí hậu, thổ nhưỡng. Mỗi
dân tộc đều mang trên mình những nét văn hóa riêng có, từ đó tạo ra một đất nước


Việt Nam với nền văn hóa phong phú và đa dạng. Trong quá trình hội nhập và phát
triển, cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, lòng
yêu nước và lòng tự hào dân tộc, có ý thức giữ gìn và bảo vệ nét văn hóa truyền
thống của cộng đồng tộc người, giữ gìn và phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. 54 dân tộc anh em sinh sống trên dải đất hình chữ S ln cùng nhau
gắn bó, đồn kết để xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày càng vững mạnh.


<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


1. <i>Nguyễn Bá Diến, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Mối quan hệ giữa </i>
<i>luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế, nhà xuất bản Tư pháp, 2015. </i>
2. <i>Trịnh Quốc Toản - Vũ Công giao, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Thực </i>


<i>hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013, nhà xuất bản Lý luận </i>
chính trị, 2017.


3. <i>Phan Hữu Dật, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Một số vấn đề </i>
<i>về dân tộc học Việt Nam, tái bản lần thứ nhất, nhà xuất bản Đại học quốc gia </i>
Hà Nội, 2018.


4. <i>Dương Thuấn, Văn hóa Tày ở Việt Nam và tiến trình hội nhập thế giới, nhà </i>
<b>xuất bản Tri thức, 2012. </b>


5. <i>Hà Thị Khiết, Thực trạng và giải pháp công tác phát triển giáo dục ở vùng </i>
<i>dân tộc thiểu số hiện nay. Nguồn:, Mặt trận, cơ quan </i>
của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, ngày 28/9/2018, truy cập ngày
<i>19/6/2019. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

6. <i>Nhiều tác giả (2017), Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy văn hóa cổ </i>
<i>truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), thư viện </i>


quốc gia Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.


7. <i>Triệu Thị Kiều Dung, Nét đẹp trong ngôn ngữ dân tộc Tày, , </i>
Sở Khoa học và công nghệ Cao Bằng, truy cập ngày 19/6/2019.


8. Phan Trọng Báu, Giáo dục vùng dân tộc ít người ở Việt Nam thời thuộc Pháp,
<i>Nghiên cứu lịch sử, Thư viện quốc gia Việt nam, 2005. - Số 7. Tr.24 - 31; </i>
(ĐKCB: DV0015)


</div>

<!--links-->
Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.docx
  • 38
  • 1
  • 3
  • ×