Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Luận văn thạc sĩ nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG

NGHÜA Vụ CHứNG MINH
TRONG PHáP LUậT Tố TụNG DÂN Sự VIệT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG

NGHÜA Vụ CHứNG MINH
TRONG PHáP LUậT Tố TụNG DÂN Sự VIệT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Đinh Hƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .......................... 9
1.1.

Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam ........................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................... 9
1.1.2.

Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ....... 13


1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ........ 16
1.1.4. Các cấp độ chứng minh ...................................................................... 18
1.1.5. Sự cần thiết của việc thực hiện hoạt động chứng minh trong pháp
luật tố tụng dân sự .............................................................................. 20
1.1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự ..................................................................................... 30
1.2.

Lịch sử hình thành và phát triển nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự ................................................................................... 32

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 .................................................................. 32
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 ............................................................... 35
1.2.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004 ............................................................... 36
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ...... 39
1.2.5. Pháp luật Việt Nam hiện nay ............................................................. 41
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 43


CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM........ 44
2.1.

Chủ thể và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể ..... 44

2.1.1. Đương sự ............................................................................................ 44
2.1.2. Người đại diện của đương sự ............................................................. 50
2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự..................... 54
2.1.4. Tòa án nhân dân ................................................................................. 56

2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân ...................................................................... 57
2.1.6. Những người tham gia tố tụng khác................................................... 58
2.2.

Hoạt động chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................ 60

2.2.1. Bản chất và khái niệm của hoạt động chứng minh ............................ 60
2.2.2. Đối tượng chứng minh ....................................................................... 61
2.2.3. Những tình tiết, sự kiện khơng cần phải chứng minh ........................ 61
2.2.4. Phạm vi chứng minh .......................................................................... 61
2.3.

Nội dung chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ................. 62

2.3.1. Cung cấp chứng cứ ............................................................................. 62
2.3.2. Thu thập chứng cứ .............................................................................. 63
2.3.3. Nghiên cứu chứng cứ ......................................................................... 65
2.3.4. Đánh giá chứng cứ ............................................................................. 65
2.4.

Quá trình chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................ 66

2.4.1. Nội dung chứng minh ......................................................................... 66
2.4.2. Phương pháp thực hiện nghĩa vụ chứng minh ................................... 66
2.5.

Xu hƣớng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay .................................................. 67


2.5.1. Khuynh hướng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh từ Tòa án sang
đương sự ............................................................................................. 67


2.5.2. Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự phản
đối đó .................................................................................................. 68
2.5.3. Đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ................................. 69
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 74
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA
VỤ CHỨNG MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM ................................................................................................... 75
3.1.

Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam ...................................................................... 75

3.1.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về
nghĩa vụ chứng minh .......................................................................... 75
3.1.2. Nghĩa vụ chứng minh từ thực tiễn hoạt động xét xử ......................... 77
3.1.3. Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể .......................................................................... 78
3.1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự .................................................................. 80
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.................................... 81


3.2.1. Kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật ............................ 81
3.2.2.

Kiến nghị liên quan đến việc xác định nguồn chứng cứ để đương sự
có căn cứ thực hiện nghĩa vụ chứng minh .......................................... 83

3.2.3. Các kiến nghị liên quan khác ............................................................. 85
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các vấn đề về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) được quy định tương đối rõ
ràng, đầy đủ và khoa học. Theo các quy định của BLTTDS 2015 và các văn
bản hướng dẫn thi hành thì các phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét trong quá trình tố tụng. Đồng
thời, từ kết quả của việc trình bày và hỏi tại phiên tồ, Tịa án cịn phải xem
xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên nếu có
tham gia phiên tòa.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong những năm gần
đây cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy, bị sửa hay án phải giải quyết qua nhiều cấp
xét xử vẫn còn khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này một phần cơ bản
xuất phát từ việc chưa có sự hiểu biết đúng đắn, chưa quan tâm toàn diện về
vấn đề chứng minh cũng như nghĩa vụ chứng minh của các đương sự và của
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như cịn tình trạng đánh giá và sử dụng
chứng cứ khơng có giá trị chứng minh.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khóa

XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập số 19/NQ/TW ngày
25/10/2017 đã đề ra mục tiêu “Giai đoạn đến năm 2025 và 2030 Hoàn thiện
đầy đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hóa các chủ trương của
Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động của
đơn vị sự nghiệp công lập”[1]. Theo đó, tại Kết luận của Bộ chính trị số 92KL/TW ngày 12/3/2014 của Ban chấp hành Trung ương về việc tiếp tục thực

1


hiện Nghị quyết số 49-NQ-TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu:
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ; đã sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi
hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp theo đúng chủ
trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp. Tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn và xác
định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ... việc tranh tụng tại phiên tòa
bước đầu đạt được một số kết quả tích cực… đã chuẩn hóa trình độ
đội ngũ cán bộ; quy định rõ hơn cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các
chức danh tư pháp; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp từng
bước được cải thiện [35, tr.770 - 771].
Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm, chú trọng tới
việc hồn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, việc hồn thiện các văn bản
pháp luật về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh để làm rõ bản chất của vụ
án trong tố tụng dân sự được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm cùng với
sự hoàn thiện hệ thống pháp luật chung.
Từ đó, có thể thấy rằng, việc đánh giá đúng tầm quan trọng của việc
chứng minh và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong quá trình thụ lý,

xét xử các vụ án dân sự là rất quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về
nghĩa vụ chứng minh mang lại giá trị không những về mặt lý luận khoa học
mà còn cả về mặt thực tiễn xét xử. Đây cũng chính là lý do tác giả luận văn
xin lựa chọn đề tài: “Nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghĩa vụ chứng minh là một vấn đề quan trọng trong tố tụng dân sự.

2


Chính vì vậy, liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
đề cập nhưng ở những khía cạnh khác nhau. Trong đó, qua tìm hiểu, các cơng
trình nghiên cứu điển hình có đề cập đến nghĩa vụ chứng minh như:
Đề tài khoa học, tác giả Hà Thị Mai Hiên “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ của
Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2008 - 2009;
Các cơng trình nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thì
tiêu biểu có luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Minh Hằng “Chế định chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2007; luận văn thạc sĩ của Vũ Văn Đồng “Chứng cứ và vấn đề chứng
minh trong Bộ luật tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2007; luận văn thạc sĩ của Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Hương “Hoạt động thu thập
chứng cứ của tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Quàng Hồng Nết “Cung cấp chứng cứ

trong tố tụng dân sự - Thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015; luận văn thạc sĩ của Đặng Minh
Chiến “Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự” bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị
Thanh Nga “Nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Ngũ Thị Như Hoa
“Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà

3


Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo
vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Quang Anh “Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt
Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;
luận văn thạc sĩ của Đinh Ngọc Hoa với chủ đề “Nguồn chứng cứ theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2019. v.v..
Về giáo trình, sách tham khảo có một phần nội dung liên quan đến
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự như: “Giáo trình Luật tố tụng dân
sự” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm
2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm
2014; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật
Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2016; sách tham
khảo “Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh” của tác giả Tống
Công Cường do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản năm 2007; sách tham khảo “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự

sửa đổi” chủ biên Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn và Đặng Thanh Hoa
do Nhà xuất bản Lao động –Xã hội xuất bản năm 2012; sách tham khảo
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” chủ biên tác giả Bùi
Thị Huyền do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2016 v.v...
Về các bài viết đăng tải trên các tạp chí có tác giả Duy Kiên “Đánh giá
tồn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự việc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số 1/2000 tr.21 - 22, 34; tác giả Nguyễn Thế Giai “Xác định địa vị tố tụng của
đương sự và đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 9/2000, tr.29 – 32; tác giả Bùi Thị Huyền “Thời hạn cung cấp

4


chứng cứ của đương sự”, Tạp chí Luật học, số 1/2002, tr.36 – 39; tác giả
Hoàng Ngọc Thỉnh với bài viết: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự”, Tạp chí Luật học, số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, tháng
4/2004, tr.65 - 69; tác giả Nguyễn Minh Hằng “Tập quán nguồn luật hay
nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9/2004, tr.20 - 22; tác giả
Tưởng Duy Lượng “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh
được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
20/2004, tr.9 - 13; tác giả Dương Quốc Thành “Chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2004, tr. 21 - 28; tác giả
Tưởng Duy Lượng “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật, số 10 tháng 01/2005;
tác giả Phan Thanh Tùng “Bàn về Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá
tài sản”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 20/2012, tr.22 - 25; tác giả Đỗ văn
Chỉnh “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tạp chí Tịa án nhân dân số
14/2015, tr.24 - 30; tác giả Nguyễn Vinh Hưng “Các tình tiết sự kiện khơng
phải chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát
số 04/2016 và bài viết “Nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 20/2018, tr.3 - 8, v.v...
Về cơ bản, có thể thấy rằng, những cơng trình nghiên cứu trên tiếp cận
nhìn nhận ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến một số vấn đề về chứng
minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy vậy, các cơng trình
nghiên cứu đó mới chỉ nhìn nhận ở những vấn đề chung tập trung hầu hết ở
góc độ chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự. Từ đó, để góp phần xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng dân sự thì cần thiết phải có những cơng nghiên cứu một cách chuyên sâu,
toàn diện, đầy đủ và có tính hệ thống các vấn đề về nghĩa vụ chứng minh
trong tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam. Do vậy, tác giả luận văn tiếp

5


tục kế thừa và phát triển từ các kết quả của các cơng trình nghiên cứu trên để
xây dựng, hồn thiện đề tài “Nghĩa vụ chứng minh cứ trong tố tụng dân sự”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề trong pháp luật thực định
bao gồm các quy định hiện hành của Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh (Bộ
luật, nghị định, Nghị Quyết, Thông tư liên tịch, Thông tư…) trong tố tụng
dân sự và pháp luật có liên quan. Trên cơ sở các quy định này được đưa vào
thực tiễn để áp dụng đã làm nảy sinh những vấn đề hạn chế, bất cập gây ảnh
hưởng đến việc áp dụng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng dân sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được

đề ra ở trên, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Phân tích,
đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ
chứng minh. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy
định về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự để từ đó góp
phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự.
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng
minh. Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay
về nghĩa vụ chứng minh.

6


Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của BLTTDS 2015
về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ ba, chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của BLTTDS 2015
về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ tư, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ chứng minh và một số giải pháp để nâng cao
hiệu quả của việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong thực tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề
tài là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành khoa học xã
hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng được tác giả luận văn kết hợp sử
dụng như: phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so
sánh; phương pháp đánh giá các quy định pháp luật.

6. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn, luận văn tập trung vào những điểm
chính sau:
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu và phân tích có hệ thống các vấn
đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm... của các quy định về nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự.
Về mặt thực tiễn, từ thực trạng quy định của pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh luận văn hệ thống và phân tích một cách cụ thể, chi tiết để từ đó
tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật hiện nay về nghĩa
vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
Về mặt định hướng hoàn thiện, luận văn đưa ra cơ sở hình thành những
định hướng và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện hơn nữa các quy định
pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
7


7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương với kết cấu:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự Việt Nam
Chương 2: Quy định pháp luật hiện nay về nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.

8


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp
luật tố tụng dân sự
* Khái niệm nghĩa vụ chứng minh
Về bản chất, chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập,
cung cấp, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở
thực tế các yêu cầu của các bên đương sự trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham
gia vào q trình này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị
trí tố tụng của từng chủ thể.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015) quy định nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Toà án
chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng
vẫn khơng tự thu thập được và có u cầu Tồ án tiến hành thu thập.
Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp
chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và
nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Tịa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ
và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định [30, Điều 6].
Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Điều 91 BLTTDS 2015 như sau:
9


1. Đương sự có u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho Tòa án tài

liệu; chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp; trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện khơng có nghĩa vụ chứng minh
lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ. Tổ chức; cá
nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh
mình khơng có lỗi gây ra thiệt hại; theo quy định của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà
không cung cấp; giao nộp được cho Tịa án tài liệu; chứng cứ vì lý
do tài liệu; chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý;
lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp; giao
nộp tài liệu; chứng cứ đó cho Tịa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động; thuộc trường hợp người sử dụng lao động không
được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người
lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ
chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ
chứng minh.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình
phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho
Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
3. Cơ quan; tổ chức; cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích cơng
cộng; lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và

10


lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập; cung cấp; giao nộp

cho Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện;
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh
hàng hóa; dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà
không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì
Tịa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập
được có trong hồ sơ vụ việc [30, Điều 91].
Ngoài ra, cần phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách
nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự. Tại khoản 2 Điều 85 của Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS 2011) (có hiệu
lực từ 01/01/2012) đã ghi nhận: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định,
Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu,
chứng cứ. Như vậy, so với khoản 2 Điều 85 của BLTTDS năm 2004, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2011 hoặc tại Điều 97 BLTTDS 2015
đã bỏ quy định: Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được
chứng cứ và có u cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện
pháp thu thập chứng cứ. Việc bỏ quy định đương sự khơng thể tự mình thu
thập chứng cứ và có yêu cầu mới là điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ,
đặt ra những vấn đề tranh cãi cần thống nhất về cách hiểu khi áp dụng trong
thực tiễn xét xử liên quan đến quan niệm về nghĩa vụ chứng minh hay trách
nhiệm chứng minh của Tòa án (TA), Viện kiểm sát (VKS). Theo đó nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự là của các đương sự; Tòa án và Viện kiểm
sát khơng có nghĩa vụ chứng minh chỉ có trách nhiệm chứng minh.

11



Từ đó, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có thể được hiểu:
Thứ nhất, về nguyên tắc, “nghĩa vụ” là việc phải làm. Đương sự có nghĩa
vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh.
Điều này khơng có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động
chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá
nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ
không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình là
có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị
đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một
cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật
ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về
sự công nhận là đúng, là có lý và cả u cầu cơng nhận là khơng đúng, khơng
có lý hay nói cách khác u cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh.
Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm thỉnh cầu
và kháng biện. Trong thỉnh cầu có thỉnh cầu ban đầu (đơn khởi tố), thỉnh cầu
bổ sung (bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc), thỉnh cầu phản
tố (địi hỏi cơng nhận lợi ích của bị đơn) và thỉnh cầu dự sự (đòi hỏi của người
thứ ba về việc tham gia vụ án). Kháng biện bao gồm kháng biện về nội dung
(là sự phủ nhận của bị đơn), khước biện (bị đơn cho rằng không đúng thủ tục)
và kháng chấp (bị đơn cho rằng ngun đơn khơng có quyền kiện họ: ví dụ
như khơng có tư cách hoặc kiện ở tịa khơng có thẩm quyền).
Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ
chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu
cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác
bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu
cũng phải chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự
định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.

12



Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu
quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được tịa án cơng nhận các quyền và
lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa
vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một
cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì u cầu đưa ra sẽ khơng được
chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường hợp người đưa ra
yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang
lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của
nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài” nhưng
phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả
bất lợi ở đây đã thuộc về phía ngun đơn vì họ đã khơng thực hiện được nghĩa
vụ chứng minh của mình nên đã khơng được cơng nhận quyền và lợi ích.
* Ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Có thể khẳng định, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có tính
chất quyết định để làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong việc giải quyết vụ
việc dân sự. Để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự diễn ra đúng đắn và hợp
pháp, pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh đối với các chủ thể trong vụ án
dân sự. Bởi lẽ, chỉ thơng qua hoạt động chứng minh thì các chủ thể chứng minh
mới có thể yêu cầu hoặc đưa ra sự phản bác của mình đúng quy định của pháp
luật để làm sáng tỏ, giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và chính xác vụ án hơn
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đúng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập, cung cấp, sử
dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế các
yêu cầu của các bên trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham gia vào q trình
này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị trí tố tụng của
họ. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh (mà người ta thường gọi là Onus

13



probandi theo tiếng La tinh, Beweislast theo tiếng Đức, Burden of proof theo
tiếng Anh, hay La charge de la preuve theo tiếng Pháp) được hình hành
nhằm xác định bổn phận phải gánh vác của một chủ thể trong việc chứng tỏ
hoặc phản bác một vấn đề trong vụ án. Thông thường, nói đến nghĩa vụ
chứng minh, người ta nói đến nghĩa vụ chứng minh nội dung và nghĩa vụ
chứng minh hình thức [2].
* Nghĩa vụ chứng minh về nội dung
Nghĩa vụ chứng minh về nội dung hay còn gọi là nghĩa vụ thuyết phục,
nghĩa vụ khẳng định, nghĩa vụ nội dung, nghĩa vụ theo luật, nghĩa vụ khách
quan ... Đây là nghĩa vụ được ấn định dứt khoát cho bên yêu cầu (nguyên đơn,
người phản tố) và không thể chuyển cho bên kia. Chủ thể mang nghĩa vụ
chứng minh nội dung sẽ thua kiện nếu không thực hiện được việc chứng minh
của mình. Việc chứng minh, trong trường hợp này là ngồi việc xuất trình các
chứng cứ cần thiết để khẳng định sự thật, người đặt ra yêu cầu (giả thuyết
phải chứng minh) còn phải lập luận viện dẫn các cơ sở thực tiễn, logic và
pháp lý cho các yêu cầu đó
Ngay từ thời La Mã cổ đại, một cáo buộc được đệ trình lên tịa cũng có
nghĩa là bên cáo buộc đã đặt phía bên kia vào một trạng thái bất lợi và cũng
đồng thời tự đặt mình vào một nghi vấn về một sự lạm dụng quyền đi kiện.
Bởi vậy, người đi kiện có bổn phận chứng minh cho giả thuyết của mình đã
đưa ra là có cơ sở và khơng có một sự lạm dụng nào được thực hiện, nguyên
tắc này còn được áp dụng đối với cả những phản tố của các đương sự khác
không phải là nguyên cáo, khi đó, nó được hiểu là “nghĩa vụ chứng minh
thuộc về người khẳng định, chứ không phải bên từ chối”. Sự từ chối ở đây
được hiểu là bên bị không thừa nhận cáo buộc của bên nguyên. Anh ta sẽ xuất
trình chứng cứ cho sự từ chối hay bác bỏ này theo yêu cầu của tòa án nhưng
việc chứng minh cho sự không đúng sự thật của cáo buộc chỉ là quyền chứ


14


không phải là nghĩa vụ của anh ta. Trường hợp bên ngun khơng thuyết phục
được tịa án về tính có căn cứ của cáo buộc, cáo buộc sẽ bị bác bỏ và việc
phản đối hay từ chối cáo buộc không cần thiết phải chứng minh.
Trong các vụ án dân sự, nguyên đơn thường phải gánh chịu nghĩa vụ
chứng minh để khẳng định các u cầu của mình là có cơ sở, có thật và hợp
pháp. Bị đơn chỉ có nghĩa vụ chứng minh khi anh ta đặt ra một yêu cầu phản
tố, độc lập với yêu cầu của nguyên đơn. Tuy vậy, trong mơ hình tố tụng thẩm
vấn, ngun đơn dân sự cũng chỉ phải chứng minh mình bị tranh chấp, xâm
hại, việc quyết định đúng sai và trách nhiệm dân sự tương ứng phụ thuộc vào
việc xác minh sự thật vụ án của tòa án
* Nghĩa vụ chứng minh về hình thức
Đây là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ và là một phần của nghĩa vụ chứng
minh. Đây là nghĩa vụ chung của các bên đương sự, khi tham gia tố tụng phải
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án để làm cơ sở cho khẳng định hay
bác bỏ một vấn đề.
Về bản chất, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ là một bảo đảm cung cấp
cơng cụ cho nghĩa vụ chứng minh nội dung. Khác với nghĩa vụ chứng minh
nội dung là nhằm vào sự thật vụ án và chỉ ràng buộc với bên đi kiện, nghĩa vụ
xuất trình chứng cứ nhằm đến các cơng cụ pháp lý để phục vụ nghĩa vụ chứng
minh nội dung và nó có thể chuyển dịch giữa các bên trong quá trình tố tụng.
Việc giải phóng nghĩa vụ chứng minh nội dung chỉ diễn ra khi bên cáo buộc
thuyết phục được tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp rằng việc chứng minh
đã đáp ứng được các tiêu chí luật định và cáo buộc được thừa nhận là có thật.
Có thể thấy bên có nghĩa vụ chứng minh nội dung sẽ đương nhiên phải
có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Tuy vậy, phía bên kia khơng có nghĩa vụ
chứng minh nội dung nhưng vẫn có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Trong một
vụ kiện, khi một bên đã xuất trình đủ các chứng cứ cần thiết cho các cáo buộc


15


của mình thì bên kia sẽ được đặt trong trạng thái phải chống đỡ. Một khi bên
bị bác bỏ cáo buộc của bên nguyên phải đưa ra các chứng cứ để bác bỏ nó tức là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ bảo vệ (hoặc chứng cứ bác bỏ) đã được
chuyển sang bên bị. Nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ cần thiết, các
chứng cứ do bên kia đưa ra sẽ được thừa nhận là xác thực (hay hiển nhiên
đúng) cáo buộc của họ sẽ được chấp nhận. Điều này xuất phát từ nguyên tắc
"một giả thuyết được coi là chân thực cho tới khi nó bị chứng minh là sai"[2].
Những hồi nghi có tính chất cá nhân của bên bị không thể coi là một sự phản
chứng nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ.
Theo thông lệ, bên nguyên đơn chứng minh trước nếu bên bị đơn lại
phản bác và đã chứng minh cho những phản bác, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ
lại được chuyển lại cho nguyên đơn để thực hiện việc bảo vệ cho mình.
Chứng minh tại tịa án là một q trình gồm hàng loạt các việc "chuyển"
nghĩa vụ chứng minh cho đến khi khơng bên nào cịn có thể bác bỏ hay đề
xuất gì thêm. Kết thúc việc "chuyển" đó, tịa án sẽ ra phán quyết về vụ án.
1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Khác với các bên trong vụ án, tòa án là chủ thể trung lập, họ nhận định
sự việc và đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Những đòi hỏi của pháp chế
buộc tịa án phải có trách nhiệm đưa ra bản án phù hợp với thực tế khách quan
và đúng pháp luật. Để bản án của mình phù hợp với thực tế khách quan, tịa
án ln bị đặt lên vai một nghĩa vụ là xác định sự thật hay theo cách gọi của
khoản 1, Điều 225 LTTDS 2015 là "xác định các tình tiết của vụ án". Tuy
thế, cách thức xác định sự thật của tòa án như thế nào lại phát sinh nhiều quan
điểm khác nhau mà lịch sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai trường phái chính:
Tố tụng tranh tụng và Tố tụng thẩm vấn (hay xét hỏi).
Những nước theo truyền thống thơng luật thì cho rằng, sự nhận định
của tòa án chỉ thuần túy dựa trên những gì mà đương sự, người truy tố chứng


16


minh. Tòa án là một cơ quan thuần túy phân xử và độc lập với các bên cũng
như những ràng buộc chính trị, do đó, tịa án sẽ nhận định và phán quyết cho
bên nào chứng minh có lý hơn, đầy đủ hơn. Tòa sẽ xác định sự thật vụ án trên
cơ sở của kết quả chứng minh. Đây là hệ thống tố tụng tranh tụng.
Những nước theo truyền thống dân luật thì lại cho rằng, ngồi tư cách
là một cơ quan độc lập, tòa vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật chung.
Và do đó, khi các bên trong vụ kiện tuy đã chứng minh cho các u cầu kiện
cáo của mình, tịa vẫn cịn ngun vẹn nghĩa vụ xác minh sự thật khách quan.
Theo đó, tịa án sẽ phải điều tra, làm rõ những tình tiết của vụ án trước khi
đưa ra phán quyết, những kết quả chứng minh của đương sự chỉ có ý nghĩa
tham khảo. Đây là hệ thống tố tụng thẩm vấn. Mỗi một hệ thống đều có
những ưu điểm và nhược điểm cố hữu của nó. Hơn nữa, cũng đã khá lâu, trên
thế giới người ta khơng cịn so sánh hệ thống tố tụng nào ưu việt hơn trong
việc bảo vệ quyền của dân chúng cũng như bảo vệ trật tự pháp luật. Vấn đề
đặt ra đối với giới học giả cũng như những người làm luật là tìm những ưu
điểm của mỗi hệ thống tố tụng để kết hợp lại trong luật tố tụng của quốc gia
mình. Hiện tại, đã có sự giao thoa của cả hai hệ thống tố tụng. Các đương sự,
người đi kiện có bổn phận cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu,
khẳng định hay những phản bác của mình, nguyên tắc tranh tụng được coi là
chủ đạo trong tố tụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc thẩm vấn cũng vẫn còn được
áp dụng ở mức độ hạn chế [2]. Người ta đã tìm thấy trong tố tụng của các
nước theo hệ thống thơng luật có nhiều hơn các quy định về chứng cứ viết,
các tài liệu giám định. Tòa án common law cũng đã tiến hành lấy lời khai
nhân chứng mà không cần đến một đề nghị nào của các bên khi có mâu thuẫn
hoặc tòa nhận định thấy chưa thể đủ căn cứ để phán quyết. Vài thay đổi theo
hướng đó cũng đã xuất hiện trong tố tụng của các nước theo hệ thống dân

luật, khơng cịn thấy hình ảnh của các quan tịa lắm lời mà thay vào đó là sự

17


tranh luận miệng của các bên. Tự định đoạt và tranh tụng đã là một trong
những nguyên tắc tố tụng cơ bản của người châu Âu lục địa và những câu
chuyện liên quan đến nghĩa vụ điều tra của tòa án chỉ dành cho những vụ án
đặc biệt như bảo vệ quyền trẻ em. Ngoài ra, việc điều tra bổ sung của tòa án
đã chỉ còn là những ngoại lệ được áp dụng với những điều kiện chặt chẽ [2].
Thực tế, việc phân định nghĩa vụ chứng minh giữa đương sự và tịa án
khơng là một nội dung của một lý thuyết nào về nghĩa vụ chứng minh đã tồn
tại trên thế giới. Người ta chỉ đặt vấn đề nghĩa vụ xác định sự thật vụ án giữa
tòa án với đương sự. Tịa án khơng có nghĩa vụ chứng minh mà chỉ có nghĩa
vụ xác định sự thật vụ án và ra phán quyết. Ở đâu đó, trong những trường hợp
nhất định, tòa án thực hiện việc thu thập chứng cứ nhằm làm rõ hơn sự thật
trong nhận định của họ thì cũng khơng phải là hành vi chứng minh, đó chỉ
được coi là ngoại lệ của nghĩa vụ xuất trình chứng cứ - một phần của nghĩa vụ
chứng minh. Ngoại lệ này nhằm giúp đỡ đương sự gặp bất lợi trong việc tiếp
cận các nguồn chứng cứ và hình thành nên hoạt động điều tra của cơ quan giải
quyết khiếu nại, kiện cáo.
1.1.4. Các cấp độ chứng minh
Các chủ thể chứng minh trong quá trình áp dụng pháp luật sẽ xoay
quanh các giả thuyết về một sự thật đã xảy ra trong quá khứ. Một đối tượng
được đánh giá là đúng, là khách quan ở thời điểm này cũng có thể là sai lầm ở
một thời điểm khác khi xuất hiện những tình huống, điều kiện mới. Quan
niệm về cái “thật" với tính cách là một thực tại khách quan sẽ bị thách thức
bởi những trường hợp người ta phát hiện có những chứng cứ phủ định những
phép chứng minh đã hồn tất. Theo đó, cái thật ở đây là sự đúng đắn trong
nhận thức với những điều kiện xác định và được kiểm tra bằng các luật logic.

Một khi không thể chứng minh một đối tượng là không thật, thì nó phải là thật.
Do đó, cái “sự thật" của các cáo buộc là cái “thật trong tư duy" chứ không
phải là cái thật của thực tại khách quan.
18


Phép chứng minh sẽ hoàn tất chỉ đến khi người ta thuyết phục được cơ
quan áp dụng pháp luật tin tưởng rằng giả thuyết đó là đúng. Chủ thể chứng
minh sẽ thuyết phục bằng những bằng chứng cụ thể, những lập luận phù hợp
với các quy luật logic được thừa nhận chung và những viện dẫn các quy định
của pháp luật một cách rõ ràng. Thông thường, nghĩa vụ chứng minh có các
cấp độ sau đây:
* Khơng cịn nghi ngờ hợp lý
Đây được xem là cấp độ cao nhất của chứng minh và được áp dụng
trong những trường hợp kết quả chứng minh có ảnh hưởng đến sinh mạng,
thân phận chính trị, tự do của con người như tố tụng hình sự. Một lẽ hiển
nhiên là bất kỳ nhà làm luật nào cũng đều mong muốn khi kết tội một người,
anh ta chắc chắn đã thực hiện một tội phạm. Thế nhưng xét về tổng thể, đây
lại là điều không tưởng và không cần thiết bởi sự thật trong chứng minh chỉ là
sự thật trong nhận thức như đã trình bày ở trên. Như vậy, một khi không thể
đặt một giả thuyết (hay nghi ngờ) logic nào khác ngoài việc cho rằng bị cáo
đã thực hiện một tội phạm thì có nghĩa là trong giới hạn nhận thức của con
người, anh ta đã phạm tội. Nghĩa vụ chứng minh anh ta có tội của cơng tố đã
hồn tất. Trong chừng mực vẫn có thể đặt ra được những khả năng hợp lý
khác ngoài việc phạm tội của bị cáo, về ngun tắc, tịa phải tun anh ta
khơng có tội. Nếu ngun tắc khơng ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có
phán quyết chính thức có hiệu lực của tòa án về việc phạm tội của anh ta được
gọi là ngun tắc "suy đốn vơ tội" thì việc tịa án nhận định khơng tồn tại
một nghi ngờ hợp lý về việc có tội của anh ta có thể được coi là ngun tắc
"suy đốn có tội" trong luật hình sự các nước áp dụng hệ thống tranh tụng có

từ thời trung cổ [2].
* Chứng cứ rõ ràng và thuyết phục
Đây là cấp độ thấp hơn của việc không còn nghi ngờ hợp lý. Các chứng

19


×