Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CƠ KHÍ Ô TÔ 3-2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.88 KB, 8 trang )

1
MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC
KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CƠ KHÍ Ô TÔ 3/2.
Công ty cơ khí ô tô 3-2 qua hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành đã
từng bước khẳng định mình và tìm được chỗ đứng trên thị trường. Từ một nhà
máy sản xuất kinh doanh còn yếu kém, công nhân còn thiếu việc làm … song
với sự nhạy bén của các nhà quản lý, sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ
công nhân viên trong doanh nghiệp, công ty đã từng bước giải quyết những
khó khăn, thay đổi thích ứng với cơ chế mới để đưa công ty phát triển, giải
quyết đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, nâng cao đời sống cho người
lao động, tăng nhanh năng suất lao động, từng bước cải tiến quy trình công
nghệ nhằm giảm thấp chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng nhanh lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển trên, công tác quản lý nói chung và công tác kế
toán nói riêng đã không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Nó đã thực sự trở
thành công cụ đắc lực cho quản lý và hạch toán kinh tế của công ty. Sau một
thời gian ngắn thực tập tìm hiểu về công ty em xin đưa ra một số nhận xét
khái quát sau:
3.1. Những ưu điểm.
Thứ nhất về hệ thống chứng từ, tài khoản. Công ty đã tổ chức hệ thống
chứng từ và vận dụng tài khoản kế toán tương đối đúng chế độ và biểu mẫu
do bộ tài chính ban hành. Các chứng từ được lập, kiểm tra luân chuyển một
cách thường xuyên, phù hợp với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hệ thống tài
khoản của công ty phản ánh đầy đủ mọi hoạt động kinh tế, việc sắp xếp phân
loại các tài khoản trong hệ thống tài khoản của công ty tương đối phù hợp với
tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
Thứ hai về hình thức sổ kế toán. Công ty đã sử dụng hình thức Sổ nhật
ký chứng từ để hạch toán. Đây là hình thức ghi sổ phù hợp với một công ty
1
2
lớn. Các sổ sách nhật ký chứng từ, bảng kê, bảng phân bổ… được thực hiện


tương đối đầy đủ, ghi chép cẩn thận rõ ràng có hệ thống.
Thứ ba về đội ngũ cán bộ công nhân viên: công ty có một đội ngũ cán
bộ công nhân viên kế toán có trình độ cao, hiểu biết, nắm vững chế độ kế toán
cũng như những nghiệp vụ cụ thể của mình. Hầu hết các nhân viên dều có
trình độ vi tính và nghiệp vụ kế toán, có tinh thần trách nhiệm nên về cơ bản
là hoàn thành các phần hành kế toán được giao.
Thứ 3 đối với kế toán thanh toán với công nhân viên chức. Kế toán
công ty đã có những điều chỉnh hợp lý giảm bớt khối lượng công việc mà
không vi phạm chế độ kế toán hiện hành. Điều này thể hiện qua việc công ty
không tiến hành trích trước lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất
( không sử dụng tài khoản 335 để hạch toán) . Theo em đây là một sự sáng tạo
hợp lý bởi vì 2 lý do sau:
Một là: nếu có thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép của công
nhân sản xuất thì tổng số tiền trích này chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong
tổng số tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất.
Hai là: Tại Công ty Cơ khí ô tô 3-2, việc bố trí cho công nhân trực tiếp
nghỉ phép tương đối đều đặn, do đó không làm giá thành sản phẩm thay đổi
đột ngột trong kỳ hạch toán.
Về hình thức trả lương :việc áp dụng hình thức trả lương khoán sản
phẩm hoàn thành và đạt chất lượng quy định đã gắn chặt thu nhập của người
lao động với thời gian lao động và là điều kiện để thúc đẩy công nhân tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng TSCĐ, thực hiện mục tiêu giảm chi
phí sản xuất, hạ giá thành.
Thứ4 đối với kế toán NVL và công cụ, dụng cụ: công tác hạch toán nói
chung là đã phản ánh đúng thực trạng của công ty, đáp ứng được yêu cầu
quản lý mà công ty đặt ra. Đảm bảo sự thống nhất về phạm vi và phương pháp
2
3
tính các chỉ tiêu giữa kế toán với các bộ phận khác có liên quan. Kế toán
nguyên đã thực hiện đối chiếu giữa chứng từ, sổ kế toán với thẻ kho, kiểm kê

kho đảm bảo tính cân đối giữa chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu giá trị. Giữa kế
toán tổng hợp và kế toán chi tiết cũng thường xuyên đối chiếu để đảm bảo
chính xác các thông tin về tình hình biến động NVL.
Hơn nữa, phương pháp tính giá NVL theo giá hạch toán là rất phù hợp
với tình hình xuất nhập NVL của công ty và phù hợp với hạch toán chi tiết
theo phương pháp sổ số dư. Chính vì vậy khối lượng công việc kế toán sẽ
được giảm nhẹ và phát huy được ưu điểm của phương pháp sổ số dư.
Thứ 5 Đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành: Xuất phát từ
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các phân xưởng, đối tượng tính giá thành
là sản phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng. Công ty đã xác định kỳ tính giá
thành là hàng tháng. Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Mặt khác do kỳ tính
giá thành tương đối ngắn, vì vậy cung cấp thông tin kịp thời cho Ban giám
đốc của công ty trong việc ra quyết định.
Thứ 6 hiện nay, công ty đã đưa máy tính vào kế toán, góp phần cơ giới
hoá công tác kế toán, quản lý, xử lý dữ liệu kế toán, giảm bớt khối lượng công
việc của nhân viên kế toán. Song do công ty tự làm kế toán trên Excel, tự thiết
kế các mẫu sổ nên cũng dẫn tới một số hạn chế nhất định.
3.2. Những tồn tại và một số ý kiến nhằm khắc phục những tồn
tại .
Bên cạnh những ưu điểm, những mặt đã đạt được như trên công tác kế
toán nói chung vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế sau:
Thứ nhất là tổ chức bộ máy kế toán chưa hợp lý. Đó là sự kiêm nhiệm
trong việc hạch toán các phần hành.Việc phân công kế toán vật tư kiêm kế
toán TSCĐ là chưa hợp lý bởi vì: Công ty Cơ khí ô tô 3-2 với đặc thù sản
3
4
xuất, chế tạo các mặt hàng cơ khí do đó khối lượng các nghiệp vụ về NVL,
CCDC, TSCĐ xẩy ra liên tục với khối lượng lớn trong khi đó chỉ có một kế
toán viên kiêm nhiệm cả 2 phần hành này đã làm cho khối lượng công việc

nhiều khi bị ùn tắc, ảnh hưởng đến tiến độ chung của phòng kế toan.Bên cạnh
kế toán trưởng một mặt phải phụ trách mọi hoạt động của phòng kế toán, kí
các lệnh thu chi, giấy đề nghị tạm ứng, hoá đơn GTGT của công ty, chịu trách
nhiệm trước giám đốc về toàn bộ công tác tài chính kế toán của công ty… mặt
khác phải kiêm nhiệm cả kế toán tổng hợp đây là một sự bất hợp lý làm cho
khối lượng công việc của trưởng phòng kế toán quá lớn, gây ảnh hưởng đến
việc thực hiện nhiệm vụ chính của kế toán trưởng. Theo em công ty lên phân
nhiệm hợp lý hơn: phần hành NVL nên do một người phụ trách. Bổ nhiệm
thêm chức vụ phó phòng kế toán kiêm kế toán tổng hợp để ngánh bớt công
việc cho kế toán trưởng. Có như thế công việc của kế toán mới đảm bảo đúng
thời gian, nâng cao hiệu quả công việc.
Thứ hai Việc chấp hành chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp còn chậm
chễ. Trong khi 10 chuẩn mực kế toán đã ban hành và đều có thông tư hướng
dẫn cụ thể (thông tư 89/2002 và thông tư 105/2003) nhưng đến nay(2004)
công ty vẫn sử dụng các chứng từ, tài khoản kế toán và lập báo cáo tài chính
theo chế độ kế toán ban hành theo quyết định số 1141/BTC/CĐKT ngày
1/11/1995. Đây là một sự châm chễ của công ty trong việc đưa hệ thống kế
toán hoà nhập với hệ thống kế toán mới, nó hạn chế sự thống nhất về phạm vi
và phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa các bộ phận có liên quan.
Thứ ba mặc dù đã vận dụng hình thức nhật ký chứng từ, tạo nhiều mẫu
sổ đơn giản thuận tiện trong công tác ghi chép nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Tuy nhiên với một số phần hành kế toán không mở hệ thống sổ chi tiết do đó
chưa đáp ứng hết được nhu cầu hạch toán một số chỉ tiêu, tổng hợp, phân tích
4
5
và kiểm tra của công ty mà các sổ tổng hợp không thể đáp ứng được. Em chỉ
xin đơn cử một phần hành tiêu biểu mà kế toán không mở hệ thống sổ chi tiết
đó là “ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành” . việc không có hệ
thống sổ chi tiết mà chỉ có sổ Cái dẫn tới không đáp ứng được yêu cầu đối
chiếu giữa hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết. Để đáp ứng yêu cầu quản

lý của doanh nghiệp và cũng để thuận tiện cho việc quản lý chi phí trong
tháng, quý, năm, theo em công ty nên mở hệ thống sổ chi tiết chi phí sản xuất
riêng cho từng phân xưởng và theo từng loại sản phẩm để theo dõi và quản lý
sát sao hơn. Hệ thống sổ chi tiết nên mở theo các tài khoản 621, 622, 627.
Thứ 4 hạch toán chi tiết NVL.Công ty hạch toán chi tiết NVL theo
phương pháp sổ số dư nhưng trong quá trình hạch toán chi tiết công ty không
sử dụng phiếu giao nhận chứng từ. NVL của công ty khá lớn, số lượng nhập,
xuất nhiều. Nếu không lập phiếu giao nhận chứng từ sẽ gây ra tình trạng có
nhiều phiếu nhập, xuất bị quên không ghi sổ.
Như vậy theo em công ty nên lập phiếu giao nhận chứng từ nhập( xuất)
NVL cho từng kho. Khi nhận được chứng từ kế toán kiểm tra và tính theo
từng chứng từ nhập(xuất) theo giá hạch toán cộng số tiền và ghi vào cột số
tiền trên phiếu giao nhận chứng từ nhập ( xuất) vật liệu. Cứ 5 đến 7 ngày từ số
liệu trên cột số tiền ở mỗi phiếu giao nhận vào cột nhập, xuất cả số lượng và
giá trị trên bảng luỹ kế nhập- xuất- tồn, đồng thời còn là căn cứ để đối chiếu
với sổ số dư và kế toán tổng hợp.
Thứ 5 việc chưa sử dụng phần mềm kế toán vào sử dụng. Các phần
hành kế toán của công ty có khối lượng công việc rất lớn trong khi số lượng
nhân viên kế toán chỉ có 4 người việc hạch toán chủ yếu bằng tay chưa phát
huy hết vai trò của máy tính. Trong khi đó công ty đã trang bị được 2 máy
5

×