Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích tinh thần yêu nước trong bài thơ Sông núi nước Nam - Những bài văn hay lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.21 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫu</b>

<b>lớp 7</b>



<b>Phân tích tinh thần yêu nước trong bài Sông núi nước Nam</b>



<b>Dàn ý phân tích tinh thần u nước trong bài Sơng núi nước Nam</b>


<b>I. Mở bài</b>


- Giới thiệu về tinh thần yêu nước trong bài “Nam quốc sơn hà”: Gắn với sự
kiện chống quân Tống xâm lược vào cuối năm 1076, bài thơ “Nam quốc sơn
hà”- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta đã thể hiện rõ tinh thần yêu
nước sâu sắc, mãnh liệt của thời đại Đông A.


<b>II. Thân bài</b>


– Ở hai câu thơ đầu, tinh thần yêu nước được thể hiện qua tư tưởng về chủ
quyền dân tộc và ý thức độc lập tự chủ


+ Sông núi nước Nam là của người Nam.


+ Câu thơ như một lời tuyên ngôn đầy chắc nịch về chủ quyền của dân tộc:
“Nam quốc”- “Nam đế”: nước Nam là của vua Nam


đặt trong thế đối sánh, ngang hàng với phương Bắc: “Nam quốc”- “Bắc quốc”
và “Nam đế”- “Bắc đế”


– Ở hai câu thơ cuối, tinh thần yêu nước được thể hiện rõ thông qua niềm tin
sắt đá vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Giặc Tống nhất định “phải tan vỡ” vì:
chúng đã vi phạm vào “sách trời”



vì đã đặt bước chân xâm lược lên bờ cõi nước Nam mãi mãi là của người Nam
cuộc chiến mà chúng đã gây nên nhất định sẽ bị quật ngã bởi sức mạnh của tinh
thần yêu nước thời đại Đông A


<b>III. Kết bài:</b>


- Khái quát tinh thần yêu nước được thể hiện qua bài thơ “Nam quốc sơn hà”:
“Nam quốc sơn hà” xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên thấm đẫm tình thần yêu nước về chủ quyền, ý thức độc lập dân tộc
cùng niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.


<b>Phân tích tinh thần u nước trong bài Sơng núi nước Nam - Mẫu 1</b>


Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của
mỗi người dân Việt Nam. Tình cảm ấy thấm đẫm trong tâm hồn dân tộc và dạt
dào lai láng trên những trang thơ văn.


Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) là một áng thơ như thế!


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nhìn lại các sáng tác thời Lí - Trần, tuy tình cảm đất nước bộc lộ ở những khía
cạnh khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, nhưng đều rất sâu sắc.
Trong Chiếu dời đô, nỗi lo lắng cho vận số của đất nước, dân tộc, hạnh phúc
của muôn dân, trăm họ là niềm trăn trở lớn nhất của vị hoàng đế đầu tiên của
triều Lí. Ở Hịch tướng sĩ, lịng căm thù giặc, nỗi xót đau trước cảnh đất nước bị
giày xéo tàn phá, ý chí sẵn sàng xả thân vì nước trào dâng mãnh liệt trong lòng
vị thân vương họ Trần. Còn trong Phò giá về kinh, lại là hào khí chiến thắng
của dân tộc và khát vọng về một nền thái bình mn thuở cho đất nước của
thượng tướng thái sư Trần Quang Khải.


Ra đời trong máu lửa của cuộc kháng chiến chống Tống, Sông núi nước Nam
là tuyên ngôn của Đại Việt về độc lập, chủ quyền đất nước. Đây là tuyên ngôn


của hàng triệu trái tim Đại Việt nồng nàn, thiết tha yêu nước mình.


Ta hãy đọc kĩ lại bản tun ngơn để cảm nhận được tình cảm mãnh liệt, sục sôi
của một dân tộc:


<i>Nam Quốc sơn hà Nam đế cư</i>
<i>Tiệt nhiên định phận tại thiên thư</i>


<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

gì nhau! Từ ngơn từ và ý thơ thế hiện một niềm tự hào cao độ về đất nước và
dân tộc mình. Đây là niềm tự hào mà mỗi thần dân Đại Việt đều có trong cuộc
đấu tranh sinh tử với kẻ thù.


Lòng tự hào ấy, hơn ba thế kỉ sau được Nguyễn Trãi nhấn mạnh thêm:


<i>Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>


<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>
<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Li, Trần bao đời xây nền độc lập</i>


<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương</i>


(Bình Ngơ đại cáo)
Như vậy ý thức độc lập tự chủ đâu phải là mới thai nghén



Hôm nay, nó đã hình thành từ rất lâu trong tiềm thức của mỗi người dân đất
Việt, có lẽ là từ thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang. Trải qua bao thăng
trầm trong lịch sử, qua rất nhiều biến cố đau thương, nhưng ý chí độc lập
khơng bao giờ bị dập tắt. Máu xương của cha ông đã đổ mấy ngàn năm chẳng
phải là để giành lại xã tắc đó sao? Ngày hơm nay, một lần nữa, tinh thần dó
được phát biểu thành một tuyên ngôn hùng hồn, đanh thép. Hơn nữa, là niềm
tin sắt đá vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ
độc lập chủ quyền dân tộc:


<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư</i>


Dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc thù. Đó chính là biểu hiện tập trung
nhất, cao độ nhất của lòng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.


Sau này, trong văn chương nước nhà, ta cịn bắt gặp khơng ít những áng thơ
văn dạt dào sâu lắng tình yêu quê hương đất nước mình như thế trong đó Sơng
núi nước Nam mãi xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về
lòng yêu nước và tự hào dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

bản hùng ca bi tráng “Nam quốc sơn hà”- hay cịn được nhắc dưới cái tên
“Sơng núi nước Nam” của Lí Thường Kiệt. Bài thơ chính là kết quả của tinh
hoa văn hóa dân tộc, hào khí anh hùng và hơn cả đó chính là lịng tự hào dân
tộc và tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kì lập quốc và giữ quốc.
“Nam quốc sơn hà” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt bằng chứ Hán với áng
văn hào sảng như sau:


<i>Nam quốc sơn hà Nam đế cư</i>
<i>Tiệt nhiên định phận tại thiên thư</i>



<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư</i>


Trong cuộc chiến chống lại giặc phương Bắc của nhân dân đã để lại nhiều
những dấu ấn lịch sử oai hùng, giặc Oa, giặc Hán, giặc Tống, giặc Thanh,… và
bài thơ “Nam quốc sơn hà” được sáng tác trong cuộc kháng chiến chống quân
Tống, trong đền thờ thần trên phòng tuyến sơng Như Nguyệt.


Bài thơ thể hiện khí phách cũng như ý chí quật cường của dân tộc ta. Ngay mở
đầu bài thơ, tác giả đã khẳng định chủ quyền đất nước bằng một câu khẳng
định đầy đanh thép:


<i>“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”</i>


Câu thơ với hai vế rõ ràng, được tác giả sử dụng từ ngữ hết sức hàm xúc và ý
nghĩa, giọng điệu hết sức đanh thép và khẳng định chủ quyền đất nước. Hai từ
“Nam quốc” và “Nam đế” chính là hai từ chủ chốt của câu thơ bởi giặc phương
Bắc luôn coi thường nước Nam ta, chúng chỉ coi Bắc quốc là đế quốc duy nhất
thống trị thiên hạ, chúng nganh nhiên xâm lượn, đô hộ nước ta trở thành một
châu, một quận và phải chịu sự giám sát, quản thúc và cung phụng chúng. Để
giữ được nền độc lập nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh, đứng lên bảo vệ
đất nước trong suốt ngàn năm qua.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư


Câu thơ lại là một câu nói biện chứng, khẳng định “sông núi nước Nam” là của
người Nam sinh sống và hưởng thụ, đây là điều hiển nhiên do trời định. Khơng
có một thể lực hay một cá nhân tập thể nào có thể phủ định điều đó. Giang sơn
gấm vóc, từng cây cỏ, ngọn cây, bờ cõi khẳng định chủ quyền của nhân dân ta,
được sử sách lưu danh thiên cổ, được đánh dấu trong bản đồ của trời, của thế


giới. Không ai được quyền thay đổi cái sự thật đó!


Hai câu thơ với hai lời khẳng định với lí lẽ biện chứng xác đáng, cho chúng ta
thấy được một chân lí rằng: nước Đại Việt tồn tại độc lập và có chủ quyền của
một quốc gia, khơng ai được xâm phạm và có quyền thay đổi điều đó!


Để nhấn mạnh điều đó, tác giả đã nahan mạnh, khẳng định vô cùng đanh thép
với hai câu thơ


<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.</i>


Sách trời đã lưu danh tính chủ quyền mà tại sao lúc giặc kia lại dám xâm lược.
câu hỏi như lời nhắc nhở đanh thép đến quân xâm lược rằng: bọn chúng xâm
phạm và bờ cõi nước Nam ta chẳng há gì là đại nghịch bất đạo, chúng bay đã
xâm phạm vào chủ quyền của cả một dân tộc, động đến lịng tự tơn của một
dân tộc kiên cường, ý chí độc lập chủ quyền ngút ngàn. Nếu chúng dám xâm
phạm đến bờ cõi ấy, thì chắc chắn sẽ chuốc lấy sự thất bại, đó là điều hiển
nhiên chắc chắn sẽ xảy ra. Chúng sẽ bị trời đất, bị ý chí và tinh thần của con
người Nam quốc đánh cho tan vỡ, phải cúi đầu chịu thua.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Phân tích tinh thần yêu nước trong bài Sông núi nước Nam - Mẫu 3</b>


“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống q báu cả ta”
(trích “Lịng yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh). Câu nói của Bác đã thể
hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống yêu nước- sợi chỉ đỏ xuyên suốt
chiều dài lịch sử. Dù ở bất cứ thời kì hay giai đoạn nào, trong những trang sử
hào hùng của dân tộc ta ln ngời sáng truyền thống đó. Gắn với sự kiện chống
quân Tống xâm lược vào cuối năm 1076, bài thơ “Nam quốc sơn hà”- bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước sâu
sắc, mãnh liệt của thời đại Đông A:


<i>“Nam Quốc sơn hà Nam đế cư</i>
<i>Tiệt nhiên định phận tại thiên thư</i>


<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

càng được khẳng định hơn thông qua “thiên thư”: “Vằng vặc sách trời chia xứ
sở”, nghĩa là điều này tồn tại như một chân lí hiển nhiên và khơng ai có thể phủ
nhận. Như vậy, thông qua hai câu thơ đầu, chúng ta thấy được tinh thần yêu
nước được thể hiện qua tư tưởng về chủ quyền dân tộc và ý thức độc lập tự
chủ.


Ở hai câu thơ tiếp theo, chúng ta thấy được tinh thần yêu nước được thể hiện rõ
thông qua niềm tin sắt đá vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc:


<i>“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm</i>
<i>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”</i>


Niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lược chính là
biểu hiện tập trung và cao độ nhất của tinh thần yêu nước. Tác giả đã vẽ nên
trước mắt độc giả viễn cảnh về thất bại thảm hại của giặc Tống xâm lược, đồng
thời cũng là niềm tin sắt đá vào sức mạnh của tinh thần yêu nước của nhân dân
ta tạo nên. Giặc Tống nhất định “phải tan vỡ” vì chúng đã vi phạm vào “sách
trời”, đi ngược lại chân lí, tạo nên một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Hơn nữa, sự
thất bại của chúng là lẽ tất yếu vì đã đặt bước chân xâm lược lên bờ cõi nước
Nam mãi mãi là của người Nam, và cuộc chiến mà chúng đã gây nên nhất định
sẽ bị quật ngã bởi sức mạnh của tinh thần yêu nước thời đại Đông A.



</div>

<!--links-->

×