Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận Văn Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực thể thao ở Trường Đại học Thể dục Thể thao trung ương I Từ Sơn Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ VIỆT HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỂ DỤC THỂ THAO TRUNG ƯƠNG I
TỪ SƠN BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 22 85

Người hướng dẫn: TS. Phạm Công Nhất

HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY............................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguồn nhân lực thể thao .................................. 8
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực thể thao ................................................ 8
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực thể thao ở nước ta
hiện nay.................................................................................................. 19
1.2. Vấn đề nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực thể thao hiện nay ở
nƣớc ta ...................................................................................................... 26
1.2.1. Vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao ............... 26
1.2.2. Nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực


TDTT ở nước ta hiện nay ....................................................................... 28
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI
VỚI NGUỒN NHÂN LỰC THỂ DỤC THỂ THAO QUA KHẢO SÁT TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I TỪ SƠN BẮC NINH ........ 31
2.1. Khái quát hoạt động của Trƣờng đại học Thể dục thể thao I ............... 31
2.2. Thực trạng .......................................................................................... 40
2.2.1. Đào tạo sinh viên.......................................................................... 41
2.2.2. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác thể dục thể thao
quần chúng và thể dục thể thao trong các lực lượng vũ trang ................ 43
2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác thể dục thể theo trường
học ......................................................................................................... 46
2.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực con người đảm nhiệm công tác huấn luyện
thể thao .................................................................................................. 51

88


2.2.5. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác y sinh học trong
các hoạt động thể dục thể thao ............................................................... 53
2.2.6. Đào tạo lực lượng vận động viên tài năng trẻ quốc gia ................ 54
2.2.7. Đào tạo nhân lực thể dục thể thao sau đại học ............................. 55
2.3. Đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra .............................................................................................................. 57
2.3.1. Đánh giá những thành tựu và nguyên nhân .................................. 57
2.3.2. Đánh giá những hạn chế và nguyên nhân ..................................... 60
2.3.3. Những vấn đề đặt ra ..................................................................... 62
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở TRƢỜNG
ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I HIỆN NAY ......................................... 65
3.1. Phƣơng hƣớng .................................................................................... 65

3.1.1. Giáo dục - đào tạo phải đồng bộ .................................................. 65
3.1.2. Tăng cường áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào
trong giáo dục - đào tạo ......................................................................... 67
3.1.3. Nội dung giáo dục - đào tạo phải gắn với thực tiễn ...................... 68
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục - đào tạo
nguồn nhân lực thể dục thể thao ở Trƣờng Đại học Thể dục thể thao I ...... 69
3.2.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đối với các môn học .. 69
3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên .............. 72
3.2.3. Tích cực phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài thể thao............... 73
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giáo dục - đào tạo ......... 74
3.2.5. Giải pháp thành lập trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng . 75
3.2.6. Giải pháp về tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên........... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 82
PHỤ LỤC .........................................................Error! Bookmark not defined.

89


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội thì nguồn lực con
người có một vai trị hết sức đặc biệt, bởi nó vừa là chủ thể của q trình sản
xuất đồng thời nó cịn là yếu tố quyết định sự phát triển của một xã hội. Tuy
nhiên trong thực tế việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người phải phù
hợp với quá trình phát triển chung của vấn đề kinh tế, xã hội. Nếu khơng nó
sẽ dẫn tới 2 khả năng: Một là, số lượng nguồn nhân lực tăng quá nhanh sẽ dẫn
tới tỡnh trạng thừa nhõn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp đối với nguồn lao
động, từ đó gây khó khăn và ảnh hưởng tới đời sống dân cư và sự phát triển
kinh tế - xó hội. Hai là, quỏ trỡnh xõy dựng và phỏt triển nguồn nhõn lực diễn

ra với tốc độ chậm, hoặc năng lực nội tại của nguồn nhân lực không đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Thực tế phát triển của
các nền kinh tế - xó hội của nhiều quốc gia trên thế giới trước đây cũng như
hiện nay đều gặp cả hai trường hợp này.
Với tư cách là mục tiêu, động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
thì việc tìm ra các đặc trưng, phương hướng và biện pháp, để khơi dậy các
tiềm năng to lớn của con người cũng như rèn luyện cho con người phù hợp
với điều kiện của xã hội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước ta nói chung cũng như phát triển sự nghiệp thể
dục thể thao (TDTT) nói riêng.
Thể dục thể thao là một trong những hoạt động đặc trưng do con người
sáng tạo ra, nhằm hoàn thiện năng lực thể chất và tinh thần cho bản thân con
người trong quá trình lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thể dục thể thao cịn là một bộ phận của nền văn hố mỗi dân tộc cũng
như của nền văn minh nhân loại. Trình độ phát triển TDTT là một trong
những tiêu chí đánh giá trình độ văn hố và năng lực sáng tạo của dân tộc, là
phương tiện để giao lưu văn hoá nói chung, văn hố thể chất nói riêng, và mở
1


rộng các quan hệ quốc tế, đối ngoại. Các hoạt động TDTT khơng chỉ có tác
dụng như những hoạt động giải trí, nghỉ ngơi mà nó cịn mang lại niềm vui,
khích lệ lịng tự hồ dân tộc, sự cổ vũ to lớn cho nhân dân.
Dưới chế độ ta tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội đều đặt con
người ở vị trí trung tâm. Mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp phát triển kinh tế
và xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta là đem lại đời sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho con người.
Thể dục thể thao là một phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khoẻ
và thể lực cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần tích cực bồi dưỡng
nguồn nhân lực con người, đáp ứng nhu cầu lao động và sẵn sàng bảo vệ tổ

quốc trong điều kiện thực hiện cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Do vậy
việc phát triển TDTT được coi như một nội dung quan trọng của chính sách
xã hội nhằm chăm lo, bồi dưỡng nguồn lực con người. Khi phân tích về
nguồn lực để phát triển đất nước Đảng ta xác định. Nguồn lực con người là
nguồn lực quan trọng nhất. Đồng thời cũng chỉ rõ: Người Việt Nam đang có
những hạn chế về thể lực, kiến thức và tay nghề. Khắc phục được những
nhược điểm đó thì nguồn nhân lực mới thực sự trở thành thế mạnh của đất
nước. Như vậy có thể khẳng định phát triển TDTT để tăng cường sức khoẻ,
nâng cao thể lực của nhân dân là một yêu cầu khách quan trong thời kỳ phát
triển mới của đất nước.
Từ các cơ sở đã trình bày ở trên có thể khẳng định, trong bất kỳ điều
kiện nào cũng cần chủ động phát triển những hoạt động TDTT trong nhân dân
và hướng hoạt động TDTT vào những mục tiêu chủ yếu nhằm nâng cao sức
khoẻ, xây dựng con người mới làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của
nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu quốc tế phục vụ các nhiệm vụ phát triển
Kinh tế - Xã hội, quốc phòng của đất nước.
Trường đại học Thể dục thể thao I - Từ Sơn - Bắc Ninh là nơi đào tạo
và cung cấp chủ yếu đội ngũ cán bộ, giáo viên, huấn luyện viên, vận động
viên trẻ cho toàn ngành TDTT và phục vụ sự nghiệp phát triển TDTT của tất

2


cả mọi miền của đất nước, là cái nôi giáo dục, đào tạo đầu tiên của ngành
TDTT.
Sự nghiệp TDTT của đất nước có phát triển được hay khơng phụ thuộc
rất nhiều vào chất lượng giáo dục, đào tạo của trường. Xuất phát từ yêu cầu
khách quan đó, để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đối với nguồn
nhân lực thể thao phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
hiện nay đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất

nước. Chúng tơi chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực thể dục thể thao ở Trường đại học thể dục thể thao I” làm
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn nhân lực hay nguồn lực con người ở Việt Nam là
vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm, và được tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau, với những kết quả thu được cũng khác nhau.
Trong cuốn: “Phát triển nguồn nhân lực: Kinh ngiệm thế giới và thực
tiễn nước ta” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996), các tác giả Trần Văn
Tùng, Lê Ái Lâm đã phân tích nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong quá trình
đổi mới đất nước, chính sách phát triển nguồn nhân lực của một số nước trên
thế giới và Việt Nam, mức độ phát triển nguồn nhân lực hiện nay.
Tác giả Phan Thanh Tâm, năm 1996, trong luận án TS khoa học kinh
tế: “Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu
cầu cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” đó trỡnh bày rừ luận cứ khoa
học về vai trũ quyết định của nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xó hội. Đưa ra các chỉ tiêu đánh giá chất lượng trí
lực cuả nguồn nhân lực. Đánh giá chất lượng và hạn chế của nguồn nhân lực
Việt Nam hiện nay và phân tích các nguyên nhân tạo ra các hạn chế đó, làm
rừ sự bức xỳc phải nõng cao chất lượng nguồn nhân lực và đặt vấn đề nâng
cao chất lượng đó thơng qua cải thiện chất lượng về giáo dục, đào tạo. Đề
3


xuất hệ thống 4 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay .
Năm 1999, tác giả Hà Quý Tình trong Luận án tiến sĩ kinh tế: “Vai trò
nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hố hiện đại
ở nước ta”, đã phân tích ý nghĩa của nguồn nhân lực, tạo lập nguồn nhân lực,

thực trạng nguồn nhân lực và vai trò của nhà nước đối với nguồn nhân lực.
Năm 1999, tác giả Mai Quốc Chánh trong cuốn: “Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
(Sỏch tham khảo), Nxb. Chớnh trị quốc gia, Hà Nội, đó nờu lờn vai trũ của
nguồn nhõn lực và sự cần thiết phải nõng cao chất lượng nguồn nhân lực;
Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước.
Năm 2001, tác giả Phạm Minh Hạc trên cơ sở kết quả nghiên cứu của
đề tài Khoa học cấp Nhà nước, đã viết cuốn: “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội). Trong cuốn sách này tác giả đã trình bày khái quát lịch sử hình
thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế
giới và Việt Nam. Một số kết quả trong cơng trình nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực, đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát
triển tồn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Năm 2003, tác giả Lê Ái Lâm trong cuốn: “Phát triển nguồn nhân lực
thông qua giáo dục và đào tạo: Kinh nghiệm các nước khu vực Đông Á”,
(Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội) đã nêu lên một số luận giải lý thuyết cùng
những thực tiễn Đông Á và bài học kinh nghiệm trong phát triển nguồn nhân
lực thông qua giáo dục và đào tạo.
Năm 2004 tác giả Phạm Minh Hạc (chủ biên) Phạm Thành Nghị, Vũ
Minh Chi, trong cuốn: “nghiên cứu con người và nguồn nhân lực”, (Nxb.
4


Khoa học xã hội, Hà Nội) đã công bố quyết định của Chính phủ về việc thành
lập Viện Nghiên cứu con người. Một vài quan niệm và phương pháp nghiên
cứu.

Năm 2005 tác giả Trần Văn Tùng trong cuốn: “Đào tạo , bồi dưỡng và
sử dụng nguồn nhân lực tài năng - Kinh nghiệm, của thế giới” đã trình bày
những kinh nghiệm trong việc phát hiện và đào tạo, sử dụng tài năng, khoa
học và công nghệ, sản xuất kinh doanh của một số cuốc gia Châu Âu và Châu
Á.
Năm 2006, các tác giả Nguyễn Viết Vượng, Nguyễn Khắc Thanh,
Nguyễn Quang Hồng... đó cho xuất bản cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học với
chủ đề: “Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá ở Việt Nam và vai trũ của tổ chức Cơng đồn”.
Trong cuốn Kỷ yếu này, các tác giả đó giới thiệu kỷ yếu hội thảo khoa học
của Trường Đại học Cơng đồn Việt Nam bao gồm các tham luận về chủ đề
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ở Việt Nam và vai trũ của tổ chức cụng đoàn trong việc xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
Gần đây nhất năm 2007, tác giả Phạm Công Nhất (chủ biên) trong cuốn
“Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay”, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội), đã khái quát quá trình xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, những
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Đồng thời trong
cuốn sách này tác giả cũng đã bước đầu nêu lên một số phương hướng, đề
xuất các giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam trong giai đoạn đổi mới tiếp tục thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Về cơ bản tất cả các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã nghiên
cứu và trình bày các kết quả nghiên cứu về nguồn nhân lực Việt Nam một

5


cách khá tồn diện, dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay

chưa thấy có tác giả và cơng trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu và đề
xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực thể thao ở Việt Nam, đặc biệt là
các đề tài có liên quan đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đối với
nguồn nhân lực thể thao ở một trường thể thao đầu ngành như Trường Đại
học Thể dục thể thao Trung ương I - Từ Sơn, Bắc Ninh hiện nay. Đề tài luận
văn này được đặt ra và nghiên cứu nhằm bổ sung vào phần khiếm khuyết đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở luận giải và làm rõ vai trò của giáo dục và đào tạo trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thể thao, và qua khảo sát tại Trường
Đại học TDTT I - Từ Sơn - Bắc Ninh. Tác giả muốn đề xuất một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực này ở một trường đại
học cụ thể nói riêng, và tại các trường đào tạo nguồn nhân lực thể thao trong
cả nước nói chung.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nêu trên luận văn cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau: (3 nhiệm vụ)
- Làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến khái niệm nguồn nhân
lực thể thao và vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đối với nguồn
nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay.
- Phân tích khảo sát thực trạng đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực
thể thao ở nước ta qua khảo sát thực tế tại Trường Đại học TDTT I Từ Sơn Bắc Ninh.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:

6



Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực thể dục
thể thao ở Trường Đại học TDTT I Từ sơn Bắc Ninh hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu đề cập việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thể thao dưới góc độ giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, qua thực tế khảo sát
tại Trường Đại học TDTT I Từ sơn Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống các quan điểm chính sách của
Đảng và Nhà nước ta đối với việc xây dựng đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực thể thao.
* Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp lôgic- lịch sử; so sánh tổng hợp. Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các phương pháp có tính liên ngành
như: thống kê, điều tra xã hội học... để nghiên cứu và trình bày các kết quả
nghiên cứu của luận văn.

6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý
luận có liên quan đến việc xây dựng phát triển một loại hình nhân lực đặc
biệt, nguồn nhân lực thể thao.
- Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu
nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng đang đào tạo
nguồn nhân lực thể thao trong cả nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 7 tiết.

7


Chƣơng 1
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

1.1. Khái niệm và đặc điểm nguồn nhân lực thể thao
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực thể thao
Trong các nguồn lực mà lồi người hiện có và đang sử dụng trong quá
trình phát triển xã hội thì nguồn nhân lực hay nguồn lực con người có vai trị
quyết định nhất. Bởi vì "Con người là đối tượng trung tâm của sự phát triển"
đồng thời là nguồn lực chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới mọi nguồn lực của
sự phát triển "Nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực" [64,
tr.42], là tài nguyên của mọi tài nguyên. Đuke, một tổ hợp công nghiệp Mỹ
cho rằng, bí quyết thành cơng của họ về sự phát triển gồm "ba điều cốt yếu:
Trước hết là con người, kế đó là con người và sau hết cũng là con người" [36,
tr.35]. Điều này nói lên con người vừa là mục đích vừa là động lực chủ yếu
của sự phát triển.
Khái niệm nguồn nhân lực đã được các tổ chức quốc tế nêu lên. Các nhà
khoa học và trong một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ta cũng đã đưa ra
những khái niệm về nguồn nhân lực quốc gia có sự tương đồng và khác nhau nhất
định.
Liên Hiệp quốc cho rằng, nguồn nhân lực bao gồm những kiến thức, kỹ
năng và năng lực của con người có quan hệ với sự phát triển quốc gia. Quan

8



niệm này đề cập về mặt chất lượng và hoạt động của nguồn nhân lực, khơng
đả động gì tới số lượng con người của nguồn nhân lực.
Cũng như Liên Hiệp quốc, Ngân hàng thế giới đưa ra khái niệm nguồn
nhân lực, chỉ đề cập tới mặt chất lượng, không nêu về mặt số lượng con người
và thậm chí chẳng nói đến vai trò của nguồn nhân lực.
Ở nước ta, các khái niệm về nguồn nhân lực có tính cụ thể và đầy đủ
hơn. Nhìn chung, các khái niệm có sự tương đồng nhất định, song về nội hàm
cịn có sự khác biệt. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số quan niệm cịn có
sự khác biệt nhau đó:
Trong luận văn Thạc sĩ triết học của Lương Thị Hải Thảo nêu lên khái
niệm nguồn nhân lực: "Theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu "Nguồn
nhân lực con người" là tổng hợp toàn bộ các yếu tố thể chất và tinh thần của
con người, các hoạt động vật chất và tinh thần của họ, đang và sẽ tạo ra năng
lực, sức mạnh phát triển xã hội" [49, tr.12].
Nếu như khái niệm về nguồn nhân lực mà không đề cập tới số lượng
con người trong độ tuổi lao động đang và sẽ tham gia vào q trình hoạt động,
mà chỉ nói tới mặt hoạt động với mặt phẩm chất năng lực thì rõ ràng thiên về
khái niệm nhân tố con người.
GS, VS Phạm Minh Hạc quan niệm về nguồn nhân lực bao hàm cả hai
mặt: Số lượng con người và chất lượng con người. Ông cho rằng: "Nguồn
nhân lực là số lượng (số dân) và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và
tinh thần, sức khoẻ, năng lực và phẩm chất" [27, tr.24].
Một khái niệm về nguồn nhân lực khác trong Đề tài khoa học - công
nghệ cấp nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội" mang mã số KX-07, cũng thống nhất với khái niệm của
GS, VS Phạm Minh Hạc nêu ở trên, nhưng nội hàm có phần phong phú hơn:
"Nguồn nhân lực được hiểu là số dân và chất lượng con người bao hàm cả thể
chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong

cách làm việc..." [26, tr.38].

9


Thiết nghĩ hai khái niệm về nguồn nhân lực nêu trên phù hợp với cấu
trúc của sự vật, hiện tượng ở chỗ nguồn nhân lực là sự thống nhất bởi hai mặt
số lượng và chất lượng con người. Hai mặt đó khơng thể tách rời nhau. Có sự
ảnh hưởng qua lại với nhau, trong đó mặt chất lượng là quyết định sức mạnh
của nguồn nhân lực. Tuy vậy, hai khái niệm trên vẫn chưa nói tới yếu tố hoạt
động, tức là vai trò và quy định trong phạm vi độ tuổi lao động của nguồn
nhân lực. Bởi vì nguồn nhân lực không phải bao quát mọi lứa tuổi, mà chỉ
giới hạn trong độ tuổi lao động và không chỉ tồn tại, phát triển dưới dạng tiềm
năng (đang được giáo dục - đào tạo), phần lớn là đang hoạt động, đang sáng
tạo ra của cải vật chất, tinh thần.
Khái niệm nguồn nhân lực sau đây cũng có cấu trúc hợp lý và là những
con người trong độ tuổi lao động có thể huy động được: "Nguồn nhân lực là
một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật,
có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt:
về số lượng, đó là tổng số những người đang trong độ tuổi lao động và thời
gian làm việc có thể huy động được họ... Về chất lượng nguồn nhân lực, đó là
trình độ chun mơn và sức khoẻ của người lao động" [10, tr.31].
Chúng tôi tiếp thu những yếu tố hợp lý, sự cấu trúc đúng đắn của các
khái niệm về nguồn nhân lực trên đây và đề cập thêm một số yếu tố cần thiết
với sự xác định vai trò to lớn của nguồn nhân lực, xin đưa ra khái niệm như
sau: "Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người) là toàn bộ tiềm năng về dân
số, tiềm năng về lao động của một quốc gia hay cộng đồng, đang và sẽ tham
gia vào các quá trình hoạt động nhằm tạo ra các của cải vật chất và tinh thần,
nhằm thúc đẩy quá trình phát triển của quốc gia hay cộng đồng đó”.
Trong khi đưa ra khái niệm nguồn nhân lực, ngày nay do yêu cầu thúc

đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển nhanh các nhà nghiên cứu còn phát triển
mở rộng thêm nội dung khái niệm nguồn nhân lực, từ đó hình thành nên nhiều
khái niệm mới trong đó có khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao.

10


Nguồn nhân lực chất lượng cao là tổng thể các yếu tố như: Sức khoẻ,
tri thức, đạo đức và tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực, các yếu tố
này góp phần tạo nên chất lượng nguồn nhân lực, các yếu tố này có quan hệ
biên chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, tất cả các yếu tố này càng có
chất lượng thì nguồn nhân lực đó càng có chất lượng cao.
Sau đây là một số nét về thuộc tính và vai trị các yếu tố của chất lượng
nguồn nhân lực.
Sức khoẻ, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi con người kể từ
lúc sinh ra cho đến cuối đời. Đối với mỗi người, sức khoẻ còn là điều kiện
tiên quyết để mỗi cá nhân học tập tiếp nhận tri thức, kỹ năng, rèn luyện đạo
đức và tính tích cực, năng động sẵn sàng tham gia vào các hoạt động sáng
tạo. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ ra răng: "Sự cường tráng về
thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra
tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội" [19, tr.30].
Mỗi con người trong nguồn nhân lực cần có sức khoẻ để thực hiện việc
chuyển tải tri thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của mình một cách có
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh:
"Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có
sức khoẻ mới làm thành cơng" [35, tr.212]. Người cịn lưu ý mọi người:
"Muốn lao động tốt, cơng tác và học tập thì cần có sức khoẻ" [36, tr.200].
Nhưng sức khoẻ là gì ? Cần nhận rõ một cách khái quát với những tiêu
chí cơ bản, từ đó để xác định con người như thế nào là có sức khoẻ, như thế
nào là khơng có sức khoẻ. Hồ Chí Minh nêu lên khái niệm về sức khoẻ rất

sớm, từ đầu năm 1946: "Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy là
sức khỏe" [35, tr.212].
Trong khái niệm đó, Người đã nêu lên hai tiêu chí cơ bản của sức khoẻ
con người, tiêu chí thứ nhất là “khí huyết lưu thơng" và tiêu chí thứ hai "tinh
thần đầy đủ". Hai tiêu chí này có quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất biện
chứng trong khái niệm sức khoẻ.

11


Thế giới cũng đưa ra những khái niệm về sức khoẻ con người. Có
những khái niệm về sức khoẻ thể hiện sự tương đồng về nội hàm. Chẳng hạn
các nhà khoa học Mỹ năm 1968 nêu lên khái niệm: "Sức khoẻ không chỉ đơn
thuần là không bệnh tật, không yếu đuối, mà còn là trạng thái lành mạnh, đầy
đủ về thể chất, tinh thần và sự thoải mái về xã hội" [23, tr.3]. Mười năm sau,
năm 1978, trong tuyên ngôn AlmaAta Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã thống
nhất và đưa ra quan niệm mới về sức khoẻ. Theo đó: "Sức khoẻ là trạng thái
thoải mái cả về thể chất lẫn tâm thần xã hội chứ không chỉ đơn thuần là tình
trạng khơng bị bệnh tật hay khơng bị chấn thương [43, tr. 34].
Sức khoẻ con người với những tiêu chí cơ bản như các khái niệm nêu
lên ở trên đây đối với con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng thì ai
cũng có thể chăm sóc, rèn luyện, giữ gìn để có được. Mỗi người phải biết quý
trọng sức khoẻ tức là quý trọng sự tồn tại và phát triển của cá nhân mình, của
cộng đồng, để cho cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp, đầy ý nghĩa. Bởi vì con
người có sức khoẻ là có thêm một nội lực thúc đẩy mạnh mẽ ý chí. Sự quyết
tâm, phấn khích trong học tập, trong mọi hoạt động có kết quả tốt.
Để có sức khoẻ cả thể chất và tinh thần, mỗi người trong nguồn nhân
lực ngoài các điều kiện sống như ăn, mặc, ở đầy đủ, với điều kiện môi trường
tự nhiên, môi trường sinh thái trong lành, mơi trường xã hội lành mạnh,
phương tiện phịng bệnh, chữa bệnh tốt, thì ai cũng cần thiết dành một số thời

gian nhất định hằng ngày cho việc rèn luyện thân thể, vui chơi thể thao. Thời
gian dành cho sự rèn luyện sức khoẻ, tinh thần đó khơng bao giờ hồi phí nó
đem lại lợi ích to lớn đối với mỗi con người, cộng đồng và toàn xã hội, trong
hiện tại và cả tương lai.
Tri thức, là sự hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân
con người. Mỗi người trong nguồn nhân lực ai cũng cần thiết sở hữu một vốn
tri thức nhất định, nhiều hay ít phụ thuộc vào sự học tập, nghiên cứu của mỗi
cá nhân. Tri thức được trang bị, thu nhận từ trong nhà trường phổ thông các
cấp, cao hơn là ở các bậc đại học, trên đại học. Tri thức của mỗi người trong

12


nguồn nhân lực vừa được tiếp nhận, tích luỹ trong nhà trường, vừa được thu
nhận trong hoạt động thực tiễn.
GS.V.S Hoàng Trinh viết rằng: "Tri thức là những hiểu biết tổng kết
kinh nghiệm, do tiếp xúc, do học hỏi đưa lại, giúp con người hiểu biểu, khám
phá và sáng tạo, một yêu cầu cơ bản của sự nghiệp dựng nước, cứu nước và
sự nghiệp phát triển nói chung" [53, tr.31].
Tri thức quyết định sự học hỏi, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp , quyết
định sự vận dụng, sáng tạo của chủ thể trong các hoạt động sống, trong hoạt
động thực tiễn. Tri thức là một loại hình tinh thần, tồn tại trong đầu óc con
người, quyết định hành động có mục đích của con người "Tất cả những gì
thúc đẩy con người hành động đều tất yếu phải thông qua đầu óc của họ" [33,
tr.409].
Đầu tư tri thức cho nguồn nhân lực chính là đầu tư cho sự phát triển.
Theo GS Vũ Đình Cự: "Các cơ quan nghiên cứu của Liên Hợp Quốc trong đó
có Ngân hàng thế giới đã rút ra kết luận rằng, sự phát triển là do biết dựa vào
tri thức. Một số nước nghèo chưa biết dựa vào tri thức thì vẫn kém phát triển,
vẫn nghèo... Việc biết sử dụng tri thức để phát triển, kể cả phát triển nhanh,

trở thành một sự thật hiển nhiên" [12, tr.4]. Nguồn nhân lực được giáo dục đào tạo có tri thức tiếp cận với sự phát triển sẽ trở thành một nhân tố mạnh
trong cạnh tranh và hội nhập.
Kỹ năng nghề nghiệp, tức là chuyên môn, nghiệp vụ thành thạo. Ngày
nay ở nước ta có hàng trăm ngành nghề, ngành nghề nào cũng đòi hỏi sự vận
hành, thao tác thành thạo của con người. Mọi sản phẩm vật chất và tinh thần
xuất phát từ những con người thành thạo nghề nghiệp làm ra.
Nhân dân giàu có, nước nhà phú cường là nhờ sự sáng tạo của khối óc
thơng minh, sáng tạo và bàn tay thành thạo nghề nghiệp của nguồn nhân lực
hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sức khoẻ, tri thức là điều kiện tất yếu, thường xuyên cho sự tiếp thu,
trau dồi kỹ năng nghề nghiệp của con người. Nhưng chính kỹ năng nghề

13


nghiệp của con người tự nó khơng tạo ra được các giá trị vật chất, tinh thần
mà phải thông qua hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn khơng chỉ tạo ra các
giá trị vật chất, tinh thần cho nhân dân, cho đất nước mà còn kiểm định, đánh
giá kỹ năng nghề nghiệp của con người, của nguồn nhân lực.
Khoa học công nghệ đang phát triển mạnh ở nước ta, kinh tế tri thức
ngày càng được con người quan tâm, nghĩa là thực tiễn địi hỏi nguồn nhân
lực có kỹ năng nghề nghiệp vững vàng, tinh thông được sàng lọc và rèn luyện
từ trong hoạt động. Học tập trong nhà trường mới chỉ là lý thuyết, sử dụng lý
thuyết vào hành động sáng tạo sẽ giúp con người những gì là đúng, những gì
chưa đúng trong nhận thức của mình, giúp cho nguồn nhân lực ngày càng có
kinh nghiệm và nâng cao chất lượng nghề nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt
động và hiệu quả của lao động sáng tạo.
Đạo đức và tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực. Đây là hai
yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau. Con người có đạo đức thì tính tích cực
vì lợi ích chung mới phát sinh, phát triển. Ngược lại tính tích cực vì lợi ích

chung thể hiện đạo đức mới của người lao động.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của con người, gốc có vững bền thì
cây mới tốt tươi. Đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội, là giá trị tinh
thần cao đẹp của con người, của xã hội. Đạo đức không trực tiếp tạo ra các
giá trị vật chất, văn hoá, song nó là cội nguồn của mọi hoạt động tích cực,
sáng tạo vì lợi ích của tồn xã hội. Đồng thời đạo đức hướng con người tạo
dựng nên cuộc sống cộng đồng, bình đẳng, bác ái, nhân hồ, tươi đẹp, con
người sống khoẻ mạnh hơn, hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.
Bởi vậy, mỗi người trong nguồn nhân lực được "vun trồng" đạo đức
tốt thì dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam tăng thêm sức mạnh hạnh
phúc và chóng phú cường.
Tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực tức là tinh thần ý thức
tự giác hoạt động, lao động, học tập siêng năng, sáng tạo vì lợi ích chung, lợi
ích cộng đồng và bản thân. Mỗi người trong nguồn nhân lực nếu ai cũng có

14


tính tích cực, năng động trong mọi cơng việc thì đó là động lực to lớn thúc
đẩy nhanh chóng hơn sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thiếu tính
tích cực cá nhân thì dù người lao động được đào tạo nghề nghiệp tốt cũng
thiếu đi một yếu tố sức mạnh thể chất và tinh thần làm hạn chế hiệu quả hoạt
động sáng tạo. Chính vì thế mà văn hố trong đó văn hố con người có ý
nghĩa quyết định trong mối quan hệ vững bền với sự phát triển kinh tế - xã hội
(văn hoá và phát triển).
Trên đây là các yếu tố hoặc các thành phần tạo dựng lên chất lượng
nguồn nhân lực, các yếu tố đó có mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Tất cả các yếu tố đó càng có chất lượng thì nguồn nhân lực cũng có chất
lượng cao. Chăm lo chất lượng nguồn nhân lực chính là chăm lo các yếu tố
sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức và tính tích cực của con

người, đó là sự chăm lo sức mạnh của nguồn nhân lực, chăm lo vai trò quyết
định của nguồn nhân lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sức mạnh của nguồn nhân lực có hai mặt: lượng và chất. Lượng là số
người của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của nước ta hiện nay có số người
trong độ tuổi lao động rất đơng đảo, đó là một lợi thế là sức mạnh để phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy chất lượng của nguồn nhân lực tạo ra sức mạnh
to lớn hơn nhiều so với sức mạnh của số lượng người đông đảo nhưng kém về
chất lượng. Như vậy nguồn nhân lực vừa có sức mạnh về lượng vừa có sức
mạnh về chất: "Sức mạnh của nguồn lực con người bởi sự thống nhất giữa hai
mặt chất và lương, trong đó mặt chất có vai trò lớn hơn" [58, tr.19].
Thế giới và nước ta hiện nay rất chú trọng nâng cao chất lượng dân số
là nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách thường
xuyên, liên tục. Do đó cần phải không ngừng thúc đẩy sự nâng cao chất lượng
dân số để ngày càng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối với sự gia tăng
dân số thì phải hợp lý, không nhanh quá mà cũng không chậm quá. Sự gia
tăng dân số nhanh quá thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nếu sự gia tăng dân số chậm quá thì sẽ dẫn tới sự thiếu hụt nguồn nhân

15


lực để phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên Nhà nước có chính sách điều tiết sự
gia tăng dân số phải hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, nhằm đảm bảo sức mạnh của nguồn nhân lực về lượng và nhất
là về chất. Chính vì vậy, trong cuốn “ Con người và nguồn lực con người”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội), tác giả dẫn: "Sự phát triển nhanh chóng
kinh tế - xã hội và kỹ thuật khơng chỉ cần một số lượng lớn lao động mà còn
yêu cầu cao hơn về chất lượng của người lao động" [65, tr.40]. Tinh thần này
cũng nhằm đáp ứng với một xu thế lớn của thời đại đặc trưng cho vai trò thập
kỷ đầu của thế kỷ XXI: tồn cầu hố, cơng nghệ cao, nhất là công nghệ thông

tin, kinh tế tri thức, xã hội thông tin.
Nguồn nhân lực của nước ta hiện nay có số lượng người đơng đảo do
quy mơ dân số lớn. Đó là lợi thế và có sức mạnh về lượng. Tuy vậy, chất
lượng của nguồn nhân lực nước ta hiện nay rất hạn chế. Chất lượng của nguồn
nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng giáo dục - đào tạo. Giáo dục - đào
tạo của nước ta hiện nay còn nhiều yếu kém. Theo báo cáo của Ngân hàng thế
giới (WB) năm 2006, giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu so với các nước
trong khu vực, hàng cuối cùng so với các nước Châu Á. Giáo dục nước ta
đang yếu kém như vậy cho nên đào tạo ra nguồn nhân lực quốc gia chất lượng
rất thấp. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2005, chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam xếp thứ 53 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Bởi
vậy cần phải đổi mới nền gnh thức quản lý này, giảng
viên đánh giá, xác định điểm ý thức học tập của sinh viên đối với môn học
phần.
Hai là, quản lý sinh viên các giờ thảo luận, tự học. Hình thức quản lý
này nhằm thúc đẩy sinh viên tính tích cực, năng động, sáng tạo trong học tập,
tiếp nhận kiến thức phong phú hơn.
Giờ thảo luận của sinh viên trên lớp do giảng viên điều hành, quản lý.
Nhưng giờ tự học của sinh viên do giảng viên yêu cầu, quy định như tham
khảo tài liệu, đọc sách giáo khoa giáo trình, làm bài tập, viết tiểu luận thì
giảng viên quản lý phải thông qua Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn
thanh niên.
Tự học của sinh viên ngoài giờ quy định của giảng viên, của nhà
trường thì chủ yếu là do tính tự giác của sinh viên, do thời gian nhàn rỗi của
sinh viên khơng ai có thể ép buộc được, đó chỉ là sự động viên khun bảo mà
thơi. Tự học của sinh viên do đó là hoạt động do bản thân người học quyết
định, thực hiện và điều chỉnh một cách tự giác, tích cực, nhằm đạt tới các mục
tiêu do giảng viên và bản thân đề ra.
Thông qua hình thức quản lý này để giảng viên xác định, cho điểm ý
thức học tập của sinh viên một cách chính xác và tồn diện hơn.

Ba là, quản lý sinh viên làm bài kiểm tra giữa kỳ. Bài kiểm tra giữa kỳ
sẽ được chấm điểm, cho nên giảng viên coi kiểm tra phải nghiêm túc, chặt
chẽ.

76


Thơng qua bài kiểm tra giữa kỳ để tính điểm giữa kỳ của học phần.
Hiện nay hầu hết các giảng viên của Trường Đại học Thể dục thể thao I xác
định điểm giữa kỳ chỉ căn cứ vào điểm của bài kiểm tra. Chúng tôi đề xuất
việc cho điểm giữa kỳ phải căn cứ không chỉ điểm của bài kiểm tra mà cần
tham khảo cả chất lượng của các bài tập, các tiểu luận hoặc các lần trả lời của
sinh viên. Có như vậy điểm giữa kỳ mới xác đáng và khách quan.
Ba hình thức quản lý trên của người giảng viên giúp sinh viên học tập
có kết quả tốt và giúp giảng viên xác định được hai loại điểm một cách đúng
đắn, đó là điểm ý thức học tập và điểm giữa kỳ. Theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, điểm học phần là tổng của điểm ý thức, điểm giữa kỳ và điểm
thi học phần. Tỷ lệ của mỗi loại điểm đó thì do các trường đại học, cao đẳng
tự quyết định. Trường Đại học Thể dục thể thao I xác định như sau: Điểm ý
thức tối đa 10%, điểm giữa kỳ tối đa 30%, điểm thi học phần tối đa 60%, song
tỷ trọng của điểm ý thức thì hơi thấp, cần nâng lên 20% để nhằm phát huy
tính tích cực và ý thức học tập của sinh viên. Còn điểm giữa kỳ nên giảm
xuống, chỉ cần 20% là đúng đắn.
3.2.7. Giải pháp về tăng cường xây dựng, phát triển các bộ môn vững mạnh

Bộ môn là cơ sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của
nhà trường. Việc xây dựng và phát triển các bộ môn vững mạnh là một trong
những nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thúc đẩy nhanh và có hiệu quả tiến
trình nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I có 18 bộ mơn, trong đó

một số bộ mơn tương đối mạnh cả về chất lượng, số lượng, với năng lực quản
lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Song đa số các bộ mơn cịn hạn chế vả
về chất lượng và số lượng. Khơng ít bộ mơn chưa giảng viên nào (kể cả
trưởng, phó bộ mơn) có bằng tiến sỹ, thậm chí có một số bộ mơn chưa giảng
viên nào (kể cả trưởng, phó bộ mơn) có trình độ trên đại học. Có một số bộ
mơn chỉ có 2 đến 3 giảng viên trẻ dạy cả đại học chính quy và đại học tại
chức, trong và ngồi trường rất vất vả. Có bộ mơn chỉ có 3 người mà có tới 2
người quản lý (một trưởng và một phó bộ mơn). Tình hình như vậy dẫn đến

77


hiện trạng khơng ít bộ mơn năng lực quản lý, thực hiện các nhiệm vụ giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, hiệu quả thấp.
Bởi vậy tăng cường xây dựng và phát triển các bộ môn vững mạnh là
một trong những giải pháp cấp thiết, nhất là đối với những bộ môn còn yếu cả
về chất và số lượng, về con người quản lý.
Vấn đề đưa ra những giải pháp trên đây đã qua khảo sát, điều tra xã hội
học, đối tượng là giảng viên trong đó có các trưởng bộ mơn, các tiến sĩ, thạc
sĩ, giảng viên chính, giảng viên lâu năm và giảng viên trẻ. Chúng tôi dự kiến
10 giải pháp (xem phụ lục), nhưng có 7 giải pháp được lựa chọn đề xuất trên
đây do số giảng viên nhất trí cao, cụ thể: giải pháp thứ nhất có 96,6% số giảng
viên nhất trí, giải pháp thứ hai có 93,3% số giảng viên nhất trí, giải pháp thứ
ba có 100% số giảng viên đồng ý, giải pháp thứ tư có 100% số giảng viên
nhất trí, giải pháp thứ năm có 80% số giảng viên, giải pháp thứ sáu và giải
pháp thứ bẩy có tới 100% số giảng viên nhất trí. Như vậy 7 giải pháp đó được
sự đồng tình cao của lực lượng giảng viên Trường Đại học Thể dục thể thao I.
Trên đây là 7 giải pháp chủ yếu, Trường Đại học Thể dục thể thao I
cũng như các trường đại học Thể dục thể thao khác của nước ta có thể tham
khảo áp dụng vào trong cơng tác giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực TDTT hiện nay. Chúng tôi tin rằng 7 giải pháp đó có tính khả
thi khơng chỉ trước mắt mà trong nhiều năm tới.

78


79


KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực thể thao là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia.
Với bản chất và vai trị của mình, nguồn nhân lực thể thao góp phần tích cực
vào việc đào tạo và tăng cường nguồn nhân lực to lớn của đất nước có chất
lượng cao. Để làm tốt sứ mạng đó nguồn nhân lực thể thao phải được đào tạo
ra có chất lượng tốt từ trong các trường đại học thể dục thể thao, trong các
trường đại học sư phạm thể dục thể thao, trong các khoa của các trường đại
học và cao đẳng sư phạm của nước ta. Trong số các trường đại học đó, trường
đại học thể dục thể thao I có vai trị và vị trí quan trọng nhất, đã đang và sẽ
đào tạo ra nguồn nhân lực thể thao đông đảo, đủ các loại hình thiết yếu.
Trường Đại học Thể dục thể thao I từ ngày thành lập đến nay đã gần 50
năm đào tạo ra được nguồn nhân lực đông đảo góp phần quan trọng phục vụ
sức khoẻ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, tăng
cường cán bộ TDTT cho ngành TDTT và các ngành giáo dục, quân đội, công
an, xây dựng và phát triển các trường đại học TDTT và đại học sư phạm
TDTT cả ba miền Bắc - Trung - Nam của Tổ quốc.
Tuy vậy nguồn nhân lực thể thao do Trường Đại học Thể dục thể thao I
đào tạo ra cũng còn những hạn chế nhất định chủ yếu là về chất lượng do việc
dạy và học chậm đổi mới về chương trình, nội dung mơn học và phương pháp
giảng dạy. Chất lượng nguồn nhân lực thể thao do Trường Đại học Thể dục
thể thao I đào tạo ra vẫn còn thấp trước sự đòi hỏi của nhiệm vụ tăng cường

sức khoẻ nhân dân, nhất là tuổi trẻ, nhằm phát triển nguồn nhân lực của đất
nước có chất lượng cao.
Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I xác đinh trọng tâm của
mọi hoạt động trong nhà trường phải nhằm đáp ứng cho công tác nâng cao
chất lượng giáo dục vào đào tạo nguồn nhân lực thể thao, triển khai việc mở
rộng quy mô đào tạo do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu phát triển
sự nghiệp TDTT của đất nước đặt ra, với nhiệm vụ chủ yếu là: Nâng cao chất

80


lượng giáo dục đào tạo các loại hình nguồn lực con người đảm trách công tác
TDTT quần chúng (nhất là đối với những người lao động), TDTT trong các
lực lượng vũ trang, TDTT trường học, huấn luyện viên thể thao và vận động
viên tài năng trẻ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên đây, Trường Đại học Thể dục thể thao I
cần thực hiện phương hướng và các giải pháp chủ yếu như: Giáo dục - đào tạo
phải đồng bộ về loại hình, chương trình nội dung đào tạo, tăng cường áp dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ, gắn với thực tiễn hoạt động TDTT, với 7
giải pháp chính là: đổi mới nội dung các môn học và phương pháp dạy và
học, tăng cường chất lượng đội ngũ giảng viên, coi trọng hơn nữa việc phát
hiện và đào tạo tài năng trẻ, tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường phát triển
các bộ môn vững mạnh, tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên.
Việc thực hiện có kết quả tốt phương hướng, nhiệm vụ với áp dụng các
giải pháp trên đây, từ nay đến năm 2020, Trường Đại học Thể dục thể thao I
chắc chắn sẽ nâng cao hơn nữa vị thế của mình về cơng tác giáo dục - đào tạo
nguồn nhân lực thể thao chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố vì dân giàu nước mạnh, và góp phần quan trọng nâng
cao thành tích thể thao Việt Nam ở khu vực, từng bước tiến lên sánh vai với
các cường quốc thể thao trên thế giới.


81


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đặng Nguyên Anh (2006), “Biến đổi dân số thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội, (3).

2.

Phạm Ngọc Anh (1995), “Quyền lực con người - nhân tố quyết định q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).

3.

Alvin Toffler (1992), Cú sốc tương lai, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.

4.

Bàn về chiến lược phát triển con người (1990), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

5.

Hồng Chí Bảo (1998), “Con người mới xã hội chủ nghĩa - lý luận và
phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Triết học, (2).

6.


Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học Dùng trong các trường đại học và cao đẳng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

7.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tuyển tập nghiên cứu khoa học giáo
dục thể thất, y tế trường học, Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

8.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin
(Dùng cho các khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các
trường đại học, cao đẳng), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2000), Thực trạng lao động và
việc làm ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

10. Bộ môn Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân (1997), Giáo trình
Kinh tế học phát triển, Hà Nội.

82


×