1
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN
TẠI CÔNG TY CP VẬN TẢI BIỂN BẮC.
3.1. Đánh giá tổng quát công tác kế toán chi phí và tính giá thành dịch
vụ vận chuyển tại Công ty
3.1.1. Thành tựu đạt được
Trước hết, có thể thấy công tác kế toán nói chung và kế toán giá
thành nói riêng tại Nosco đang được tổ chức khá tốt và chặt chẽ với
nhiều ưu điểm trong công tác tổ chức chứng từ và phản ánh các
nghiệp vụ phát sinh.
Về hình thức sổ Chứng từ ghi sổ tại phần hành kế toán tổng hợp
chi phí giá thành đã được sử dụng khá linh hoạt và phù hợp với ngành
nghề kinh doanh của công ty, thể hiện ở khâu chứng từ, luân chuyển
chứng từ làm căn cứ ghi sổ cũng như việc đối chiếu các sổ sách kế
toán. Việc thiết kế các trang sổ kế toán chi phí giá thành cũng không
quá rập khuôn theo mẫu của chế độ mà có sự vận dụng linh hoạt phù
hợp với diều kiện ghi chép và tổng hợp thông tin kế toán tại công ty.
Hệ thống tài khoản kế toán chi phí giá thành được mở hợp lý và đảm
bảo yêu cầu của chế độ kế toán quy định đồng thời phù hợp với lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ vận tải biển.
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
2
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
Đối tượng và phương pháp kế toán trong tổng hợp giá thành đơn
giản, thuận tiện cho việc ghi chép và lập báo cáo kịp thời theo quy
định của công ty. Việc hạch toán các khoản phí đặc biệt các khoản phí
ước tính đảm bảo linh hoạt và hợp lý như trích trước các khoản chi
lớn, dự phòng cho việc sút giảm doanh thu và phân bổ chi phí có tính
chất sử dụng trong nhiều kỳ.
Việc hạch toán chi phí nhiên liệu trực tiếp về thực chất là kiểm kê
định kỳ, kế toán chỉ ghi hàng ngày các nghiệp vụ mua nhiên liệu. Đến
cuối tháng mới cân đối với lượng nhiên liệu tồn trên các phương tiện
để ghi số xuất dung. Tuy nhiên trong hạch toán vẫn chỉ sử dụng tài
khoản 621 cho các nghiệp vụ kết chuyển tồn đầu quý, mua thêm trong
quý và còn lại cuối quý trong khi chế độ cần sử dụng thêm tài khoản
611. Như vậy thể hiện sự vận dụng linh hoạt chế độ của kế toán công
ty làm giảm nhẹ công tác kế toán.
Do dặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty nên việc tổ chưacs
bộ máy theo hình thức kế toán phân tán là hợp lý. Cuối mỗi quý, các
đơn vị cơ sở, chi nhánh sẽ thực hiện việc báo sổ kế toán về công ty.
Ban lãnh đạo và kế toán trưởng vẫn thường xuyên xuống các đơn vị
cơ sở, các chi nhánh để đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác kế
toán ở từng đơn vị, chi nhánh.
3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Ngoài những ưu điểm trên, tại công ty vẫn còn tồn tại một số ít
nhược điểm chưa hợp lý trong công tác kế toán. Như việc hạch toán
các khoản chi phí chưa thực sự hợp lý với đặc điểm sản xuất kinh
doanh của công ty, với các khoản chi phí lớn việc tập hợp chưa đồng
đều giữa các kỳ..
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
3
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
Tuy nhiên, đây là điều khó tránh khỏi trong thực tế. Vì vậy công ty
cần khắc phục những nhược điểm trong thời gian tới để hoàn thiện
công tác kế toán của công ty, đem lại hiệu quả và lợi nhuận lớn nhất
cho công ty.
3.2. Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành dịch vụ vận chuyển tại
Công ty
3.2.1. Về tổ chức sổ sách kế toán
Nosco tổ chức sổ theo hình thức chứng từ ghi sổ. Theo hình thức
này, những sổ sách kế toán công ty cần mở để theo dõi phần hạch
toán chi phí giá thành:
- Chứng từ ghi sổ
- Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
- Các sổ chi tiết chi phí 621, 622, 627
- Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 (631)
- Thẻ tính giá thành
Tuy nhiên tại Nosco hiện nay trong công tác hạch toán chi phí tính
giá thành không sử dụng sổ cái tài khoản 154 và thẻ tính giá thành, từ
đó ảnh hưởng tới việc tập hợp đối chiếu số phát sinh và tính giá thành
từng quý.
3.2.2. Về đối tượng hạch toán giá thành
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
4
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
Đối tượng hạch toán giá thành hiện thời tại công ty là phần dịch
vụ mỗi tàu thực hiện được một quý trong khi Nosco ký các hợp đồng
theo chuyến. Trong thực tế, các chuyến hàng của một tàu có thể khác
nhau về tuyến đường, chi phí nhân công, chi phí dừng đỗ, thời gian
nghỉ tại các cảng hay điều kiện an toàn, điều kiện thời tiết…Thực chất
đây chỉ là liệt kê các chi phí phát sinh trong quý và không có mối liên
hệ với kế quả: chẳng hạn với lượng chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp
đã thực hiện vận chuyển được bao nhiêu tấn hàng trong bao nhiêu hải
lý. Do đó, việc tổng hợp chung các chi phí của nhiều chuyến trong một
quý sẽ ít có ý nghĩa về quản trị, đặc biệt trong việc định giá cho hợp
đòng cũng như các phương pháp để hạ giá thành. Đây là điều quan
trọng để giúp doanh nghiệp có thể thích ứng với thị trường cạnh tranh
khốc liệt hiện nay trên thế giới cũng như trong nước.
Từ đó, công ty nên có thêm việc hạch toán giá thành theo từng
hợp đồng hoặc từng chuyến vận chuyển cho khách hàng. Đối tượng
hạch toán giá thành sẽ là từng đơn hàng. Đơn vị giá thành là một đơn
hàng.
Giá thành của từng chuyến bao gồm tất cả các chi phí đã phát
sinh để tạo nên dịch vụ hoàn thành, cụ thể:
- chi phí nhiên liệu trực tiếp: kế toán hạch toán tương tự như khi
hạch toán giá thành theo từng quý: là nhiên vật liệu đã bỏ ra để thực
hiện dịch vụ nhưng chỉ tập hợp chi phí nhiên vật liệu trực tiếp cho một
đơn hàng cụ thể
- Chi phí nhân công trực tiếp: kế toán tính tiền lương thuyền viên
thay vì số ngày trong tháng sẽ là số ngày của chuyến.
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
5
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
- chi phí sản xuất chung bao gồm 2 loại phí sau:
+ chi phí cần phân bổ bao gồm: khấu hao, trích trước sữa chữa,
tiền bảo hiểm phương tiện…một quý tàu có thể thực hiện nhiều đơn
đặt hàng. Do đó các chi phí này có thể phân bổ cho các chuyến theo
tiêu thức số ngày tàu chậy một chuyến hoặc lượng nhiên liệu tiêu thụ
một chuyến.
Chẳng hạn trong quý IV/2008 tàu Thiền Quang thực hiện được 4
đơn đặt hàng: chuyến hàng thứ nhất được bắt đầu vào 17/09 đến
12/10, chuyến thứ hai mất 35 ngày, chuyến thứ ba mất 18 ngày.
Chuyến thứ tư đang thực hiện và cuối tháng 12 chưa hoàn thành. Chi
phí khấu hao có thể được phân bổ như sau:
Chi phí khấu hao phân bổ
cho chuyến 1
=
Khấu hao một quý
x 12 ngày
90 ngày
Tương tự tính được chi phí khấu hao phân bổ cho chuyến hàng thứ 2, thứ 3 và thứ 4.
Chi phí còn lại là cước, cảng phí…của chuyến nào sẽ được hạch
toán thẳng vào chi phí cho chuyến đó.
Việc báo cáo hàng quý về giá thành trong tháng có thể được thực
hiện như sau:
Giá thành của
quý báo cáo
=
Chi phí dở
dang quý trước
+
Chi phí phát
sinh trong quý
-
Chi phí dở
dang quý này
Chi phí dở dang của quý là các chi phí đã chi cho các đơn hàng trong quý nhưng dịch vụ chưa hoàn
thành cũng được xác định theo từng yếu tố giống như trên.
Và ta có bảng tính giá thành theo đơn đặt hàng như sau:
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
6
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
Biểu 3.1: BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH THEO ĐƠN ĐẶT HÀNG
Đối tượng: Hợp đồng số HĐ 0235
Ngày bắt đầu:17/09
Ngày hoàn thành: 12/10
Số lượng 10000 tấn hàng
Quý Tên tàu
Chi phí
nhiên liệu trực
tiếp
Chi phí
nhân công trực
tiếp
Chi phí sản
xuất chung
C
ộng
Quý
IV/2008
Thiền
Quang
Tổng giá
thành
Giá thành
đơn vị
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A
7
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Quốc Trung
Việc hạch toán giá thành theo đơn đặt hàng có thể giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc lập
các báo cáo quản trị và định giá cho hợp đồng dịch vụ. Mặt khác, giá thành của dịch vụ tại Nosco trong quý
được đưa thẳng vào giá vốn do đó cách hạch toán theo chuyến như trên sẽ tương thích hơn với doanh thu.
3.2.3. Về cách phân loại chi phí
Dù phân loại chi phí theo tiêu chuẩn nào thì trước hết cách phân
loại chi phí đó phải khoa học, chính xác, đáp ứng yêu cầu quản lý
trong doanh nghiệp. Việc phân loại chi phí một cách khoa học và hợp
lý không những có ý nghĩa trong công tác quản lý chi phí mà còn đáp
ứng yêu cầu của công tác hạch toán, kiểm tra và đề ra các biện pháp
cụ thể.
Trong cách phân loại chi phí của Nosco chưa tách chi phí lãi vay
dài hạn ra thành một khoản mục mà cho vào chi khác. Đây là khoản
chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn, bởi công ty đầu tư một khoản rất lớn
vào phương tiện vận tải bằng nguồn vốn vay dài hạn, nên cần được
theo dõi riêng theo một khoản mục tưng tự như khoản mục chi phí bảo
hiểm phương tiện.
3.2.4. Về hạch toán chi phí lao động trực tiếp
Khi hạch toán chi phí lao động trực tiếp, kế toán tiến hành tổng
hợp chi phí nhân công trực tiếp từ bảng thanh toán lương thuyền viên
do phòng lao động gửi tới, do đó có thể gặp nhiều nhầm lẫn và không
có tác dụng tự kiểm tra giữa tính toán các chi phí trích theo lương với
việc ghi sổ sách tổng hợp. Bên cạnh đó thì theo phân công ở Nosco
kế toán lương và các khoản trích theo lương được hạch toán bởi hai
người, do đó kế toán trước khi vào sổ chi phí nhân công trực tiếp nên
mở thêm bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương từ
bảng thanh toán lương như sau:
SV: Trần Thị Thu Trang Kế toán 47A