Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 17 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
An Vinh là một xã miền núi đặc biệt khó khăn của huyện An Lão, tỉnh
Bình Định. Cách trung tâm huyện 21 km về hướng Tây Bắc; phía Bắc giáp
xã An Dũng, phía Nam giáp xã An Quang, phía Đơng giáp xã An Trung,
phía Tây giáp xã Ba Le (huyện Ba Tơ, tinh Quảng Ngãi). Địa hình chủ yểu
núi non hiểm ừở, đồi cao không bằng phẳng, bị chia cắt bởi nhiều con sông,
suối; đất đồi núi chiếm 91,92% điện tích tồn xã, gây khó khăn cho sản xuất
nơng nghiệp. Diện tích tự nhiên 8.493 ha, trong đó 494 ha đất sản xuất nông
nghiệp (riêng đất sản xuất lúa 98 ha), đất lâm nghiệp 143 ha, các loại đất
khác 7.856 ha. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa khô bắt đầu
từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm. Toàn xã có 7 thơn nằm rải rác dọc sông
Đinh và sơng Rấp, có 477 hộ với 1.795 khẩu, 100% là dân tộc Hrê (nam 869
người, nữ 926 người). Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 76,52%.
Canh tác nương rẫy và lúa nước của người Hrê
Người Hrê vốn là cư dân làm nương rẫy, trước khi xuất hiện lúa nước
thì lúa rẫy là nguồn sinh kế quan trọng nhất. Hiện nay, ờ các vùng cao, đất
dốc hoặc khơng có đất sản xuất, đồng bào vẫn chọn phương thức canh tác
nương rẫy. Ở xã An Vinh, chi cịn thơn 6 người dân còn duy trì hình thức
nương rẫy. Năng suất thu hoạch từ nương rẫy khá khiêm tốn và bấp bênh,
phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Trong sản xuất nương rẫy người Hrê thường
tin vào ma thuật và những nghi lễ có tính chất hỗ trợ, cầu mong mùa màng
tươi tốt và thực hành nghi lễ cúng tế, điển hình nhất cho các nghi lễ này là
thờ cúng Thần Lúa, một vị thần có chức năng quan trọng đối với sự no đủ
của mùa màng.
Người Hrê đã biết trồng lúa nước từ rất sớm, họ tận dụng những vùng
đất khá màu mỡ dưới thung lũng dọc các con suối. Việc canh tác và chế tạo
các công cụ lao động khá thành thục, những quy trình kỹ thuật từ gieo mạ,
cày bừa, cấy, làm cỏ, thu hoạch lúa cũng giống như của người Kinh ờ đồng
bằng tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi với hai vụ lúa đông xuân và hè thu.
Người Hrê đã du nhập kỹ thuật trồng lúa nước từ các cộng đồng tộc người
xung quanh, cụ thể là người Kinh và người Chăm.
Quan niệm và tín ngưỡng của người Hrê
với thế giới thần thánh. Tuy nhiên, bản thân họ không thể nào kết nối trực
tiếp với các thần mà phải thông qua một thầy cúng (pạjàu) là người có khả
năng thơng ngơn, nối kết thế giới thần linh với thế giới con người. Thế giới
âm phủ của người Hrê khá phức tạp, được phân chia thành phủ đất và phủ
nước. Phủ đất là nơi các linh hồn (mahoa) trú ngụ, nơi các linh hồn có thể đi
lang thang khi ngủ. Khi thành viên trong gia đình bị ốm đau, họ cho rằng
Từ hệ thống quan niệm về trật tự thế giới như trên, cho thấy người Hrê
đã có một cái nhìn hệ thống tổng hòa các mối quan hệ giữa con người và thế
giới xung quanh tcong mối tương quan đối lập: thần tốt - thần xấu; linh hồn
tốt - linh hồn xấu. Đối với các thần tốt, nếu con người làm các vị thần tức
giận, thần sẽ giáng bất hạnh xuống con người, và do vậy, con người phải
thường xuyên cúng tế và cầu khấn. Mỗi vị thần và mỗi lồi ma quỷ cũng đều
có những tiểu hệ thống nhỏ hơn với các phân cấp giống như thế giới con
người. Cả thế giới là sự gắn kết và tương tác lẫn nhau giữa các hệ thống này,
con người là trung gian và đóng vai trò quan ứọng trong việc duy trì sự cố
kết và tạo ra mối quan hệ giao hảo với các lực lượng thần linh, ma quỷ.
<i><b>1.1. Quan niệm của người H rê về Thần Lúa</b></i>
Với người Hrê, Bà Thần Lúa khơng có hình thù rõ ràng, Bà hay xuất
hiện trong các giấc chiêm bao về mùa vụ. Cũng như các tộc người Trường;
Sơn -Tây Nguyên, các giấc chiêm bao đóng một vai trò quan trọng trong;
cuộc sống hàng ngày, người Hrê tin rằng các giấc chiêm bao là những điềm
báo mà các thần linh (Yeang) nhắn gửi để họ thực hiện các công việc liên
quan đến sản xuất nương rẫy. Yeang Sarì là một nữ thần cùa mùa màng, củat
cây lúa, Bà có một mối quan hệ gắn kết với người phụ nữ chù nhà, cũng là:
người có trách nhiệm trơng coi kho lúa. Yeang Sarì đi theo người phụ nữ này
Tùy theo mỗi giai đoạn của sản xuất nương rẫy, nơi cư trú của Yeang
Sarì ln thay đổi để phù hợp với nhiệm vụ mà cộng đồng tộc người tin
tường và “gán cho” Bà. Khác với các tộc người khác, Yeang Sarì của người
Hrê khơng chì trú ẩn ờ một nơi nhất định nào đó, mà quá trình chuyển đổi
này phản ánh nhận thức của cộng đồng về vai trò của Bà Thần Lúa đối với
chu kỳ vòng tròn của hạt lúa. Tư duy về sự gắn kết giữa các giai đoạn vịng;
đời của một hạt lúa với tính chất âm sinh, nữ tính của Mẹ lúa hàm chứa một
nguyên lý sâu sa về tính sản sinh, bảo dưỡng của nguyên lý âm tượng trưng
cho Nữ của các dân tộc sản xuất nông nghiệp ở Đông Nam Á. Sự tồn tại
song song của hai hệ thống “hồn lúa” và “Thần Lúa” và sự xuất hiện sau này
của khái niệm “Thần Lúa” đánh dấu một bước chuyển đổi mạnh mẽ về tư
duy vạn vật hữu linh đơn giản sang quan niệm đa thần giáo. Yeang Sarì cịn
là thần bản mệnh, mỗi người trong gia đình đều có một Yeang Sarì đi theo
để bảo vệ hồn mình. Họ tin rằng người bị ốm là do linh hồn của người đỏ đãi
rời cơ thể và đi lang thang ở đâu đó, họ phải làm lễ để gọi hồn về với sự gián!
tiếp tham gia của hồn lúa. Nếu cây lúa mọc xấu họ tin rằng linh hồn của cây
lúa đó đã rời khỏi cây lúa, nếu một đứa ữ ẻ bị ổm đau còi cọc, họ cũng tirii
rằng hồn đã rời khỏi cơ thể.
<i><b>1.2. Thờ cúng Thần Lúa trong trồng lúa rẫy</b></i>
sau đó cúng thần Đất, thần Lửa với mong muốn công việc phát rẫy, đốt rẫy
tiếp theo diễn ra thuận lợi.
Để đánh thức Thần Lúa dậy, người Hrê phải làm lễ lấy lúa trong chum.
Vài hôm trước ngày trỉa lúa, mỗi nhà đan một cái gùi nhỏ, cho những hạt lúa
giống (‘mau jèch) vào đấy và làm phép với một ít máu gà và một ghè rượu
ờ trong kho [18;364]. , . „
Sarì trỉa rẫy, các thành viên trong gia đình bắt đầu cơng việc của mình: đàn
ơng chọc lỗ, đàn bà đi đằng sau tra hạt và lấp đất. Họ trồng rau bí, rau lang ờ
mảnh đất cúng tế và ăn rau bí, rau lang trồng ở chỗ ấy ừong vòng nửa năm.
Khi lúa mọc, khóm lúa rẫy nơi tế máu gà được xem là chỗ thiêng liêng
nhất của rẫy, các hoạt động cúng tế tiếp theo đều được tiến hành ở nơi này,
lúa thu hoạch ở đây được gọi là lúa thiêng... Đám lúa thiêng là nơi trú ngụ
Tùy theo rẫy của từng gia đình, cơng việc trỉa rẫy có thể thực hiện từ
10 ngày cho đến nửa tháng. Đàn ơng có thể ngủ lại ở chòi để canh giữ hạt
lúa vừa gieo, người phụ nữ khơng ngủ lại ở chịi mà trờ về nhà sau mỗi ngày
trỉa lúa để ngày hôm sau gùi hạt giống lên nương, và chi người phụ nữ mới
được mang hạt lúa giống lên rẫy. Sau khi trỉa rẫy, các thành viên trong gia
đình phải thực hiện một số kiêng kị nhất định để tránh làm bà Thần Lúa giận
dữ. Trong 3 ngày 3 đêm không cho người vào rẫy và phải canh giữ cẩn thận
vì họ sợ thú rừng vào phá rẫy làm hồn lúa kinh sợ và bay mất. Mỗi ngày sau
khi tria xong, họ lấy lá tươi rắc lên đường đi vào rẫy để làm dấu không cho
người khác vào phá rẫy. Những người trong gia đinh cũng không được vi
phạm, không được xáo trộn các đánh dấu trên rẫy. Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt
một ghè rượu để làm phép. Người này sẽ mời thầy cúng hoặc mời ông già đến
rẫy làm phép bằng một ghè rượu. Họ cùng nhau đến “mảnh đất thiêng” giữa
rẫy làm phép gọi Yeang Sarì:
bị ướt (trong trường hợp thiếu dây, có thể dùng thêm các loại dây lấy từ một
số cây rừng gọi chung là dây rừng-si karàng). Đen ngày hôm sau, Bà chù
nhà -“Mẹ lúa” một mình đi lên rẫy mang theo một cái gùi nhỏ (sakét) để làm
lễ và xin tuốt lúa từ khóm lúa thiêng đã được đánh dấu từ khi bắt đầu trỉa
Người đàn bà lên rẫy suốt một lượng lúa vừa đủ để nấu cơm làm lễ
cúng lúa mới: lễ tiến hành ờ cửa giữa khoảng 7 giờ tối sau khi gia đình ăn
cơm xong, các thành viên quây quần bên nhau làm lễ tạ Thần Lúa. Lúc này,
họ tin rằng Bà Thần Lúa đang sống trong nhà cùng với các thành viên của
gia đình, Bà đang trú ngụ ở bếp thiêng cùng với Thần Bếp. Lấy lúa từ cái
sakét, bà chủ nhà giã gạo, giã cốm trong cối thiêng (làm từ thân cây) và rang
gạo. Ông chủ nhà cắt cổ một con gà lấy huyết, rồi luộc chín. Trong bếp
thiêng, chi duy nhất cái nồi thiêng mới được nấu cơm làm phép, không dùng
nồi thiêng cho các mục đích khác. Tất cà các vật thiêng trên chi có ơng bà
chủ nhà được sử dụng khi làm lễ thờ cúng, cấm kị đối với những người khác
sử dụng với bất kỳ lý do nào, nếu vi phạm các thần sẽ nổi giận và gây bệnh
tật, chết chóc. Khi cơm bắt đầu chín lấy máu gà cho vào nồi và bôi vào chỗ
bếp. Khi cơm đã chín hẳn, lấy ra cho vào một cái đáp (cái nắp nồi) gồm 1
phần cơm, 1 phần cốm và một con gà để ở giữa. Đốt mủ loanggagù trong cái
khót để bên ghè rượu cần nhỏ, rồi hơ cái đáp có cơm, gà, cốm lên trên cái
khót. Sau đó họ nấu một nồi cơm to mời hàng xóm về ăn cơm, gà, cốm. Lấy
cốm rải trong nhà, người trong nhà giơ hai bàn tay hứng lấy cốm, nếu người
vào buổi tối, cúng ở cửa giữa. Người đàn ông chủ nhà đan một giỏ nhỏ, lấy
thóc từ trong kho cho vào giỏ đem vào để trong nhà. Lấy một cây đót (reng
rong, cây dùng làm chồi quét nhà) lớn chẻ làm 4 nhánh nhỏ, quấn lá lacazea,
lấy huyết gà rải lên lá, sau đó cho vào kho thóc, đốt một cây nến và cúng tại
kho lúa mới. Trong các buổi cúng tế, người đàn ông chủ nhà hoặc ông già
trong nhà là người đứng ra cúng tế.Với một ghè rượu, thịt gà, cơm
nếp...người Hrê khấn cảm tạ Thần Lúa đã cho mùa màng tươi tốt và mời Bà
Thần Lúa về uống rượu, ăn thịt gà và những thức ăn khác.
Các giai đoạn trồng lúa nước không khác so với người Kinh như làm
bờ, ủ giống, gieo sạ, cấy, làm cỏ, bón phân, thu hoạch. Trước đây, người Hrê
không có thói quen bón phân vì vẫn giữ các thói quen của sản xuất nương
rẫy, họ tin rằng nếu bón phân sẽ làm thần linh giận giữ, Thần Lúa bỏ đi vì bị
ô uế và như vậy lúa sẽ không mọc. Từ khi chuyển sang sản xuất lúa nước,
nguồn lương thực được đảm bảo hon, ít khi xảy ra nạn đói, kinh tế lúa nước
trờ thành một phần quan trọng trong đời sống của đồng bào. Tuy đời sống
vật chất phát triển hơn lúc làm nương rẫy, nhưng niềm tin vào Thần Lúa, vị
thần tạo ra lúa gạo và làm cây lúa sinh sôi phát triển vẫn trường tồn mạnh
mẽ. Sự tồn tại dai dẳng của tục thờ cúng Thần Lúa/hồn lúa là minh chứng
cho quá trình chuyển đổi chậm chạp về mặt tư duy quan niệm so với quá
trinh chuyển đời của đời sống kinh tế. Thực hành thờ cúng Thần Lúa không
mất đi mà vẫn tiếp tục trong suốt chu kỳ trồng trọt, trong đó tập trung nhất
vẫn là vào thời kỳ gieo hạt và gặt lúa bởi đồng bào cho rằng đây là hai thời
điểm có tính chất quyết định đối với chu kỳ phát triển của cây lúa, cũiĩg là
Tính chất chu kỳ của các nghi thức cúng Thần Lúa trong lúa nước cũng
lặp lại như lúa nương: trước khi làm vụ mới tiến hành cúng lấy thóc trong
kho, làm lễ cúng tượng trưng với một số hạt thóc, sau khi hạt nảy mầm mới
gieo trồng bình thường; tương tự đầu mùa gặt, phải làm lễ tế Thần Lúa sau
đó mới gặt lúa đại trà; sau khi gặt xong cũng phải làm lễ tạ ơn.
Vào tháng 12 âm lịch, trước khi gieo mạ, ông già và người phụ nữ chủ
nhà ra đồng làm lễ tế Thần Lúa. Gần mỗi thửa ruộng đều có một mảnh ruộng
“thiêng” rộng 2-3m2, ơng già tế một con lợn (nhà giàu) hoặc một con gà (nhà
nghèo), máu của vật hiến sinh chảy hòa vào nước ở ruộng thiêng và chảy
vào ruộng chính, thơng qua tế máu động vật hòa với nước để cầu một vụ
mùa tươi tốt, máu tượng trưng cho sức sống và sinh lực mà con người muốn
truyền sang cây lúa thay vì vẫy vào hạt lúa trước khi trỉa rẫy. Cùng với hạt
giống và gậy chọc lỗ, người đàn ông chọc lỗ, người phụ nữ đi sau tra hạt
và lấy thanh tre lấp đất tượng trưng khoảng 3-4 hạt giống một hốc. Sau đó
quay về nhà và chuẩn bị thịt lợn, thịt gà cùng với ghè rượu, mời hàng xóm
sang ăn uống, nói chuyện, tâm sự và hát những bài dân ca Hrê truyền
thống. Nếu những hạt giống này mọc thì gia đình tiếp tục công việc gieo
mạ giống như hình thức “trỉa lúa” : kết hợp hình thức gieo mạ trên khô và
gieo mạ dưới ruộng.
Khi mạ đủ tuổi được nhổ lên và mang đến ruộng để kịp cấy lúa đúng
thời điểm. Nhiệm vụ cấy lúa được giao cho người phụ nữ trong gia đình,
ngồi đặc điểm phân công lao động chung thường thấy ờ nhiều tộc người
khẳc, ở người Hrê điều này có một ý nghĩa đặc biệt, người phụ nữ đi cấy lúa
đảm nhận vai trò “Mẹ Lúa” là người gián tiếp mang đến sức mạnh cho cây
lúa thông qua một lễ cúng nhỏ được tiến hành trước khi cấy gọi là cúng phép
với một ghè rượu và một con gà.
thiêng, ông già hiến tế gà, rồi luộc chín, người nhà làm xơi, làm cốm, lấy gan
gà để trên các nắm cơm, gan gà là một món ăn ưa thích của Thần Lúa. Đặc
biệt phải có một ghè rượu cần đã được ủ bằng gạo cũ cùa năm trước. Chuẩn
bị xong tất cả các lễ vật, ông già trong nhà hoặc thầy cúng khấn mời Yeang
Sarì và Thần Bếp về ăn gan gà, xôi, cốm và uống rượu. Giống như trong lễ
cúng cơm mới của lúa rẫy, các hạt cốm được rài trong nhà, nếu người nào
nhận được nhiều hạt cốm thì nãm đấy sẽ có nhiều may mắn...Sau khi cúng
cơm mới mới tiến hành gặt lúa, lúa gặt được vò ngay tại chỗ rồi mang hạt
đến để trong nhà ruộng. Khi lúa đã được đem hết về kho trong nhiều ngày
liền không ngơi nghỉ, các gia đình tiến hành làm lễ tạ om Thần linh đã
mang lại một mùa gặt no đủ bằng cách mổ lợn, làm thịt gà, đặt ghè rượu
cúng thần linh.
Các quan niệm và thực hành cúng tế trong sản xuất nương rẫy luôn là
cái khung, cái nền tảng để người Hrê chuyển sang các yếu tố mới trong trồng
lúa nước. Sự lặp lại các mẫu hình thờ cúng lúa rẫy xưa kia đến lượt nó cũng
chi là lớp bao bọc bề ngồi mang hàm ý tượng trưng cho những tư duy quan
niệm mới ẩn chứa bên trong của tục thờ cúng Thần Lúa. Hiện nay, sự
chuyển tiếp từ lúa nương sang lúa nước với nhiều biểu hiện thay đổi của
nghi lễ như sự giản đơn, iược bớt nhiều nghi lễ cũ đã cho thấy một quá trình
<i><b>2.1. Biến đổi trong quan niệm của người Hrê về Thần Lúa</b></i>
thậm chí đối với việc trông coi kho lúa đã trở thành công việc của cả nhà
trong khi trước kia chỉ bà chù nhà là người có quyền hành duy nhất đối với
việc trông coi, đóng và mờ kho lúa.
Bộ phận cư dân làm nương rẫy hiện nay vẫn còn quan niệm về nơi cư
trú cùa Thần Lúa tương ứng với chu trình của hạt lúa, song họ nhấn mạnh
đến nơi thiêng như là một nơi cư trú quan trọng nhất của Thần Lúa. Đối với
cư dân trồng lúa nước, họ khơng có những hình dung về nơi trú ngụ của
Thần Lúa theo các giai đoạn sinh trường cùa hạt lúa mà Bà Thần Lúa là một
biểu tượng sống động trong tâm trí, theo cách mà họ quan niệm, Yeang Sarì
có thể ở bất kỳ đâu, bất kỳ một nơi nào khi con người kêu cầu và hiến tế, Bà
đều có mặt để giúp họ thực hiện ước muốn cùa mình. Sự hình thành các
quan niệm về nơi sống của Thần Lúa ờ cư dân làm ruộng nước phải trải qua
hai quá trình lâu dài kế tiếp nhau: khi chuyển tiếp từ nương rẫy đến ruộng
nước, nơi cư trú của Thần Lúa là nồi thiêng đặt trong bếp thiêng và đó cũng
là biểu tượng về sự ấm no đầy đủ cùa cộng đồng; tiếp theo là sự biến đổi gắn
với quá trình chức năng hóa và hiện thực hóa biểu hiện ờ nơi cư trú cùa Thần
Lúa xuất phát từ những quan niệm của từng cá nhân theo tiến trình từ tư duy
đến tư duy và từ từ duy đến thực tiễn - mỗi người có một Yeang Sarì và Bà ở
bất kỳ nơi nào trong ngôi nhà của mình.
từng gia đình mà đó cịn là hoạt động có tính chia sẻ giữa cộng đồng, láng
giềng. Hiện nay, những người buôn bán nhỏ viện dẫn đến Thần Lúa như một
dạng thức cầu làm ăn thuận lợi, mua may bán đắt, niềm tin ấy không mãnh
liệt mà rất mỏng manh. Tuy vậy, trong các ngày lễ đâm trâu, lễ cúng gọi
hồn, cúng máng nước của cộng đồng, họ vẫn tham gia với tư cách là thành
viên; hiện nay, chính sự tương tác cộng đồng này là cầu nối quan trọng nhất
của họ đối với Thần Lúa.
Các lễ nghi thờ cúng Thần Lúa đã và đang được thực hiện theo chiều
hướng đơn giản hóa. Từ lúa rẫy sang lúa nước: các nghi thức cũ được kế
thừa và bổ sung thêm một số yếu tố mới, cho đến hiện nay qua nhiều giai
đoạn biến đổi, hoạt động thờ cúng đang dần dần bị mai một ý nghĩa và bản
sắc ban đầu, nhưng vẫn cịn trình diễn những hành vi ma thuật và bói tốn.
Thờ cúng Thần Lúa là một hoạt động liên tục nối tiếp nhau theo hành
trình của hạt lúa. Vào bất kỳ một giai đoạn chuyển đổi nào của hạt lúa đều
có các nghi thức thờ cúng nhằm nắm giữ linh hồn lúa và Bà Thần Lúa. Bằng
cách hiến tế, con người làm hài lòng Thần Lúa và đưa vị Nữ thần này vào
quỹ đạo của tâm thức. Hiện nay, các bước thờ cúng Thần Lúa trong sản xuất
lúa nước vẫn còn diễn ra khá đều đặn, nhưng đã lược bỏ bớt một số kiêng kị
và nghi thức phức tạp.
nhiên ở một vài gia đình khi lúa có dấu hiện chín trước, gặt xong làm lễ tạ
ơn và lễ cơm mới cùng một lúc. Để thu hoạch lúa chín trước, mỗi gia đình
cần nhiều nhân lực và họ kêu gọi những người hàng xóm tương trợ. Sau khi
gặt lúa xong, lễ tạ ơn được tiến hành rất thịnh soạn bao gồm thịt gà, thịt lợn,
rượu và các loại bánh nếp, bánh tẻ, xơi... Mục đích cúng Thần Lúa để tạ ơn
Trong quá trình gặt lúa khơng cịn kiêng dùng các dụng cụ bằng kim
loại, họ dùng liềm hoặc máy để cắt lúa, tiếp đó dùng máy đập, máy nổ hoặc
đập bằng chân rồi đem về sân phơi, sau tất cả các công đoạn trên mới đưa
vào kho lúa. Các loại máy xay xát tuốt lúa dùng phổ biến như người Kinh.
Người Hrê đã làm chù hầu hết các giai đoạn gieo trồng, kỹ thuật và cho năng
suất cao. Họ khơng cịn sợ Thần Lúa bỏ đi khi xay xát gạo hoặc dùng liềm
gặt lúa, mong muốn thâu tóm linh hồn lúa trờ nên nhạt nhịa khi đã có các
kiến thức hiện đại và làm chủ được quá trình sản xuất. Người Hrê chỉ viện
dẫn đến Thần Lúa như một niềm tin về mặt tâm linh vào mỗi giai đoạn trước
khi cấy lúa và gặt hái, bời trong tâm thức cùa họ, việc cúng tế vào thời điểm
đầu tiên và cuối cùng cùa vụ mùa có ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng
hay thất bại, đến việc có cái ăn hay đói kém.
Trước đây, phần lớn các lễ vật (trừ động vật hiến sinh) đều được làm
từ lúa gạo: cơm nếp, cơm tẻ, các loại bánh tét, bánh tẻ, bánh cốm...và rượu
cần. Từ hạt lúa cho đến hồn lúa rồi đến Bà Thần Lúa và lễ vật thờ cúng đều
xoanh quanh hạt lúa. Hạt gạo là chủ thể sống động của hiện thực (lễ vật) và ý
niệm tâm linh (Thần Lúa/hồn lúa), đấy là vòng tròn thống nhất giữa nội dung
và hình thức, giữa tương tác của ý niệm và thực tiễn. Tuy nhiên, những năm
gần đây, lễ vật đùng trong các nghi lễ được bổ sung thêm các loại bánh khác
nhau, có cả bánh biscuit, rượu không nhất thiết phải là rượu cần mà có thể
dùng rượu trắng hoặc nhà giàu còn dùng cả rượu ngoại. Như vậy, các loại lê
vậy này không nhất thiết phải được làm từ gạo hoặc từ hạt lúa rẫy như xưa,
hiện nay, họ có thể linh hoạt sử dụng nhiều loại lễ vật khác nhau phù hợp với
điều kiện kinh tế.
Có thể nhận thấy các xu hướng biến đổi như sau:
-
trong một loại hình tín ngưỡng nhất định, là hai xu hướng tìm được hạt nhân
hợp lý từ nội dung tín ngưỡng và nhu cầu cùa con người. Cả hai xu hướng
đều là biểu hiện của chủ nghĩa “hiện sinh”, sự giải thoát tư tường của con
người về mặt vật chất và tinh thần, nó hướng đến cuộc sống hiện thực cùa
con người hiện nay.
đại hóa? Tác động cùa quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa sẽ trở thành
đồng hóa nếu nội lực của chù thể văn hóa yếu hơn, và những đứt gãy
quanh chù thể văn hóa không ngừng diễn ra ào ạt sau mỗi sự đổ vỡ là hiện
tượng tái tạo lại không gian văn hóa - xã hội theo cách thức mới, chắc chắn
sẽ có những xáo trộn nhất định. Đứng dưới góc độ nghiên cứu về thờ cúng
Thần Lúa của người Hrê, nhận thấy cần có một cách tiếp cận tổng quát hơn
đối với chính sách phát triển theo từng dân tộc và vùng miền, v ấn đề bảo
tồn phải đặt trong quan điểm thực tiễn, bảo tồn những giá trị nào và có lợi
gì cho cộng đồng và phải do cộng đồng tự quyết. Điều quan trọng là lấy
chủ thể văn hóa làm trung tâm, tuy nhiên không thể lãng quên các yếu tố
kinh tế - chính trị đang có sức ảnh hường mạnh mẽ đến tiến trình xây dựng
nơng thôn mới hiện nay. Cụ thể đối với người Hrê tại xã An Vinh, thờ
cúng Thần Lúa có liên quan chặt chẽ đối với việc sở hữu những thửa ruộng
thiêng, ruộng ma, đồng thời là sự cam kết và giúp nhau giữa các thành viên
trong cộng đồng. Bên cạnh đó, các nghi lễ trong gia đình và cộng đồng liên
quan đến Thần Lúa có ý nghĩa giáo dục và xác lập tinh thần cố kết và bản
sắc dân tộc sâu sắc.
<i>ể</i>
V â n hó a th ờ N ữ th ẩ n - MẪU ở V lỆ T NAM VÀ CHÂU A
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
1. Albert Maurice, Georges Marie Proux (1959),
B.S.E.I,T.XXIX, Hanoi.
2. Đàm Thị Uyên (2010), “Những tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp
của người Tày ờ Cao Bằng”, Tạp chí
người Ca Dong”, Tạp chí
hóa, Hà Nội.
5. Georges Condominas (1997),
Nxb Văn hóa, Hà Nội
6. H.Haguet (1905), Les Mois de la région de Quang Ngai,
7. Jacques Doumes (2003),
8. Lưu Hùng (1980), “Tìm hiểu quan hệ xã hội ờ dân tộc Hrê”, Tạp chí
9. Lưu Hùng (1981), “Sự du nhập hình thái canh tác ruộng nước vào vùng
dân tộc Hrê”,
10. Lưu Hùng (1982), “Vài suy nghĩ về hoạt động kinh tể ruộng của đồng
bào Hrê”, Tạp chí
11. Ngơ Đức Thịnh (2012),
Nxb Trẻ, Hà Nội.
12. Người Hrê (Hoàng Hùng dịch), TLd739, Thư viện Dân tộc học.
13. Nguyễn Khắc Xương (2011),
14. Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi (2011),
15. Nguyen Tan (1904), Notes diverses sur la paciíĩcation de la région des
Moĩs,
16. Nguyễn Văn Minh (2009),
17. Phạm Thị Trung (2010),