Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

skkn một số giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.56 KB, 24 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết: mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người nhằm phát
triển tồn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe, có thẩm mĩ, có nhân cách tốt
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc hình thành nhân cách, năng lực,
phẩm chất của cơng dân, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Để đảm bảo được điều đó, phải đổi mới cách tiếp cận các
yếu tố của quá trình dạy học như: mục tiêu dạy học, chương trình dạy học, nội
dung dạy học, phương pháp dạy học, hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá và các
hình thức dạy học khác. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ hình thành năng lực,
phẩm chất cho học sinh đang trở nên cấp bách và cần thiết. Đặc biệt là đối với học
sinh Tiểu học lại càng phải quan tâm và coi trọng, bởi nó là một nhân tố phát triển
nhân cách, là gốc rễ để phát triển tài và đức của mỗi con người. Việc hình thành
năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là một việc làm rất quan
trọng, đặc biệt đối với học sinh lớp 1, đó là lứa tuổi nhỏ, lứa tuổi đang “Như búp
trên cành” “ Như tờ giấy trắng”.
Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc hình thành
các năng lực, phẩm chất phải được áp dụng bằng các phương pháp trải nghiệm,
tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, vận dụng kiến thức trong cuộc
sống hàng ngày. Điều này được thể hiện qua việc chăm học, chăm làm, tích cực
hoạt động giáo dục, tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; trung thực kỉ luật… Giáo
viên sẽ tổ chức, quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học sinh hàng ngày,
hàng tuần để nhận xét, nhận định sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất
của học sinh.


Bản thân tôi là người giáo viên Tiểu học, tôi ln trăn trở làm cách nào để
giúp các em hình thành một cách tốt nhất về năng lực và phẩm chất. Trong những
năm vừa qua, khi thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo thông tư 30 và thông
tư 22, bản thân tôi đã mạnh dạn đổi mới, áp dụng các phương pháp kĩ thuật dạy
học tích cực vào quá trình dạy học từ khâu thiết kế bài học cho đến việc lựa chọn


các phương pháp phù hợp vào giảng dạy. Việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học nêu trên, bước đầu đã hình thành các năng lực, phẩm chất cần thiết
của học sinh như: năng lực tự học, giao tiếp, hợp tác, tự trọng, tự tin, chăm học
chăm làm, …Tuy nhiên, khi thực hiện đánh giá theo thông tư 30 và thông tư 22,
nhất là hai nội dung năng lực, phẩm chất; tôi thường gặp nhiều vướng mắc và khó
khăn như: khó khăn trong các bước thực hiện, khó khăn trong việc xác định các
biểu hiện chính, giúp việc nhận xét về năng lực và phẩm chất của học sinh; khó
khăn trong việc đưa ra nhận định, cách ghi nhật kí đánh giá đối với học sinh. Là
một giáo viên Tiểu học có tuổi đời 25 năm trong nghề, đã trực tiếp giảng dạy nhiều
khối lớp, tôi luôn suy nghĩ làm cách nào để giúp các em hình thành một cách tốt
nhất về năng lực, phẩm chất. Chính vì lẽ đó tơi đã mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra
sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng
lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và góp phần nâng cao việc hình thành
phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học. Đẩy mạnh
việc nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục, trang bị về năng lực, phẩm
chất cho các em. Nâng cao nhận thức của phụ huynh về việc phát triển năng lực,
phẩm chất cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu


Một số giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành phẩm chất, năng lực cho
học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã lựa chọn những phương pháp phù hợp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
+ Phương pháp thực nghiệm, trải nghiệm.
+ Phương pháp đàm thoại.

+ Phương pháp dạy học tích cực.
+ Phương pháp tổng hợp rút kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cở sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Gia đình và nhà trường là hai mơi trường học sinh Tiểu học được tiếp xúc
nhiều nhất, thường xuyên nhất trong cuộc sống của mình và đó cũng là những mơi
trường có ảnh hưởng nhiều nhất đến việc hình thành năng lực, phẩm chất cho các
em. Ngoài ra, các điều kiện mơi trường cuộc sống xung quanh cũng có tác động
khơng nhỏ tới việc hình thành năng lực, phẩm chất của các em. Giáo dục trong nhà
trường có vai trị quan trọng. Bởi con người là nhân tố quan trọng sáng tạo mọi giá
trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Con người có ý thức là động lực to lớn cho sự
phát triển nói chung; con người phát triển tồn diện về nhân cách là con người
được hình thành năng lực, phẩm chất chuẩn mực nhất ở bậc Giáo dục Tiểu học.
Trong đó phẩm chất bao gồm các nội dung gồm có: phẩm chất chăm học chăm
làm, phẩm chất tự tin trách nhiệm, phẩm chất trung thực kỉ luật và phẩm chất đoàn


kết thương yêu thương. Năng lực bao gồm các nội dung: năng lực tự phục vụ tự
quản, năng lực giao tiếp hợp tác, năng lực tự giải quyết vấn đề. Đây có thể coi là
năng lực, phẩm chất khung của nhân cách theo quan niệm cấu trúc nhân cách hai
thành phần ( đức, tài). Do vậy mối quan hệ giữa dạy học phát triển năng lực, phẩm
chất với phát triển nhân cách được diễn ra như sau: năng lực, phẩm chất là hai
thành phần của nhân cách, nhân cách là chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm
chất và năng lực, việc dạy học phát triển năng lực, phẩm chất là phương pháp tích
tụ dần dần các yếu tố của năng 3 lực, phẩm chất người học để chuyển hóa và góp
phần cho việc hình thành, phát triển nhân cách.
Vì vậy, dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh Tiểu học hiện
nay vừa là mục tiêu giáo dục, vừa là nội dung giáo dục đồng thời cũng là phương
pháp giáo dục. Dạy học phát triển năng lực, phẩm chất có một ưu thế vượt trội
trong việc hình thành và phát triển nhân cách bởi nó hướng cho người học đi vào

hoạt động cá nhân ( hoạt động trong giờ, ngoài giờ, hoạt động giao tiếp với tự
nhiên, xã hội, môi trường, trải nghiệm…), mà các hoạt động sống, hoạt động cá
nhân có vai trị quyết định đối với hình thành nhân cách. Trong các hoạt động dạy
của nhà trường Tiểu học hiện nay, chúng ta luôn quan tâm tới việc hình thành năng
lực, phẩm chất. Để thực hiện những mục tiêu giáo dục con người, thì giáo viên
phải xác định nhiệm vụ của mình. Như vậy, vấn đề giáo dục học sinh thành những
người phát triển toàn diện chủ yếu là các thầy cô giáo và chủ yếu là giáo viên chủ
nhiệm lớp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2018 – 2019, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 1C.
Qua thực tế giảng dạy tôi đã khảo sát giữa học kì 1, đánh giá năng lực, phẩm chất
của học sinh trong lớp chủ nhiệm như sau:


Sĩ số

Hs lớp

Số HS Tỉ
đạt

Năng lực

%

mức tốt

lệ Số HS Tỉ
xếp


%

Đạt

lệ Số HS Tỉ lệ
CCG
(C)

(Đ)
Tự phục vụ, tự
quản
Hợp tác, giao tiếp
Tự học, GQVĐ

Sĩ số

Hs lớp Số HS Tỉ
đạt

Năng lực
Chăm

học,

chăm

làm, tích cực tham
gia các hoạt động
giáo dục
Tự tin, tự trọng, tự

chịu trách nhiệm
Trung thực, kỉ luật
Đồn

kết,

u

thương gia đình bạn
bè và người thân

%

lệ Số HS Tỉ
xếp

mức

Đạt

tốt

(Đ)

%

lệ Số HS Tỉ lệ
CCG
(C)



Bảng thống kê trên, cho thấy thực trạng việc hình thành năng lực, phẩm chất
cho học sinh trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng kết quả
chưa cao. Học sinh đã đạt được các năng lực, phẩm chất theo yêu cầu nhưng số đạt
mức hoàn thành tốt chưa nhiều, vẫn còn một số học sinh hạn chế về năng lực,
phẩm chất. Qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tơi rút ra được các ngun nhân
sau:
- Do chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập ( từ Mầm non
sang Tiểu học) nên các em chưa quen với hoạt động của Nhà trường Tiểu học.
- Một số gia đình coi trọng việc học tập kiến thức và kĩ năng, xem nhẹ việc
hình thành năng lực, phẩm chất cho các em.
- Nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm tới con em dẫn
đến các em bước vào lớp 1 các em nhút nhát, chưa mạnh dạn, chưa tự tin khi giao
tiếp với cô giáo và bạn bè.
- Một số gia đình cha mẹ chưa gương mẫu về đạo đức lối sống làm ảnh
hưởng tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của con. Rồi nhiều gia đình
gây áp lực việc học tập cho con em mình, yêu cầu con phải đạt được thành tích
này, danh hiệu về học tập kia, trách phạt con nặng nề khi trẻ mắc lỗi khiến cho các
em sợ sệt, thiếu tự tin, nói dối và làm đối phó,…
- Học sinh nhận thức chậm, khả năng tự học - tự giải quyết vấn đề cịn hạn
chế, có thể là gia đình chưa quan tâm đến việc hoc tập của con em họ, khơng dạy
dỗ các em đó học thêm bài ở nhà, chỉ phó mặc cho cơ ở trường hoặc em đó có lỗ
hổng về kiến thức kĩ năng nào đó gây việc chán nản học,…
- Học sinh chưa có ý thức tự quản, tự phục vụ và không biết làm những việc
đơn giản phù hợp với lứa tuổi bởi vì gia đình q nng chiều khơng u cầu các
em làm bất kể cơng việc gì.


- Một số gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố hoặc mẹ bỏ mặc con cho ông bà
nuôi. Nhiều em đã tự kỉ ít nói, ngại hoạt động học tập vui chơi cùng với thầy cô và

bạn bè.
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ giáo viên chỉ chú trọng việc dạy kiến thức
mà không chú trọng đến việc rèn luyện để hình thành năng lực, phẩm chất cho học
sinh. Để nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp chủ nhiệm
tôi đã đưa ra và áp dụng một số giải pháp sau.
2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất
cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học An Nông.
2.3.1.* Nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng trong việc hình
thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1.
Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi thấy: hầu như tất cả giáo viên dạy lớp 1
chỉ chú trọng vào việc rèn chữ, luyện đọc, rèn kĩ năng tính tốn cho học sinh là chủ
yếu. Cịn việc hình thành các năng lực, phẩm chất chưa thực sự được quan tâm.
Nếu ngay ở đầu cấp mà chúng ta khơng hình thành những năng lực, phẩm chất chủ
yếu cho học sinh thì lên các lớp trên học sinh chỉ là những con rơ bốt làm việc một
cách máy móc và khô khan. Tôi đã xác định được tầm quan trọng của mình trong
việc nâng cao hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp tơi chủ nhiệm đó
là: Tơi thực hiện tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phát huy tính sáng tạo,
tích cực của học sinh trong giao tiếp, phải biết khai thác, phát huy tính tích cực tự
giác, tự giải quyết vấn đề ở mỗi em học sinh thông qua các tiết học, giờ học ngoại
khóa. Tạo cho các em mơi trường học tập thoải mái, tự tin trong mọi lĩnh vực cuộc
sống. Chính vì lẽ đó, việc nâng cao nhận thức cho bản thân tơi về việc hình thành
năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 là rất quan trọng.


*Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm của bản thân giáo viên trong
việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
Bản thân tơi đã nhìn thấy nhiệm vụ cao cả của mình trong việc làm này và
làm thế nào cho hiệu quả nhất? Đó là câu hỏi tơi và khơng ít giáo viên phải suy
nghĩ trăn trở. Từ đó, tơi đã xác định được nhiệm vụ cơ bản của mình trong việc
hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh như sau: Tơi đã tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự sáng

tạo, tích cực của học sinh, phải biết khai thác, phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng
tạo ở mỗi học sinh vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh
như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống đời
thường.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục cho các em cho
thích hợp tn theo một số quan điểm như: giúp các em phát triển đồng đều các
lĩnh vực thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và nhằm phát huy tích
tích cực hình thành năng lực, phẩm chất.
- Giúp các em có mối liên hệ mật thiết với những người bạn trong lớp, trong
trường; các em biết chia sẻ chăm sóc lẫn nhau, các em cần phải học cách ứng xử,
biết lắng nghe và trình bày vấn đề. Cần trang bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái
trong mọi trường hợp giao tiếp, thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để
kịp thời nắm tình hình phát triển năng lực, phẩm chất của các em ở mọi lúc mọi
nơi.
Đối với những em có ý thức tự quản, tự phục vụ chưa cao. Tôi đã giáo dục
năng lực tự phục vụ, tự quản; giao tiếp và hợp tác trong hoạt động học tập như:
hoạt động học nhóm, cơ giáo giao việc cho nhóm các em tự biết giao việc cho
nhau, từng thành viên trong nhóm nhận nhiệm vụ của mình.


Qua đây, tôi dạy cho học sinh kĩ năng học tập hợp tác, học sinh có kĩ năng
hợp tác là những em đã hiểu rõ những tri thức về kĩ năng hợp tác và các em đã biết
vận dụng kĩ năng hợp tác một cách đúng đắn, linh hoạt, mềm dẻo và hiệu quả vào
quá trình học tập cũng như trong cuộc sống. Bên cạnh đó, cần phải rèn cho các em
thói quen biết hợp tác với những người xung quanh, với bạn bè để hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập; cá nhân trong nhóm học tập phải biết phối hợp, chỉa sẻ, hỗ trợ
các thành viên khác trong nhóm để hồn thành nhiệm vụ chung.
2.3.2.Tìm hiểu tâm sinh lý và hồn cảnh của lớp mình phụ trách.
Qua thực tế chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy hầu như tất cả các em trong lớp
chủ nhiệm việc tự phục vụ, tự quản chưa làm được do các em đang còn nhỏ nên

được cha mẹ nuông chiều, làm thay mọi việc. Từ việc soạn sách đi học, thay quần
áo, vệ sinh thân thể đều do cha mẹ đảm nhiệm. Nhiều em còn rụt rè, ngại giao tiếp,
hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh. Đặc biệt việc tự học, tự giải quyết
vấn đề đang cịn hạn chế. Chính vì do tâm sinh lý của các em đang còn non nớt,
như một tờ giấy trắng. Một số phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin, tự trọng,
chịu trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; yêu gia đình bạn bè và người thân đang còn
mờ nhạt và mơ hồ đối với các em. Mặt khác, một số em gia đình có điều kiện, lại
là con một nên tất cả mọi việc đều do cha mẹ đảm nhận làm thay và rất cưng chiều
dẫn đến các năng lực của các em chưa được hình thành, tạo cho các em tính ích kỉ,
lệch lạc về phẩm chất. Phần đa học sinh trong lớp đều có bố mẹ đi làm ăn xa nhà,
nên phó mặc con cái cho ơng bà già chăm sóc và dạy dỗ. Ông bà chỉ quan tâm đến
việc miếng ăn, giấc ngủ hàng ngày cho các em là chủ yếu còn việc hình thành các
năng lực, phẩm chất nêu trên chưa được quan tâm, nên hầu hết các em phát triển
một cách tự do theo bản năng. Một số gia đình bố mẹ mâu thuẫn tình cảm, bỏ mặc
con cái gửi cho các bác hoặc người thân ni. Có em đã bị tự kỉ, ít nói ngại hoạt
động học tập vui chơi cùng với thầy cô và bạn bè.


Nắm bắt được tâm sinh lý và hoàn cảnh của từng em trong lớp để lựa chọn
phương pháp, cách thức hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh tốt và hiệu
quả nhất đòi hỏi người thầy phải chuẩn mực về năng lực và phẩm chất; bởi học
sinh thường rất nghe lời thầy cô giáo, thầy cô dạy bảo điều gì các em ln ln ghi
nhớ và làm theo, có khi hơn cả cha mẹ ở nhà. Tôi luôn dặn dò các 7 em: phải chăm
chỉ học hành, khi làm bài kiểm tra khơng được nhìn bài của bạn; trong buổi kiểm
tra tôi chú ý quan sát các em làm bài; thường xuyên quan sát thái độ ứng xử của
các em trong giờ học, trong các buổi ra chơi, sinh hoạt tập thể… chắc chắn đức
tính trung thực sẽ dần được hình thành cho các em. Mặt khác, tơi thường xuyên
phối kết hợp giáo dục các em cùng với gia đình nhờ phụ huynh thường xuyên nhắc
nhở con chăm chỉ học hành; chú ý quan sát nề nếp học tập của con hàng ngày ở
nhà, cùng với những biểu hiện của đức tính trung thực, ngay thẳng trong sinh hoạt

gia đình, thì các em sẽ khơng thể có hành vi “ gian lận” trong học tập, trong các lần
kiểm tra tại lớp. Chính vì tơi đã làm tốt việc này nên hiện nay ở lớp tôi chủ nhiệm
các em rất ngoan, chăm chỉ học tập, trung thực trong học tập, biết nhận lỗi và sửa
lỗi…Mặc dù các em mới chuyển từ hoạt động vui chơi ( ở Mầm non ) sang hoạt
động học tập ( ở Tiểu học) nhưng các em đã quen dần với các hoạt động học tập có
nề nếp tự phục vụ: biết tự soạn sách vở đi học theo thời khóa biểu, biết sắp xếp
ngăn bàn nơi ngồi của mình gọn gàng ngăn nắp, biết tự chọn cho mình bộ quần áo
đẹp mỗi buổi đến trường.
2.3.3. Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các giải pháp giáo dục
học sinh.
Căn cứ vào tình hình chung của lớp sau một thời gian học tập, tôi đã tiến
hành phân đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh đạt mức hồn
thành tốt, bao nhiêu em ở mức đạt và bao nhiêu học sinh cần cố gắng về năng lực,


phẩm chất. Để từ đó có biện pháp giáo dục các em, nâng cao trình độ đồng đều
trong lớp.
+ Đối với những em còn chậm tiến bộ (đạt mức Cần cố gắng) thì xếp những
em này ngồi ra đầu bàn, gần với em học hồn thành tốt các mơn học. Đặc biệt cần
phát triển tư duy, nâng cao kiến thức bồi dưỡng năng lực học tập tốt cho học sinh.
Nhất là học sinh lớp 1, giờ các em mới làm quen với môi trường mới, nhiều em
thao tác chậm, không có khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề được. Bản thân tôi
đã lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể là:
- Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó, để học sinh có thể trả lời được. Tôi đã
kịp thời khen, cho các bạn vỗ tay khen bạn, với học sinh lớp 1 các em rất thích
được khen. Từ đó phát huy được năng lực tự giác, tự tin trong giao tiếp, các em sẽ
phát huy tính tích cực trong học tập, thích giơ tay phát biểu bài. Thường xuyên
kiểm tra các em chậm chạp, rụt rè trong quá trình dạy trên lên lớp. Tích cực rèn các
kĩ năng sống và kĩ năng giao tiếp cơ bản cho những em này như: biết chào hỏi thầy
cơ, người lớn tuổi, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi... Tôi thường xuyên cho học sinh

hoạt động lồng ghép hoặc hoạt động ngoài giờ lên lớp, múa hát sân trường, tạo cơ
hội giao tiếp cho các em.
+ Đối với hoc sinh có ý thức tự quản, tự phục vụ chưa cao. Tôi phải thường
xuyên gặp gỡ phụ huynh trao đổi về tình hình học tập, sinh hoạt ở lớp cũng như ở
nhà của các em. Đặc điểm của học sinh lớp một là mau nhớ, nhanh quên nên việc
rèn luyện cho các em cần được làm thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi. Vì
thế, ngay đầu năm học, tôi đã đề cao công tác hình thành năng lực, phẩm 8 chất
cho các em. Học sinh lớp 1 chưa quen với môi trường mới nên tôi luôn tạo cho các
em tập nhiều thao tác mạnh dạn khi giao tiếp như: học sinh được luyện nói nhiều,
thực hành giao tiếp, đóng vai,…Rèn cho các em kĩ năng sống như: tự vệ sinh cá
nhân, tự buộc tóc, tự soạn sách vở…Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn. Đây cũng là


một trong những kĩ năng quan trọng trong việc hình thành phẩm chất cho học sinh
giúp các em học sinh tránh được sự mất đoàn kết, các em biết thương u bạn bè,
kính trọng người lớn tuổi và thầy cơ giáo.
+ Đối với một số ít học sinh hạn chế về năng lực, phẩm chất, với những em
học sinh thuộc gia đình ít quan tâm, họ khơng chú trọng đến việc học của con em
mình, cịn nng chiều, cung phụng con cái khiến trẻ khơng có năng lực tự phục
vụ. Tơi đã tạo cho các em học sinh này hình thành mối quan hệ thầy trị: tơi ln là
người đồng hành cùng học sinh thực hiện tốt những việc cần làm phục vụ bản thân.
Tơi cịn có lời nói cử chỉ nhẹ nhàng với những em học sinh thiếu tập trung, bài vở
chưa tốt; cần phải nhắc nhở riêng từng em, từng đối tượng vào đúng thời điểm
tránh làm các em thẹn, xấu hổ với các bạn trong lớp. Cuối mỗi tuần, cuối mỗi tiết
học tơi đã hình thành năng lực, phẩm chất cho các em thông qua các bài học, kĩ
năng làm bài tập ở các môn học cụ thể là mơn Tiếng Việt như:

Hình ảnh: Cơ và trị lớp 1C đang học môn Tiếng Việt
2.3.4. Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học
Từ việc điều tra, khảo sát tôi đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của từng học

sinh trong lớp chủ nhiệm để có biện pháp giáo dục thích hợp. Tổ chức cho lớp bầu
ra: “Hội đồng tự quản” và ban này phải là những học sinh hồn thành xuất sắc các
mơn học, đối xử với bạn bè vui vẻ, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong công việc, tự quản
lớp hoạt động tốt. Xây dựng lớp tự quản tốt là tạo cho các em môi trường thân
thiện. Vậy ngay từ đầu nhận lớp, tôi phải lên kế hoạch từng tuần, từng tháng cho
ban này hoạt động. Tôi chỉ là người tổ chức, theo dõi và đánh giá kết quả hoạt
động đó. Sau khi bầu xong hội đồng tự quản của lớp, tôi họp ban này lại và giao
nhiệm vụ cụ thể để “Hội đồng tự quản” hoạt động thường xuyên và đạt kết quả.


Ngồi ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, thường xuyên
dạy các em thực hiện tốt nội quy nhà trường. Muốn các em thực hiện tốt địi hỏi tơi
phải gương mẫu về mọi mặt để học sinh noi theo, nói phải làm, đề ra phải thực
hiện, ln gần gũi và có lịng vị tha với học trị.
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới kí hiệu ở
góc bảng: “ +, B, V, S, 1,2,3,…”
Chỉ vào “+” là học sinh cả lớp vịng trịn tay, lắng nghe tơi giảng bài. Tôi chỉ
“ B” là cả lớp lấy bảng con ra làm bài. Tôi chỉ vào “V” là ngay lập tức học sinh
biết lấy vở ra chép bài…. Tôi chỉ vào số1, số 2 hay số 3 là học sinh biết ngay tổ
mình là tổ 1, tổ 2, tổ 3 đang không nghiêm túc học bài và làm bài hoặc là ồn.
2.3.5. Xây dựng mối quan hệ đoàn kết trong lớp
Qua nhiều năm giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng: chỉ khi nào xây dựng
được một tập thể lớp đồn kết thì các giải pháp giáo dục khác mới đạt hiệu quả
cao. Để thực hiện được điều này, tôi phải tạo điều kiện cho các em hiểu nhau và xử
lý các tình huống một cách hợp lý. Hơn nữa với lớp 1 các em nhút nhát nên phải
tập cho học sinh thói quen biết thương yêu bạn, giúp đỡ bạn,…Đối với học sinh
thiếu thốn tình cảm, hay e rè, ích kỉ: tơi thường xun trị chuyện cởi mở với các
em, tạo khơng khí vui vẻ khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt
động của nhóm, lớp, trường. Lôi cuốn các em vào một sân chơi lành mạnh, vui
vẻ…thường xuyên kể cho học sinh nghe những câu chuyện về lịng nhân hậu, tình

đồn kết, nói cho các em biết về tình đồn kết. Mỗi khi nhà trường tổ chức các hoạt
động ngoại khóa tơi đều lơi cuốn các em tham gia, tuyên dương các em khi tham
gia các hoạt động đó như: văn nghệ, góp giấy vụn, ủng hộ người nghèo… Cuối
mỗi tháng, tôi lại tổng kết hoạt động, tuyên dương và khen thưởng những học sinh
có tiến bộ, những nhóm học sinh học tập đạt chất lượng tốt.


2.3.6.* Chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động trong quá trình tự học
của học sinh lớp mình phụ trách
Để làm được điều này đòi hỏi người giáo viên Tiểu học phải có hiểu biết về
chương trình của lớp học, cấp học, mạnh dạn đổi mới phương pháp, các hình thức
dạy học, tuyệt đối khơng được áp đặt kiến thức; phát huy tính tự học, tự tìm tịi
khám phá cái mới ở mỗi học sinh. Trong quá trình dạy học trên lớp, tôi thường
thực hiện như sau:
+ Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập.
+ HS tự giải quyết nhiệm vụ học tập.
+ Các bạn trong nhóm tự trao đổi bài cho nhau.
+ Báo cáo kết quả học tập trước lớp và thực hiện nhiệm vụ học tập mới
Trong khi học sinh học tập, tôi đã chọn vị trí thích hợp quan sát cử chỉ, nét
mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn - vướng mắc nhằm kịp thời kiểm tra kết quả
nhiệm vụ học tập, cách dạy đó phát huy tốt các năng lực tự học và giải 10 quyết
vấn đề; tự hợp tác và giao tiếp. Đến nay, học sinh trong lớp tôi đã biết cố gắng thực
hiện các nhiệm vụ của mình, chủ động giao tiếp, hợp tác chia sẻ kết quả học tập
với bạn… Đổi vở cho bạn kiểm tra chéo bài của nhau... Tôi đã dành thời gian cho
học sinh học trước vấn đề, thực hành trải nghiệm, với bài tập và vấn đề thảo luận.
Sau đó các em tự tương tác khi có nhu cầu trao đổi, cả lớp tự phản biện học hỏi lẫn
nhau giáo viên chỉ là người tổ chức.
* Áp dụng phương pháp dạy học: “ Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
Đây là phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm áp dụng cho việc
giảng dạy “ Bàn tay nặn bột” là hình thành cho học sinh bằng việc các em tự

nghiên cứu tìm ra câu trả lời cho các vấn đề thơng qua làm thí nghiệm, quan sát,


nghiên cứu… với một vấn đề được đặt ra, học sinh có thể tìm hiểu những hiểu biết
ban đầu, tiến hành các phân tích, thảo luận rồi đưa ra kết quả phù hợp. Áp dụng
phương pháp dạy học này tôi đã thực hiện như sau:
Ngoài việc chú trọng đến kiến thức, học sinh lớp tơi cịn được rèn luyện kỹ
năng diễn đạt thơng qua ngơn ngữ giao tiếp. Nhờ đó mà năng lực: tự học và tự giải
quyết vấn đề được nâng cao, các em đã biết vận dụng những điều đã học để giải
quyết các nhiệm vụ học tập; trong cuộc sống, các em đã biết phát hiện ra những
tình huống có mới liên quan và tìm cách giải quyết một cách triệt để. Một trong
những đức tính cần thiết để tạo nên sự thành công trong cuộc sống đó là các em rất
chăm chỉ. Và đức tính này đã được người xưa lồng vào câu tục ngữ: “ Có cơng mài
sắt có ngày nên kim” như để nhắc nhở những người làm cơng tác giáo dục nói
chung, bản thân tơi nói riêng cần coi trọng phẩm chất chăm học, chăm làm. Chăm
chỉ học tập là đức tính quý báu của mỗi học sinh, của mỗi con người. Những em có
đức tính chăm chỉ học tập, chăm làm thì các em ln đạt được những gì các em
mong muốn.

Hình ảnh: Cơ và trị lớp 1C đang học mơn Tự nhiên - xã hội
2.3.7. Lồng ghép việc hình thành năng lực, phẩm chất của học sinh vào các
môn học.
Các năng lực, phẩm chất của học sinh được hình thành trong quá trình rèn
luyện. Hiện nay, nội dung giáo dục năng lực, phẩm chất đã được lồng ghép vào các
môn học ở bậc Tiểu học. Trong quá trình dạy học trên lớp tơi đã dạy học theo kiểu
mơ hình lồng ghép nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất của học
sinh như sau:


Khi dạy các môn học tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm

rèn luyện kĩ năng diễn đạt thơng qua việc hình thành các năng lực: tự học và tự giải
quyết vấn đề. Học sinh lớp tôi đã biết vận dụng những điều đã học để giải quyết
nhiều tình huống trong cuộc sống, phát hiện những tình huống mới liên quan và
tìm cách giải quyết. Thơng qua các môn học học sinh được rèn luyện năng lực hợp
tác, giao tiếp, mạnh dạn khi trình bày một vấn đề trước đám đông. Nhất là ở tiết Tự
nhiên xã hội và tiết Sinh hoạt tập thể…
Phương pháp dạy học của giáo viên vơ cùng quan trọng để hình thành năng
lực, phẩm chất cho các em. Dạy học lồng ghép thông qua các môn học như: môn
Tiếng việt, môn Đạo đức, môn Tự nhiên và xã hội…tất cả các mơn học đều hình
thành cho học sinh nhiều vấn đề, kỹ năng tư duy tích cực và tư duy sáng tạo. Vậy
trong các giờ học tơi ln phải tìm tịi các phương pháp, hình thức tổ chức cho phù
hợp với nội dung tiết dạy nhằm nâng cao hiểu biết cho các em.
Cách dạy học này phát huy tốt các năng lực tự học và giải quyết vấn đề, giao
tiếp, hợp tác. Học sinh lớp tôi đã biết cố gắng thực hiện nhiệm vụ cá nhân của
mình, chủ động giao tiếp, hợp tác - chia sẻ kết quả học tập với bạn, hình thành
phẩm chất mạnh dạn, tự tin, chăm học cho các em. Học sinh trong lớp tôi các em
biết tự mình làm bài, thường xuyên trao đổi kết quả với bạn, mạnh dạn trình bày ý
kiến cá nhân về kết quả bài học theo hình thức nhóm, trình bày trước lớp, trước
đám đông trong cuộc sống học tập cũng như vui chơi hàng ngày. Học như vậy, học
sinh được học sâu hơn rất nhiều, nhớ bài kĩ hơn và chắc chắn hơn, mà cũng từ cách
học đó hình thành năng lực, phẩm chất của các em tốt hơn. Đối với lớp 1 thì việc
vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm
cũng được áp dụng thường xuyên, sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực như: khăn
trải bàn, sơ đồ tư duy, bàn tay nặn bột, nhóm cộng tác…
Hình ảnh: Học sinh lớp 1C trình bày và thảo luận nhóm


Để hình thành năng lực, phẩm chất cho các em có hiệu quả tơi đã vận dụng
lồng ghép rất nhiều qua các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tốn, Sinh
hoạt tập thể. Tơi đã dạy học lồng ghép ở tiết Tốn, các em đã hình thành được năng

lực tự học và tự giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy tích cực và tư duy sáng tạo, năng
lực ngôn ngữ và giao tiếp, các năng lực hợp tác, năng lực tính tốn. Hầu như các
em đã được hình thành năng lực tư duy qua quá trình học toán, thể hiện qua các
thao tác chủ yếu như: phân tích và tổng hợp so sánh, đặc biết hóa và khái quát hóa;
các phẩm chất tốt như: chăm học chăm làm, các em biết thương yêu bạn bè, đoàn
kết giúp đỡ bạn vượt khó khăn. Học sinh trong lớp nhiều em đã tích cực xây dựng
bài, các tiết học sơi nổi, các em thi đua nhau xây dựng bài.
2.3.8. Thường xuyên tổ chức các hoạt động trải nghiệm để tạo cơ hội cho
các em được hình thành năng lực, phẩm chất.
Các năng lực, phẩm chất của học sinh không chỉ được hình thành trong hoạt
động học tập và rèn luyện mà nó cịn được hình thành nhiều ở các hoạt động trải
nghiệm trong và ngoài nhà trường. Hoạt động trải nghiệm có thể thực hiện theo
quy mơ lớn nhỏ tùy vào thời gian, điều kiện của nhà trường, của lớp học, của từng
khối lớp cụ thể. Bản thân tôi đã áp dụng giải pháp này theo quy mô nhỏ bởi học
sinh chủ yếu hoạt động trên lớp; tôi thường xuyên, liên tục tổ chức các hoạt động
trải nghiệm thì học sinh mới hình thành được năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống
cho học sinh. Tơi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế và đưa ra được giải pháp cụ thể như
sau: để các hoạt động trải nghiệm diễn ra thường xuyên ngay đầu năm tôi lên kế
hoạch cụ thể cho hàng tuần, hàng tháng, trong năm rõ ràng.
Ngay từ đầu năm tôi nhận lớp 1C, tôi bắt đầu cho các em trải nghiệm như:
lần lượt gọi tên từng em lên giới thiệu bản thân, gia đình, sở thích để hình thành
năng lực: giao tiếp; phẩm chất: mạnh dạn, tự tin. Hoặc các em trải nghiệm bằng
hoạt động thi xếp sách vở trong ngăn bàn và trong cặp sách; phát huy tính nhanh,


gọn, thi gấp quần áo…Tập cho học sinh trải nghiệm cách xử lý khi bị đứt tay, chân
và cách xử lý khi bạn bị nạn… Từ đó tơi đã hình thành được năng lực tự quản, tự
phục vụ cho các em; biết xử lý các vấn đề có liên quan mà các em thường gặp
trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù những em này bố mẹ đi làm ăn xa, các em ở
nhà với ông bà - với các bác.

Hàng tuần, dựa theo quan sát của tôi và dựa vào nhận xét quan sát đánh giá
của ban hội đồng tự quản lớp, nếu thấy năng lực, phẩm chất - kĩ năng sống nào của
các em chưa tốt thì tơi giúp các em xây dựng kế hoạch tổ chức trải nghiệm lại cho
tốt hơn, thành thạo hơn.
Hàng tháng, dựa theo chủ điểm cụ thể tôi đã gợi ý học sinh trải nghiệm, lập
chương trình hoạt động trải nghiệm…Thơng qua đó mà ở lớp tôi chủ nhiệm các em
luôn biết lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với nội dung; nắm được các bước cơ
bản cần thực hiện, nắm được trách nhiệm của từng cá nhân khi tham gia hoạt động
trải nghiệm. Tôi hướng cho học sinh lựa chọn nội dung trải nghiệm trong cả năm
học dựa theo chủ điểm từng tháng, từng kì dựa vào điều kiện của mỗi cá nhân, của
lớp.
Ngay những ngày đầu đón nhận các em, tơi đã phát hiện có một số em nhận
thức chậm, khả năng tự học - tự giải quyết vấn đề còn hạn chế, các kiến thức cơ
bản còn nhiều lỗ hổng dẫn đến các em ngại đi học, chán học,… Tôi đã sử dụng
phương pháp tương tác nhóm “ Đơi bạn cùng tiến”, đã hướng dẫn cho các em nhận
biết cách học, tự học, tự hợp tác với bạn… bằng cách học nhóm, nhằm phát huy kĩ
năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh. Khi hợp tác làm việc với nhau, với nhóm
trưởng để đạt được mục tiêu đề ra.
Ví dụ: khi cho học sinh thảo luận về vấn đề “ Thân cây có đặc điểm gì?”,
mỗi thành viên trong nhóm lần lượt đưa ra ý kiến của bản thân về vấn đề này. Sau


khi đã nêu ý kiến xong, các thành viên của nhóm khác theo dõi và nêu nhận xét
đúng - sai; tơi chốt kết quả đúng cho học sinh, góp ý và có cách sửa lỗi sai cụ thể
cho các em. Chính điều này đã giúp học sinh lớp tơi phát triển kĩ năng giao tiếp và
tương tác với các bạn trong nhóm học, trong lớp. Từ đó những em này khơng cịn
ngại đi học nữa, ham đi học, thích giao tiếp với cô với các bạn, tự giác trong học
tập; từ đây cũng phát triển kĩ năng tạo môi trường hợp tác, kĩ năng xây dựng niềm
tin. Đây là một kĩ năng đặc biệt quan trọng bởi niềm tin là linh hồn của quá trình
hợp tác của trẻ. Niềm tin còn giúp các em tránh đi sự mặc cảm trước khi đến lớp,

nhất là đối với những em học sinh ngay ngày đầu vào lớp 1 bị chậm phát triển, gặp
nhiều khó khăn trong học tập như khơng biết cầm bút đúng, không thuộc bảng chữ
cái
Qua việc tổ chức cho học sinh trong lớp được trải nghiệm ở các giờ học trên
lớp, ngồi lớp… tơi cịn thường xun phát huy năng lực tự học, tự đọc sách nhằm
nâng cao hiệu quả giờ dạy, đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả tốt, bởi năng lực tự
học của mỗi học sinh ln được gắn liền với hoạt động chính của các em.
2.4. Kết quả nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
Các em do khơng cịn có sự ganh đua, hay lo lắng về điểm số nên sẵn sàng
chia sẻ giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn, vướng mắc. Những em vướng phải khó khăn
trong học tập cũng đã chủ động, mạnh dạn hỏi bạn; khơng cịn ngại ngùng, xấu hổ.
Các em đã biết tự giác làm nhiều việc: sắp xếp sách vở đồ dùng ngăn nắp mỗi khi
ra chơi, xếp bàn ghế ngay ngắn, vệ sinh lớp học gọn gàng sạch sẽ, khi tham gia
hoạt động tập thể, các em mạnh dạn, nói rõ ràng, mạch lạc.
Đã trang bị cho các em những kiến thức, kĩ năng trong học tập và rèn cho
học sinh kĩ năng sống tốt; hình thành cho các em năng lực - phẩm chất tốt, các em


có đầy đủ sự tự tin đứng trước đám đơng; chăm học, chăm làm bài...Tích cực tham
gia các hoạt động của lớp, của nhà trường đề ra.
*Kết quả đạt được của lớp 1C sau thời gian áp dụng các giải pháp trên là:

Sĩ số

Hs lớp

Số HS Tỉ
đạt

Năng lực


%

mức tốt

lệ Số HS Tỉ
xếp

%

Đạt

lệ Số HS Tỉ lệ
CCG
(C)

(Đ)
Tự phục vụ, tự
quản
Hợp tác, giao tiếp
Tự học, GQVĐ

Sĩ số

Hs lớp Số HS Tỉ
đạt

Năng lực
Chăm


học,

chăm

làm, tích cực tham
gia các hoạt động
giáo dục
Tự tin, tự trọng, tự
chịu trách nhiệm
Trung thực, kỉ luật
Đồn

kết,

u

thương gia đình bạn

%

lệ Số HS Tỉ
xếp

mức

Đạt

tốt

(Đ)


%

lệ Số HS Tỉ lệ
CCG
(C)


bè và người thân

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc sử dụng các giải pháp trên chỉ là những kinh nghiệm nhỏ mà tơi đã rút
ra được trong q trình giảng dạy, nhất là trong quá trình đổi mới phương pháp như
hiện nay. Do vậy, đây chỉ là bước đầu đã giúp tôi thu được những kết quả khả
quan. Để nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 trong
trường Tiểu học. Tuy nhiên điều cơ bản mà tơi nhận thấy rằng đó cũng là bài học
tâm đắc nhất tơi rút ra được. Đó chính là sự nhiệt tình và ý thức học hỏi ở sách vở,
tài liệu và học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp. Mỗi chúng ta cần phải có sự đầu tư cho
từng tiết dạy, hết lịng vì học sinh. Giáo viên phải xác định rằng hiệu quả của mỗi
tiết dạy là thước đo hiệu quả của mỗi giáo viên.
Với một vài kinh nghiệm mà tơi rút ra trong q trình giảng dạy 25 năm
trong nghề và cụ thể là ở lớp 1C năm nay, nó chỉ là viên gạch nhỏ bé. Tơi rất mong
được sự nhận xét, góp ý chân thành của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp gần xa
để nâng cao việc: “ Hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp
1 trong trường Tiểu học ” góp phần giáo dục cho học sinh trở thành con người phát
triển toàn diện trong tương lai.
* Qua kết quả đạt được với một quá trình học tập và nghiên cứu nhiệt tình
trách nhiệm và tâm huyết. Bản thân tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm sau:
Trong quá trình giảng dạy việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh

đòi hỏi: Giáo viên phải kiên trì, bình tĩnh trong thời gian khơng phải ngày một,


ngày hai mà đã làm được ngay, nó địi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài và
được thử nghiệm nhiều lần. Đặc biệt phải lựa chọn phương pháp giảng dạy của
mình sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh và gây hứng thú học tập cho
học sinh. Nhất là ở lứa tuổi lớp 1, các em mới bắt đầu chuyển giai đoạn: “ Từ hoạt
động vui chơi - ở Mầm non sang hoạt động học tập - ở Tiểu học”.
- Thường xuyên nghiên cứu tài liệu để nâng cao vốn hiểu biết cho bản thân.
Chú ý nội dung giảm tải điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh của lớp
mình. Khơng ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới
phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh về các môn học.
Rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy và sáng tạo tránh rập khn một cách máy
móc. Rèn cho học sinh thói quen kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ bản thân, kĩ
năng giao tiếp.
- Đổi mới cách đánh giá phải đáp ứng mục tiêu giáo dục, phải vì người học.
Chính vì thế, trong q trình đánh giá địi hỏi giáo viên phải thường xuyên quan
sát, theo dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh trong q trình học tập để nhận định,
động viên và gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối với từng việc làm, từng nhiệm vụ của mỗi
cá nhân hoặc cả nhóm. Đồng thời giáo viên cịn phải quan sát từng 16 học sinh để
còn kịp thời đưa ra nhận định về một biểu hiện của năng lực, phẩm chất của học
sinh.
- Tăng cường đổi mới phương pháp, tích cực dạy học lồng ghép các mơn học
nhằm phát huy tính tự giải quyết vấn đề, phẩm chất chăm học chăm làm cho học
sinh.
- Thường xuyên chấm chữa bài, chỉ lỗi sai cụ thể cho học sinh.
* Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã phải trải qua rất nhiều
những tình huống, những tiết dạy, dự giờ góp ý kiến của đồng nghiệp. Trong quá



trình nghiên cứu thực hiện đề tài tơi có tham khảo ý kiến của các quý thầy cô đã
từng dạy tôi trong trường sư phạm và bạn bè đồng nghiệp gần xa và sử dụng tư liệu
của Nhà xuất bản Giáo dục. Đồng thời được sự giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu,
của tổ chuyên môn và các đồng nghiệp trong trường đã giúp tơi hồn thành bài
viết. Tơi khơng biết nói gì hơn xin gửi tới q thầy cô, đồng nghiệp và các tác giả
đã biên soạn các sách mà tôi đã tham khảo lời cảm ơn sâu sắc nhất. Để bản sáng
kiến này được hoàn thiện hơn nữa, tơi rất mong có sự góp ý của các bạn đọc gần
xa. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị
- Đề nghị nhà trường cần có kế hoạch tham mưu với lãnh đạo địa phương
tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hàng năm để giáo viên có đủ
phương tiện dạy học theo phương pháp mới thúc đẩy chất lượng giáo dục, nâng
cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nâng cao hiệu quả giáo dục
theo kịp thời đại hiện nay.
- Đề nghị Phòng Giáo dục - Đào tạo nên chọn các sáng kiến hay về các môn
học, phân môn được giảng dạy trong trường Tiểu học cũng như nhiều lĩnh vực
khác in thành tập san để cung cấp cho các trường làm tài liệu tham khảo sinh hoạt
chuyên môn. Từ đó, có thể giúp giáo viên chúng tơi học hỏi được nhiều kinh
nghiệm quý báu góp phần nâng cao giáo dục toàn diện trong nhà trường.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa môn Tiếng Việt từ lớp 1, tập 1, 2 (tài liệu hiện hành).
2. Sách giáo khoa các mơn Tốn,Tự nhiên và xã hội, Đạo đức... từ lớp 1 ( tài
liệu hiện hành) 2. Sách giáo viên các môn Tự nhiên và xã hội, Đạo đức... (tài liệu
hiện hành).
3. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học
lớp 1 của Bộ GD&ĐT – Nhà xuất bản Giáo dục năm 2009.
4. Phân phối chương trình các mơn học từ lớp 1(tài liệu hiện hành).
5. Các công văn chỉ đạo việc thực hiện chương trình ở Tiểu học (tài liệu hiện

hành).
6. Kinh nghiệm giảng dạy rèn năng lực, phẩm chất trên các kênh thông tin
khác.
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn Tiểu học của Bộ GD&ĐT –Vụ
Giáo dục Tiểu học / Nhà xuất bản Giáo dục.
8. Thông tư 30 và thông tư 22 của Bộ giáo dục ban hành đánh giá, nhận xét
học sinh Tiểu học.
9. Một số tư liệu, hình ảnh tổ chức các hoạt động học cho học sinh Tiểu học.



×