Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

skkn một số KINH NGHIỆM HÌNH THÀNH và bồi DƯỠNG kỹ NĂNG nói CHO học SINH lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.85 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM HÌNH THÀNH VÀ BỒI DƯỠNG KỸ
NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1”


I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài.
Ở Tiểu học mơn Tiếng Việt có vị trí vơ cùng quan trọng. Học tốt mơn Tiếng Việt các em
có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác. Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói,
đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai trong u cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ
năng nói góp một phần quan trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh
lớp 1 nói riêng học tốt các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu… Kỹ năng nói tốt sẽ
giúp chúng ta chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt
một vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ ràng,
mạch lạc, mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng bài.
Trước thời đại thông tin: tuyên truyền, điện thoại, diễn thuyết cũng rất cần đến kĩ năng
nói. Trong việc học tập với phương pháp mới: phát huy tích cực của học sinh phải trình
bày lời nói trong giải thích, mơ tả… rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, Kỹ năng
nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần cho mỗi
học sinh.
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông
tin, ngơn ngữ nói được thay bằng ngơn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn
tin… trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tiểu học
nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được chú trọng, chưa quan tâm đúng mức.
Trong thực tế cho thấy, một số người có trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc
nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi trình bày ý kiến trước đám đơng lại gặp rất nhiều
khó khăn.
Cho nên với học sinh lớp 1, các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại
khơng có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế.


+ Các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong lúc nói, tìm tiếng, tìm từ cịn chậm trong khi
nói, nói khơng thành câu.
+ Nói khơng rõ lời, chưa phát âm chuẩn, nhiều học sinh nói cịn kéo dài, chưa trơi chảy,
chưa lưu lốt, chưa biểu cảm.
Đó là những vấn đề bức xúc của những giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học
và những người làm cơng tác giáo dục nói chung.
Chính vì vậy, là một giáo viên nhiều năm dạy lớp 1, tôi nhận thấy mình phải làm gì đó để
giúp các em sử dụng ngơn ngữ tốt hơn, có những lời nói rõ ràng đủ câu, lưu loát, mạnh
dạn, tự tin hơn khi giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày, đồng thời góp phần phát triển
nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội.


Thực hiện nhiệm vụ năm học 2012-2013, được sự phân công chỉ đạo của nhà trường tôi
đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng
nói cho học sinh lớp 1”.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngơn ngữ khi giao tiếp, rèn cho học sinh
nói đủ câu, lưu lốt, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ
được tiếng nói và chữ viết của mình.
- Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén, lễ phép,
thông minh hơn.
- Đưa ra những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
- Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý tưởng trước
đám đông, thành cơng trong cơng việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách tồn
diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã
hội.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp 1, qua những năm học trước tại trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi.
- Qua giao lưu, tiếp xúc với giáo viên trường bạn.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.

Thực hiện quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt, việc dạy kỹ năng nói cho học
sinh được quan tâm rất nhiều, đặc biệt với học sinh ở lớp đầu cấp sẽ giúp các em biết
cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống cuộc sống và giúp các em phát triển được
tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi hỏi ở các em, hướng các em trở thành
người năng động, sáng tạo, hoàn thiện… Trong phạm vi đề tài này tơi xin được trình bày
vấn đề: “Một số kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1”.
I.5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong q trình hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp các
phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề.
- Phân tích những nguyên nhân nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng nói của học
sinh.
- Thực hành, luyện tập.


- Tiến hành trên lớp chủ nhiệm, lồng ghép trong các mơn học khác, các tiết sinh hoạt
ngoại khố, sinh hoạt lớp…
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận.
Trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt có vị trí vơ cùng quan trọng. Môn học này
là nền tảng, là cơ sở giúp học sinh có thể học tốt các mơn học khác. Tiếng Việt vừa là
công cụ, vừa là phương tiện giúp các em lĩnh hội kiến thức, rèn kỹ năng, kỹ xảo phát
triển tư duy. Mục tiêu của chương trình mơn Tiếng Việt Tiểu học: “Hình thành và phát
triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để giúp học sinh học tập và
giao tiếp trong mơi trường của lứa tuổi”. Mục tiêu đó coi trọng tính thực hành các kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt trong những môi trường giao tiếp cụ thể. Quan điểm dạy học
giao tiếp, cụ thể là quan điểm dạy học phát triển lời nói được xây dựng trong chương
trình mơn Tiếng Việt. Mỗi nội dung dạy học đều hướng tới phát triển lời nói. Vấn đề phát
triển lời nói cho học sinh không phải đến bây giờ mới được đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy “Tiếng nói là một thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân

tộc. chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp”. Muốn thực
hiện lời dạy đó ở trường Tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lí và tích cực
nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt, rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh
giúp học sinh có vốn ngơn ngữ và sử dụng thành thạo Tiếng Việt, đáp ứng nhu cầu phát
triển giáo dục.
Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 1, nội dung dạy luyện nói cho học sinh được coi
như một nội dung độc lập, giúp học sinh bước đầu hình thành và rèn luyện kỹ năng nói
đây là một trong những kỹ năng quan trọng của con người. Để học sinh luyện nói lưu
lốt, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy học để khơi gợi, kích thích học sinh
có khả năng hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói cho
các em, nhằm giúp trẻ có tính mạnh dạn, cởi mở, tự tin trong giao tiếp.
Trong thực tế, học sinh đầu cấp chưa có thói quen rèn kỹ năng nói, cịn nói theo người
lớn. Đa số học sinh nói khơng thành câu, rút gọn câu nói, nói ngắc ngứ, khơng có sự liên
kết trong bài nói, thiếu tự tin, có khi cịn dùng những câu nói thiếu văn hóa, khơng lễ
phép khi giao tiếp. Tình trạng này cịn kéo dài sẽ dẫn đến các em ngại tiếp xúc, ngại giao
tiếp. Khi lên các lớp trên các em sẽ có thói quen đọc thuộc câu chuyện hay một bài nói
một cách máy móc.
- Do biến đổi về mặt tâm lí, khi chưa đi học, trẻ nói một cách tự do khơng chủ định
nhưng khi vào lớp 1 các em phải nói theo từng chủ đề.
- Các em rụt rè, sợ hãi khi đứng trước đám đông.


- Tư duy học sinh lớp 1 là tư duy trực quan, hình ảnh, tư duy cụ thể qua tranh ảnh minh
họa nhưng khả năng quan sát chi tiết kém.
- Bên cạnh đó người giáo viên chưa ý thức được vai trị của việc rèn luyện kĩ năng nói,
nên đã quá coi trọng hai kĩ năng đọc, viết mà bỏ qua kĩ năng nói, dần dần trở thành thói
quen “lướt qua”dạy kỹ năng này hoặc có dạy nhưng khơng thường xuyên liên tục.
- Một số giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp nội dung dạy- học kỹ năng nói với các kỹ
năng còn lại (đọc, viết, nghe) vào các môn học khác.
- Qua trao đổi, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy đa số giáo viên chỉ chú trọng đến 2 kỹ

năng đọc và viết, cịn kỹ năng nói dường như bị xem nhẹ ít chú trọng, thậm chí cịn bỏ
qua. Có chăng đi nữa học sinh chỉ được học lướt qua ở phân môn kể chuyện và phần
luyện nói trong thời gian rất ngắn.
II.2. Thực trạng.
a. Thuận lợi- khó khăn.
- Thuận lợi: Đơn vị tơi đang cơng tác nằm ngay trung tâm thị trấn Krông Năng, được sự
quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ban ngành
đồn thể, được phòng Giáo dục-Đào tạo quan tâm chỉ đạo sâu sắc nên trường lớp được
xây dựng, khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ, trường lớp sạch sẽ thoáng mát, đủ ánh
sáng…Bên cạnh đó, phụ huynh học sinh cũng rất quan tâm đến việc học tập của con
mình. Học sinh được học tập trong môi trường thuận lợi như vậy cho nên việc giao lưu,
tiếp xúc, phát triển ngôn ngữ của học sinh cũng rất được quan tâm.
- Khó khăn: Mặc dù trường nằm ngay trong trung tâm thị trấn, nhưng lớp tơi được phân
cơng chủ nhiệm có 30 học sinh. Phần đông số học sinh nay là con, em người dân lao
động và con em dân tộc Ê-đê, họ suốt ngày bận rộn với nương rẫy nên việc tiếp xúc, dạy
dỗ con cái cịn hạn chế, ít quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng nói cho các em. Phụ
huynh chỉ biết rằng con, em họ đến trường là học đọc, học viết là được nhưng không nắm
được con, em mình cịn phải học luyện nói nữa. Cho nên cũng khơng quan tâm chúng nói
như thế nào, chẳng cần uốn nắn làm gì.
b. Thành cơng- hạn chế.
- Thành cơng: Đa số học sinh vào lớp 1, đều được học qua trường Mầm non nên hầu hết
các em đều có được vốn ngơn ngữ nhất định. Nội dung dạy luyện nói lớp 1 đã bám sát
trình độ chuẩn và quán triệt những định hướng đổi mới mục tiêu dạy học ở Tiểu học. Nên
việc dạy luyện nói cho học sinh sẽ được thuận lợi hơn.
- Hạn chế: Do đặc điểm của học sinh Mầm non vùng nông thôn đã quen với cách nói tự
do, nói câu rút gọn (thiếu chủ ngữ) gây cảm giác khó nghe, ít gây thiện cảm, thêm vào đó


là thái độ rụt rè, ít cởi mở trong giao tiếp, không mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của mình,
nói lúng ta lúng túng. Cho nên khi các em bước vào lớp 1 các em phải nói có chủ định,

theo từng chủ đề, luyện nói theo tranh, ảnh minh họa, đồ dùng trực quan… trong môn
Học vần và Tập đọc nên các em gặp rất nhiều khó khăn trong cách sử dụng ngôn từ và
câu cú để diễn đạt.
c. Mặt mạnh- mặt yếu
- Mặt mạnh: Trong phân môn Tiếng Việt 1, nội dung dạy luyện nói được cấu trúc chặt
chẽ hợp lí, sắp đặt xen kẽ vào cuối tiết học thứ hai mơn Tiếng Việt. Chủ đề luyện nói bao
giờ cũng có tiếng chứa âm vần mới học. Nội dung các bài luyện nói đa dạng phong phú
về mọi lĩnh vực và tương đối gần gũi với học sinh và được tăng dần ở mức độ theo các
chủ đề giúp học sinh dễ tiếp thu bài.
Sách giáo khoa trình bày hình vẽ rõ ràng gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Mặt yếu: Phần đa giáo viên chưa đầu tư nhiều khi dạy luyện nói cho học sinh, rất ít sử
dụng đồ dùng dạy học cho học sinh quan sát, chỉ dạy lướt qua,… nên chưa phát triển
được vốn từ và cách diễn đạt cho học sinh. Thêm vào đó học sinh cịn rụt rè, thiếu tự tin,
nói chưa thành câu hoặc cũng có em đứng lên khơng dám nói trước đám đơng cũng hạn
chế rất nhiều trong việc bồi dưỡng kĩ năng nói cho các em.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động.
- Đa số học sinh còn rụt rè nhút nhát, nhất là đối với học sinh dân tộc Ê- đê Tiếng Việt
các em chưa rành, vốn từ cịn rất ít nên các em gặp khơng ít khó khăn trong phần luyện
nói, giao tiếp.
- Gia đình cũng chưa thực sự quan tâm đến phần luyện nói cho các em, chủ yếu chỉ quan
tâm đến việc đọc, viết của các em là chính nên cũng khơng sửa đổi, phát triển cách nói,
cách diễn đạt cho các em.
- Qua trao đổi, dự giờ thăm lớp đồng nghiệp tôi nhận thấy vấn đề luyện nói cho các em
vẫn chưa thực sự được quan tâm sâu sát, có chăng thì cũng còn rất sơ sài.
- Tranh ảnh về chủ đề dạy luyện nói cịn hạn chế.
- Một số chủ đề mới đối với các em như: ruộng bậc thang, lễ hội, … Dù giáo viên có nói
chi tiết như thế nào thì học cũng khó hình dung ra được do tư duy của các em chưa cao.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
- Học sinh lớp 1, các em vừa mới rời trường Mầm non, chuyển từ môi trường học tập vui
chơi sang môi trường học tập, các em không thể nói tự do như trước nữa mà phải nói có



chủ định theo từng chủ đề, luyện nói theo tranh, ảnh minh hoạ, đồ dùng trực quan,… nên
các em rất lúng túng trong cách dùng từ, diễn đạt và bày tỏ ý kiến của mình.
Ví dụ: Khi lần đầu tiên tiếp xúc với các em Mầm non bước vào lớp 1, tôi đưa ra một số
câu hỏi để khảo sát tình hình luyện nói của học sinh:
- Gia đình con có mấy người? (Học sinh trả lời: Năm người)
- Tơi hỏi tiếp: Trong gia đình nhà con có mấy anh em? (Học sinh trả lời: Hai, có em trả
lời có hai anh em)
- Trong gia đình con yêu ai nhất? (Ba hoặc mẹ)…
- Một số giáo viên chỉ chú trọng đến kỹ năng đọc, viết trong mơn Tiếng Việt, hồn thành
tiết dạy là chính, cịn kỹ năng nói dường như bị xem nhẹ, ít chú trọng, thậm chí cịn bỏ
qua. Nếu có chăng đi nữa học sinh chỉ được học lướt qua ở phân mơn Kể chuyện và phần
luyện nói trong thời gian rất ngắn.
Ví dụ: Kể chuyện: “Chia phần”
- Giáo viên kể chuyện một đến hai lần nội dung câu chuyện sau đó đàm thoại, gợi ý gọi
học sinh kể lại nội dung từng phần câu chuyện, rồi đến cả câu chuyện . Thời gian đàm
thoại, bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh chỉ dừng lại ở một vài câu hỏi. Chẳng hạn:
- Tranh vẽ gì?
- Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những ai?
- Câu chuyện này xảy ra ở đâu?
- Qua câu chuyện này, con thấy các nhân vật thế nào?
- Sau đó gọi học sinh nêu ý nghĩa câu chuyện.
- Cũng cịn có một số giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp nội dung dạy học kỹ năng
nói với các kỹ năng cịn lại (đọc, viết, nghe) vào các môn học khác. Chưa vận dụng hết
phương pháp, tâm huyết của mình để dạy cho học sinh của mình luyện nói có hiệu quả.
Ví dụ:
- Trong các môn: Đạo đức, TNXH… giáo viên cho học sinh luyện nói trong khi trao đổi
nhóm với bạn hoặc đàm thoại cả một tập thể (GV hỏi học sinh cả lớp trả lời) trong một
hoạt động của bài như:

- Luyện nói trong mơn Đạo đức bài tập 1 (Bài 14: Bảo vệ hoa và cây nơi công cộngVBT Đạo đức trang 45)
- Con quan sát tranh và cho biết:


- Các bạn nhỏ đang làm gì?
- Những việc làm đó có lợi gì?
- Con có thể làm được như các bạn không?
Giáo viên chỉ dừng lại mức độ “Thầy hỏi - trò đáp hoặc bạn này hỏi và bạn khác trả lời”
Trong q trình giao tiếp bằng ngơn ngữ một số em cịn vụng về, nói cịn lấp lửng, chưa đủ câu,
nói nhát gừng, thiếu chủ ngữ, cử chỉ thể hiện chưa đúng với hoàn cảnh… là do giáo viên ít có
thời gian sửa sai, uốn nắn kịp thời cho các em.
Ví dụ: Khi giao tiếp với bạn bè trong và ngoài lớp (Trong giờ ra chơi, hoặc trao đổi trong
giờ học…)
- Học sinh A giao tiếp với học sinh B
- Mầy làm bài xong chưa? (Chưa xong)
- Cho tao bắn bi với? …(Khơng)
Ví dụ: Giao tiếp với thầy cơ, người lớn.
Em đó khơng làm bài tập ở nhà, cô giáo hỏi: Tại sao cô giao bài tập về nhà em khơng
làm? Em đó chỉ trả lời: Dạ…Dạ… rồi đứng im. Hay khi gặp người khách vào nhà, em chỉ
nhìn người khách nở nụ cười rồi bẻn lẽn bỏ đi chơi, khơng biết dùng câu nói nào cho phù
hợp để chào khách và tạm biệt người khách để đi chơi…
Cũng cịn một số ít giáo viên khi trao đổi, trị chuyện với đồng nghiệp, bạn bè ít chú ý,
quan tâm để ý từng lời nói, hành động của mình.
Hoặc khi tổ chức các hoạt động ngoại khoá, ban tổ chức, anh, chị phụ trách… thường chú
ý đến nội dung cần truyền đạt, ít chú ý đến việc rèn nói của các em.
Quá trình hình thành bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 chưa được các mối quan
hệ: gia đình, nhà trường, xã hội kết hợp chặt chẽ, quan tâm đúng mức.
Ví dụ: Trong các cuộc gặp gỡ gia đình, họp ban đại diện phụ huynh… giáo viên chỉ trao
đổi về đọc, viết, tính tốn… của học sinh cịn vấn đề luyện nói của các em ít được đề cập
tới.

Hoặc: Trong các cuộc họp thôn, buôn họ chỉ trao đổi với nhau về vấn đề nông nghiệp,
bàn và giải quyết các nội chính là chủ yếu, cịn việc nói năng của học sinh họ nghĩ rằng
đó là việc của nhà trường…
Dạy học sinh lớp 1 đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết, chịu khó, kiên trì lâu dài
trong quá trình hình thành, rèn luyện kỹ năng nói cho các em, tạo tiền đề cho các em học
tốt phân môn Tập làm văn, Luyện từ và câu… ở các lớp trên mà còn giúp cho các em có


một kỹ năng sống tốt, trở thành người có văn hố, có nhân cách, những người có ích cho
xã hội.
Từ những thực trạng trên, tơi đã tìm ra một số giải pháp thiết thực để giúp các em lớp 1
rèn luyện kỹ năng nói và kỹ năng diễn đạt ý phong phú, hiệu quả hơn, giáo viên và học
sinh hứng thú tích cực hơn trong việc học mơn Tiếng Việt và các môn học khác.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy luyện nói cho học sinh chưa cao.
Đề xuất, áp dụng một số nội dung và kinh nghiệm hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói
cho học sinh lớp 1 giúp học sinh học tốt phần luyện nói trong mơn học Tiếng Việt và các
mơn học khác cũng như trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày.
b. Nội dung và cách thức thực hiện Giải pháp, biên pháp:
Nội dung:
1. Rèn kỹ năng nói theo từng chủ đề trong phân mơn Học vần và Tập đọc.
2. Dạy luyện nói trong kể chuyện.
3. Dạy luyện nói kết hợp với các mơn học khác.
4. Dạy luyện nói trong giao tiếp.
5. Giáo viên là tấm gương thể hiện hành vi giao tiếp để học sinh noi theo.
6. Dạy luyện nói khi tổ chức các hoạt động ngoại khóa.
7. Kết hợp các mối quan hệ: Nhà trường, gia đình, xã hội.
Cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp.
1. Rèn kỹ năng nói theo từng chủ đề trong phân môn Học vần và Tập đọc.

* Bước 1:
Trước hết chúng ta thấy nội dung luyện nói ở lớp 1 được xây dựng trên các chủ đề gần
gũi với các em bằng tranh ảnh minh họa.
Chính vì vậy, muốn dạy luyện nói có hiệu quả thì hoạt động đầu tiên giáo viên cần tiến
hành là cho học sinh đọc tên chủ đề nhằm gây hứng thú và tập trung cho học sinh, bằng
cách sử dụng tranh ảnh đẹp, chứa nội dung cần luyện nói để tạo tính tị mị muốn khám
phá.


Tập cho học sinh đọc đúng tên chủ đề phần luyện nói trong bài. Bởi vì phát âm đúng,
chính xác sẽ giúp cho học sinh nói rõ ràng hơn dẫn đến nói liền mạch, lưu lốt cả câu, cả
đoạn, cả bài. Từ đó hoc sinh khắc phục được những lỗi sai khi phát âm.
Ví dụ: Các chủ đề: Bữa cơm, Sói và Cừu, Bà cháu, Đất nước ta tuyệt đẹp…Học sinh phát
âm sai chưa chuẩn. Giáo viên chúng ta phải sửa các lỗi về phát âm địa phương như: cừukiều, sói-xói, tuyệt-tiệc…
* Bước 2:
Hướng dẫn học sinh thực hành luyện nói trong nhóm.
Giáo viên chia nhóm cho học sinh tự luyện nói trước nhóm để cả nhóm thảo luận, góp ý,
dưới sự hướng dẫn gợi ý, bằng các câu hỏi của giáo viên. Để các em luyện nói nhiều hơn,
chính xác hơn và những em lười hay học yếu không đứng ngồi “rìa” của hoạt động, giáo
viên chia nhóm, mỗi nhóm hai học sinh để mỗi học sinh sẽ được nói ít nhất 1 lần trong
nhóm. Để đảm bảo về mặt thời gian, với những học sinh yếu, giáo viên khuyến khích các
em tập nói nhiều lần trong nhóm từ một câu rồi đến hai câu.
Tạo cho các em mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp, bằng những lời xưng hô phù hợp với
từng đối tượng. Giáo viên theo dõi, quan sát để kịp thời uốn nắn, chữa từng tiếng, từng
câu xoay quanh chủ đề đang nói.
Ví dụ: Chủ đề: Nói lời xin lỗi, Nói lời cảm ơn, Vâng lời cha mẹ…Với các chủ đề này,
giúp các em biết nói lời xin lỗi khi có lỗi, biết chào hỏi, cám ơn,… bằng những câu đơn
giản làm cho người nghe dễ hiểu khi giao tiếp trong cuộc sống.
* Bước 3.
Luyện nói trước lớp.

Sau khi các em luyện nói trong nhóm, giáo viên cử đại diện lên trình bày. Nếu để cho các
nhóm trưởng cử, thường thì các em cử các bạn có năng lực luyện nói tốt. Tuy nhiên để
tránh tình trạng chây lười, ỷ lại các em học tốt, giáo viên có thể cho các em khác bất kì
trong nhóm lên luyện nói, đặc biệt là các em hay rụt rè, khơng dám nói trước đám đơng.
* Bước 4. Hướng dẫn học sinh nhận xét.
Cho học sinh nhận xét cách luyện nói của mình, khơng nhận xét chung chung, mà yêu
cầu các em khác nhận xét cụ thể về một nội dung luyện nói, tác phong luyện nói có tự
nhiên, đã thành câu, hay rụt rè, chưa thành câu… Với học sinh cịn yếu thì giáo viên
hướng dẫn các em khác nhận xét về mức độ tiến bộ của bạn nhằm giúp các bạn đó tự tin
và tiến bộ hơn.
* Bước 5


Giáo viên nhận xét, tổng kết.
Sau khi các em nhận xét về cách luyện nói của bạn mình, của nhóm này với nhóm khác,
GV đi đến tổng kết nhận xét chung. Nhận xét một cách cụ thể cần khen ngợi, khuyến
khích các em luyện nói tốt. Đồng thời chỉ ra những chi tiết, những vấn đề mà các em
chưa làm tốt, khuyến khích các em bổ sung sửa chữa vào những bài luyện nói tiếp theo.
Ví dụ:
Khi dạy luyện nói về chủ đề: “Mai sau khôn lớn” trong bài 46 phần học vần trong SGK
Tiếng Việt 1, tập 1, trang 94 tôi đã hướng dẫn học sinh luyện các bước sau:
* Bước 1
Cho học sinh đọc tên chủ đề luyện nói.
Đưa tranh phần luyện nói (đã có sẵn trong bộ đồ dùng) để kích thích sự hứng thú của học
sinh. Học sinh quan sát toàn bộ bức tranh.
* Bước 2
Giáo viên chia nhóm đơi để học sinh thực hành nói trong nhóm trước khi nói trước lớp
với sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. (Một học sinh hỏi và một học sinh trả lời và ngược
lại).
Học sinh quan sát thật chi tiết nội dung các bức tranh và trả lời

Hình 1: Trong tranh vẽ một em bé cịn nhỏ.
Hình 2: Trong tranh vẽ một chiến sĩ biên phòng
- Bạn nhỏ trong tranh đã mơ ước điều gì? (Bạn nhỏ trong tranh mơ ước lớn lên trở thành
một chiến sĩ biên phịng)
Hoặc: Hai học sinh nói cho nhau nghe theo tranh và tự phát triển chủ đề nói
Mai sau lớn lên, bạn thích làm nghề gì?
Tại sao bạn thích nghề đó?
Với học sinh học yếu, giáo viên sẽ gợi ý kĩ hơn. Chẳng hạn: Nghề đó đem lại lợi ích gì
cho bản thân và cho mọi người? Với học sinh khá thì gợi ý mở rộng thêm:
Em đã nói hoặc sẽ nói ý định đó với ai?
Muốn trở thành người như em mong muốn, ngay từ bây giờ em phải làm gì?
Với học sinh khá, giỏi nói gợi ý trên một cách tự nhiên thành công, bước đầu biết liên kết
các câu lại thành một bài nói.


* Bước 3: Nói trước lớp
Giáo viên cho nhóm trưởng nói hoặc cử đại diện nhóm nói trước lớp.
- Đại diện các nhóm trình bày.
- Khi cử đại diện nói trước lớp phải lưu ý gọi nhiều đối tượng khác nhau trong lớp vừa uốn
nắn, sửa chữa vừa học tập lẫn nhau để các em cùng nhau tiến bộ.
* Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét.
Cho học sinh nhận xét cách luyện nói của bạn mình, cụ thể:
+ Nội dung bài nói của bạn đã phù hợp với chủ đề “Mai sau khôn lớn” chưa?
+ Với các bạn… (yếu) đã nói tiến bộ chưa về cách nói và nội dung nói. Học sinh nhận xét
cụ thể từng bạn về những điểm đạt được và chưa đạt được, cần khắc phục ở điểm nào?
* Bước 5: Giáo viên nhận xét, tổng kết
Nhận xét cụ thể những điều đã làm được để khuyến khích khen ngợi các em. Chỉ ra chi
tiết vấn đề chưa làm được, động viên các em khắc phục trong bài luyện nói sau.
Hoặc hướng dẫn học sinh tự luyện nói theo chủ điểm “Nhà trường” trong bài đọc:
“Trường em” SGK Tiếng Việt 1, tập 2.

Giáo viên chia lớp thành hai nhóm và yêu cầu học sinh quan sát tranh trong SGK, đọc
câu mẫu, dựa vào câu mẫu nói câu mới theo yêu cầu.
Giáo viên cho một bên nhóm này nói câu có vần “ai”, nhóm bên kia nói câu có vần “ay”
hoặc ngược lại.
Ví dụ:
- Hơm nay thứ hai mình được hai điểm 10.
- Khi đi học mình phải rửa tay chân…
Khi học sinh tập nói câu, giáo viên theo dõi chỉnh sữa câu nói của học sinh cho phù hợp
nội dung, diễn đạt được ý trọn vẹn.
Cho học sinh hỏi đáp với nhau theo đề tài: Hỏi nhau về trường lớp. (Các em hỏi đáp theo
câu mẫu và câu các em tự nghĩ ra)
Ví dụ:

- Trường bạn tên gì?
- Ở trường bạn mến ai nhất?
- Bạn thích học mơn nào nhất? Vì sao? ...


Giáo viên cần phân ra các chủ đề thành nhiều nhóm khác nhau để lựa chọn phương pháp
và hình thức dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh.
Ví dụ: Phân các chủ đề thành các nhóm như: Nói lời xin lỗi, nói lời cảm ơn, giúp đỡ cha
mẹ, con ngoan trò giỏi, những người bạn tốt,… hoặc các chủ đề về các con vật: Chuồn
chuồn, châu chấu, cào cào, gấu, báo, voi; sẻ, ri, ong, bướm, chim, cá,… hoặc chủ điểm:
Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên, Đất nước… trong phân mơn Tập đọc.
Bằng các hoạt động thầy hỏi, trị đáp dựa trên lời nói của học sinh, giáo viên chỉnh sửa
câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý, diễn đạt được ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề.
2. Dạy luyện nói trong kể truyện.
Giờ kể chuyện là giờ thực hành nói của học sinh. Sau khi nghe giáo viên kể chuyện, học
sinh nhớ được nội dung chính của câu chuyện, kể lại (hoặc nói) được câu chuyện một
cách tóm tắt (dựa theo tranh). Vì vậy để dạy học sinh luyện nói tốt trong giờ kể chuyện,

theo tơi có những u cầu và biện pháp sau:
a. Những yêu cầu đối với giáo viên
Cần rèn giọng kể linh hoạt, phù hợp với nội dung, làm cho lời kể thật sự hấp dẫn với học
sinh. Muốn vậy, cần đọc kĩ văn bản cho thật hiểu và nhớ để xác lập được kĩ thuật kể
chuyện (về giọng kể, nhịp điệu, ngắt giọng)
b. Các bước tiến hành để dạy học sinh luyện nói trong giờ kể chuyện.
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện
Biết mở đầu câu chuyện là một thủ thuật giúp học sinh tạo hứng thú, sự chờ đợi, kính
thích trí tị mị của các em.
* Bước 2: Giáo viên kể chuyện 2, 3 lần
Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện
Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn (kết hợp tranh minh họa)
Khi kể cần chú ý kĩ thuật kể:
+ Giọng kể: vui hoặc buồn, hào hứng hoặc bi lụy……
+ Nhịp điệu: nhanh hoặc chậm, gấp gáp hoặc hiền hòa, khoan thai.
+ Ngắt giọng tâm lý: ngắt giọng với các chủ ý gây ấn tượng câu chuyện.
+ Biết bổ sung hợp lí một vài từ ngữ vào văn bản chuyện vốn cô đọng, hàm xúc, sẽ làm
cho lới kể chuyện thêm sinh động, lôi cuốn thêm.


* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn câu chuyện theo tranh và gợi ý dưới tranh. Vì đây là
bước học sinh thực hành nói nên để học sinh nào cũng được tham gia. Giáo viên sẽ chia
lớp theo nhóm 2, 4 học sinh kể trong nhóm đoạn 1, cả nhóm thảo luận, góp ý.
Đại diện 2, 3 nhóm lên kể, cả lớp lắng nghe bạn kể và nhận xét.
Các đoạn 2, 3, 4 thực hiện tương tự.
* Bước 4: Kể tồn bộ câu chuyện (học sinh khá, giỏi)
- Có thể tiến hành theo nhiều hình thức và thay đổi các hình thức hợp tác thực hiện một
nhiệm vụ học tập ở mỗi tiết học để tạo sự hấp dẫn.
- Tổ chức cho các em tham gia các trò chơi như: Kể chuyện tiếp sức, kể chuyện phân vai,
đóng vai, dựng hoạt cảnh……

Ví dụ: khi dạy bài kể chuyện “Sói và Sóc” trang 108 SGK Tiếng Việt 1, tập 2.
Để rèn kỹ năng nói cho học sinh tơi đã tiến hành các bước như sau:
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện.
Một lần Sóc bị rơi trúng người Sói. Sóc bị Sói bắt. Tình thế thật nguy hiểm. Liệu Sóc có
thể thốt khỏi tình thế nguy hiểm đó khơng? Các em hãy theo dõi câu chuyện để tìm câu
trả lời.
Bước 2: Giáo viên kể chuyện
- Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện.
- Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn (kết hợp tranh minh họa)
Chú ý kĩ thuật kể:
+ Lời mở đầu truyện: kể thong thả, dừng lại ở các chi tiết Sói định ăn thịt Sóc, Sóc van
nài.
+ Lời Sóc khi cịn trong tay Sói: kể mềm mỏng, nhẹ nhàng.
+ Lời Sói thể sự băn khoăn. Lời Sóc khi đứng trên cây giải thích: ơn tồn nhưng rắn rỏi,
mạnh mẽ.
* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn theo tranh
Giáo viên chia nhóm 2 học sinh giao nhiệm vụ.
Tranh 1: Học sinh quan sát tranh đọc các câu hỏi dưới tranh. Học sinh kể lại từng đoạn
dựa theo tranh trong nhóm.


Đại diện vài nhóm thi kể, cử 2 học sinh làm giám khảo chấm điểm công khai. Cả lớp
nhận xét cụ thể: Bạn đã nhớ nội dung đoạn chuyện chưa, kể cịn thiếu hay thừa chi tiết
nào khơng? Có diễn cảm khơng? Sau đó giáo viên sửa chữa từ ngữ, câu, ý cho học sinh
diễn đạt được trôi chảy. Tương tự các tranh còn lại. Giáo viên hướng dẫn bằng những câu
hỏi gợi ý để giúp các em tự tin hơn khi kể chuyện, tạo điều kiện cho các em được nói
trước lớp.
* Bước 4: Học sinh phân vai kể tồn bộ câu chuyện (học sinh khá, giỏi)
Mỗi nhóm gồm 3 em đóng vai: Người dẫn chuyện, Sói và Sóc.
Để việc phân vai thật hứng thú, hấp dẫn với các em, nên cho các em trang phục mặt nạ

Sói và Sóc.
Để học sinh nhớ chắc chắn, kể được tồn bộ câu chuyện, giáo viên tăng dần yêu cầu với
mỗi nhóm:
+ Nhóm 1: Giáo viên là người dẫn chuyện các nhân vật nhìn tranh minh họa và câu hỏi
gợi ý dưới tranh trong SGK để kể chuyện.
+ Nhóm 2: Người dẫn chuyện nhìn sách
+ Các nhóm sau: Kể thốt li sách, thực sự nhập vai.
Giúp các em luyện nói qua phần tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện. Giáo viên gơị ý một số câu
hỏi chẳng hạn như:
- Sói và Sóc con vật nào thơng minh hơn?
- Vì sao con biết?
- Muốn thơng minh các con phải làm gì?
……
Tóm lại: Dạy luyện nói trong phân mơn kể chuyện người giáo viên chú ý rèn cho các em
mạnh dạn, tự tin, khi học sinh kể, giáo viên chú ý sửa về ngữ điệu, chỉnh sửa sao cho rõ,
gọn, diễn đạt đủ ý, phù hợp với nội dung câu chuyện muốn kể. Từ đó giúp các em áp
dụng được vào cuôc sống thực tế.
3. Dạy luyện nói kết hợp với các mơn học khác
Luyện nói có vai trị quan trọng và diễn ra trong nhiều mơn học khác nhau. Cho nên,
trong bất kì một tiết học hay một môn học nào khác giáo viên đều cho học sinh luyện nói.
Bằng cách cho các em tập phát biểu miệng khi xây dựng bài, hay trao đổi sơi nổi khi
tham gia thảo luận nhóm. Thực tế luyện nói khơng chỉ diễn ra trong mơn Tiếng Việt mà ở
các mônTự nhiên và xã hội, môn Đạo đức,… cũng là môi trường rất tốt để các em luyện


nói. Thơng thường thời gian luyện nói của mơn TNXH, môn Đạo đức diễn ta thường
xuyên ở các hoạt động: quan sát tranh, thỏa luận nhóm, đàm thoại giữa giáo viên với học
sinh, hoạt động đóng vai… Các hoạt động này giúp cho học sinh tính cực tham gia sử
dụng ngơn ngữ rất nhiều, chính vì vậy đây là mơi trường thuận lợi để các em luyện nói,
phát triển ngơn ngữ của mình.

Ví dụ: khi dạy bài 11 “Gia đình” mơn TNXH, giáo viên gợi ý cho học sinh nói về gia
đình của mình cho bạn nghe. Hoạt động theo nhóm đơi sau đó nói trước lớp hoặc ở hoạt
động 1 cho học sinh quan sát tranh theo nhóm nhỏ 3, 4 học sinh rồi nói theo câu hỏi gợi
ý.
- Gia đình Lan có những ai? Lan và những người trong gia đình đang làm gì?
- Gia đình Minh có những ai? Minh và những người trong gia đình đang làm gì?
- Đại diện nhóm kể trướng lớp. Gọi học sinh nhận xét cách kể của bạn đã đầy đủ chưa, rõ
lời, lưu loát chưa… Giáo viên tuyên dương cách nói hay, đầy đủ và kết luận.
Trong mơn đạo đức giáo viên cũng thực hiện kết hợp tương tự để học sinh luyện nói.
Ví dụ: Khi dạy bài 13 “Chào hỏi và tạm biệt” VBT Đạo đức trang 42.
Hoạt động đầu tiên ở bài tập 1 là quan sát tranh 1 và tranh 2 ở VBT
Giáo viên gợi ý: Trong tranh con thấy vẽ những gì? (Trong tranh con thấy 1 cụ già và 2
bạn nhỏ).
Các bạn trong tranh đang làm gì? (Bạn đang chào bà cụ: Chúng cháu chào bà ạ)…
Giáo viên cho học sinh thảo luận trong nhóm đơi hay nhóm ba (ở hoạt động hai) theo các
câu hỏi gợi ý để học sinh luyện nói với nhau trong nhóm sau đó xung phong lên trình bày
ý kiến trước lớp:
Em cảm thấy thế nào khi:
+ Được người khác chào hỏi?
+ Em chào hỏi họ và được họ đáp lại?
……
Hãy viết mỗi bạn một vài câu hỏi theo suy nghĩ của mình vào giấy hoặc bảng con sau đó
từng cá nhân trong nhóm đọc lên, trao đổi với nhau.
Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn từ, lời nói, thái độ… và giáo viên sửa chữa, uốn nắn
các em, giúp các em nhận ra cách thể hiện, ứng xử hay nhất, lời nói hay nhất.
4. Dạy luyện nói trong giao tiếp


Hoạt động nói đã được hình thành trước khi vào lớp 1, nhưng để trở thành kĩ năng thì
phải được uốn nắn, rèn luyện cả quá trình giao tiếp với thầy cơ, bạn bè, người thân, …

Ví dụ: Khi tiếp xúc với giáo viên:
Giáo viên hỏi: “Em đã làm bài tập về nhà chưa?”
Học sinh trả lời: “Xong rồi.”
Khi đó giáo viên phải chỉnh sửa ngay cho học sinh: “Em khơng được nói trống khơng
như thế mà phải nói thành câu trọn vẹn và thể hiện thái độ tôn trọng thầy cô. Chẳng hạn:
“Thưa cô, em đã làm xong rồi ạ!”
Hoặc khi giao tiếp với bạn bè, các em xưng hô với bạn mày, tao... hay trả lới rút gọn đơi
khi cịn thơ lỗ, cộc cằn với bạn mà khơng hề biết cách nói của mình khơng hay, thiếu tế
nhị. Hay khi nói chuyện với người lớn, đơi khi các em chưa hiểu nên các em nói chuyện
cịn thiếu lễ phép, cộc lốc, như trong trường hợp sau:
Có một phụ huynh đến xin phép cho nghỉ học vì học sinh đó bị ốm nhưng khơng biết
phịng học của lớp (Vì mỗi lần họp phụ huynh đều do bố đi dự họp) nên hỏi một học
sinh: “Lớp 1D học phòng nào vậy con?” Lập tức em đó trả lời: “Kia kìa!”.
Lớp tơi đang giảng dạy có các em: Nguyễn Văn Bình, Ngô Gia Huy, Y Hiếu Mlô, Y
Cách Niê, … Các em này khi nói thì ln đứng im hoặc trả lời thì chỉ nói cộc lốc, tiếng
một trong trường hợp thế này: Hơm đó có tiết tập viết vở ơ li nhưng thấy em khơng có vở
nên tơi hỏi: “Vở ô li của con đâu?”, Em đó đứng im một lúc sau rồi trả lời: “Ở nhà”.
Qua thời gian rèn luyện, chỉ dẫn, các em đã hiểu biết, nói dễ nghe hơn, lời nói đủ câu, lưu
lốt, tế nhị hơn.
Thực tế không chỉ là học sinh lớp 1 mà học sinh ở các lớp trên đều nói câu rút gọn, thiếu
chủ ngữ, đơi khi thể hiện câu nói thiếu lễ phép, thiếu văn hố,…
Ví dụ: Một nhón học sinh lớp 4, 5 đi học về gặp cơ giáo cũ, có em khơng chào hỏi, cịn
có em chỉ chào tiếng một mà tôi nghe được “Cô”. Hôm sau tôi gặp GVCN trao đổi, cô và
tôi cùng sửa chữa ngay lời chào cho các em khi gặp người lớn, thầy cô giáo… lần sau gặp
tơi các em có sự chuyển biến rất tốt.
5. Giáo viên là tấm gương thể hiện hành vi giao tiếp để học sinh noi theo.
Ngoài các hoạt động dạy học trên, giáo viên chủ nhiệm cần thường xuyên gần gũi, bám
sát học sinh trong mọi hoạt động (trong sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, khi lao
động dọn vệ sinh…). Giúp các em luyện nói ở mọi lúc, mọi nơi khi cảm thấy cần thiết,
khi trò chuyện trao đổi, trò chuyện với các bạn, giáo viên cần quan tâm để ý từng lời nói,

hành động của các em để các em sửa sai kịp thời. Hướng dẫn cho các em cách nói, xưng


hô với người lớn, với thầy cô, bạn bè. Tập cách nói thành câu khi trả lời khi người lớn
hỏi, câu nói phải có chủ ngữ, giáo viên là tấm gương thực tế nhất giúp cho học sinh luyện
nói. Cho nên khi giao tiếp, giáo viên cần chú mọi lúc, mọi nơi khi thể hiện lời nói của
mình để học sinh noi theo.
Ví dụ: Khi chào hỏi đồng nghiệp: Em chào anh (Chị)! Thông thường chúng ta chỉ chào:
Chào anh (chị)! Hoặc khi kiểm tra bài của học sinh, giáo viên thường gọi: Em lên đọc
bài…(Giáo viên nên gọi: Thầy(Cô) mời em lên trước lớp đọc bài)...
Trong lúc tiếp chuyện với phụ huynh, giáo viên cũng cần chú ý từng lời nói, hành động,
cử chỉ để học sinh noi theo.
6. Dạy luyện nói khi tổ chức các hoạt động ngoại khoá.
Trong các buổi sinh hoạt sao hàng tuần, giáo viên chủ nhiệm cũng cần hướng dẫn các em
phụ trách sao soạn sẵn nội dung sinh hoạt, sao cho các câu hỏi, câu trả lời đầy đủ về ý, rõ
lời, diễn đạt được nội dung cần giao tiếp được lưu loát, bóng bẩy hơn để các em học hỏi.
Ví dụ: Khi các em gặp anh(chị) phụ trách sao ở mỗi lần sinh hoạt:
- Anh(Chị) chào các em!
- Chúng em chào anh chị ạ!
- Anh (chị) sẽ hướng dẫn cho các em chơi các trị chơi mới, các em có thích khơng nào?
- Thưa anh (chị) thích ạ! …
Hay lúc sinh hoạt đầu tuần, cuối tuần ngoài việc trao đổi với nhau vấn đề học tập, giáo
viên cũng nên dành ít thời gian nói chuyện với các em. Chính lúc này các em mới cởi mở,
thể hiện tâm tư, tình cảm, lời nói của mình. Chắc chắn sẽ có em thể hiện câu nói đúng,
trơi chảy, lưu lốt, đủ câu ... nhưng cũng có em chưa nói lưu lốt, vụng về trong câu nói
của mình. Từ đó giáo viên chỉnh sửa câu nói của các em cho phù hợp với hồn cảnh giao
tiếp.
Hoạt động ngoại khoá là một trong những hoạt động các em rất yêu thích nên các em
nhanh nhớ và nhớ rất lâu.Giáo viên có thể lồng ghép, hướng dẫn theo dõi, uốn nắn các
em nói thuận lợi, mang lại hiệu quả cao.

Ví dụ: Khi nhà trường tổ chức các cuộc thi như: “Kỹ năng chuyên môn đội”, “Trạng
Nguyên nhỏ tuổi”, … và các trò chơi dân gian. Các em có thể vì tranh thắng thua mà có
cách cư xử khơng tế nhị, lời nói khơng hay với bạn, … giáo viên cần phân tích, chỉ ra
những câu nói khơng hay, cách xưng hô đúng mực với bạn bè.
7. Kết hợp các mối quan hệ: Nhà trường, gia đình và xã hội.


Về gia đình: Trong mỗi lần họp phụ huynh, phụ huynh nào cũng chỉ hỏi GVCN con mình
thi được bao nhiêu điểm, đọc, viết có được khơng… ít chú ý tới việc luyện nói của các
em. Cho nên ngồi việc thông báo kết quả học tập giáo viên dành thời gian đề cập đến đề
luyện nói của các em với phụ huynh học sinh để cùng nhà trường bồi dưỡng, rèn luyện
cho các em được tốt hơn.
Về Xã hội: GVCN gặp ban đại diện thôn, buôn, trao đổi vấn đề của mình để khi phụ
huynh đi họp thơn, bn họ cùng nhau nhắc nhở.
Ví dụ: Hướng dẫn các em chào hỏi khi gặp thầy cơ, khi có khách tới nhà. Hướng dẫn
luyện nói trong khi mọi người ăn cơm, hỏi thăm sức khoẻ của người ở xa…
Học sinh hay nói chưa đủ câu, nói cộc Gia đình uốn nắn sửa chửa
lốc, chưa lưu loát…
Chào Bác!

Con chào bác ạ!

Ăn Cơm

Con mời bố, mẹ ăn cơm

c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện tốt việc hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1, giáo viên
cần chú ý thực hiện một số điểm sau:
Xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề cần luyện nói. Chính chủ đề là điểm tựa,

gợi ý cho phần luyện nói, gợi ý sao cho tất cả học sinh đều được nói, khơng đi q xa chủ
đề.
Tùy tình hình thực tế và khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp và hình thức
dạy luyện nói phù hợp với đối tượng.
Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng bài thật kĩ.
Cần định hướng trước khi học sinh luyện nói. Khi khi đặt câu hỏi phải sát với nội dung
chủ đề cần luyện nói. Chuẩn bị một số câu hỏi gợi mở cho các em yếu, lúng túng sẽ nói
dễ dàng hơn.
Khi học sinh đang nói, giáo viên khơng nên ngắt lời các em một cách tùy tiện (kể cả việc
tiếp lời các em không đúng lúc) sự đứt mạch trong suy nghĩ hoặc lời nói bị gián đoạn sẽ
làm các em lúng túng, nhiều khi các em khơng nói tiếp được nữa. Cho nên giáo viên cần
bình tĩnh, tơn trọng học sinh, đợi học sinh nói hết câu mới được sửa chữa.
Giáo viên cần giúp học sinh bình tĩnh, tự tin đồng thời phải chú ý đến thái độ người nghe
trong khi mình nói.


Ngoài các tranh ở SGK giáo viên chuẩn bị thêm một số tranh ảnh, phương tiện dạy học
cho phần luyện nói thêm sinh động và có hiệu quả nhất.
Giáo viên chú ý rèn cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi trình bày một vấn đề.
Giáo viên phải chỉnh sửa về mặt ngữ điệu, lời nói cho các em phải rõ ràng, gọn, đủ ý.
Bên cạnh đó giáo viên phải chú ý từng lời nói, hành động của mình để học sinh noi theo.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm bồi dưỡng và nâng
cao kỹ năng nói tốt cho học sinh, giúp các em tự tin, mạnh dạn trong học tập và trong
giao tiếp hằng ngày góp phần hồn thiện nhân cách cho học sinh.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp.
Để thực hiện tốt việc rèn luyện và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh khối lớp 1, chúng
ta cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Tạo tâm thế sẵn sàng học tập cho học sinh: để có được bài nói tốt, người nói cần có sự
chuẩn bị tốt các việc cần làm để thực hiện bài nói có hiệu quả. Đối với học sinh lớp 1, sự
chuẩn bị trước tiên cho giờ luyện nói các em phải có hứng thú học tập. Bởi lẽ, nội dung

luyện nói thường khó đối với học sinh. Mặt khác mục luyện nói sắp xếp vào cuối tiết học,
các em đã mệt mỏi, sự chú ý khơng cao. Vì vậy, trong suốt các nội dung học tập trước đó
của giờ học, giáo viên cần tạo khơng khí học thật nhẹ nhàng, tự nhiên và nên duy trì điều
đó trong giờ luyện nói.
Xác định rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói, giúp học sinh hiểu rõ chủ đề và gợi ý
sao cho tất cả các học sinh đều được nói.
* Các hoạt động trong giờ luyện nói.
Giáo viên phải kích thích nhu cầu nói của học sinh bằng cách sử dụng trực quan, tạo tình
huống giao tiếp phù hợp, động viên học sinh tham gia tích cực khi luyện nói.
Ngồi hoạt động luyện nói theo chủ đề chúng ta cần tạo nhu cầu giao tiếp nhất định. Học
sinh sẽ khơng nói được hoặc khơng đạt hiệu quả gì khi ép buộc phải giao tiếp.Vì thế, việc
tạo ra nhu cầu nói năng cho học sinh hết sức quan trọng. Khi có nhu cầu biểu đạt, các em
sẽ mạnh dạn hơn, hứng thú hơn, trình bày chân thực hơn những suy nghĩ riêng của mình
về đề tài đang được bàn đến, tránh để tình trạng mượn lời hoặc nói lại lời người khác.
Để tạo ra nhu cầu giao tiếp cho học sinh, giáo viên cần phải tạo ra những tình huống giả
định, song phải có tính chân thực, khơng gượng ép, khơ cứng, phải gần gũi và có sức hấp
dẫn, lơi cuốn, kích thích nhu cầu cho các em khi đã hồ mình vào tình huống, nhập được
vai giao tiếp thì lúc ấy các em sẽ thực sự thể hiện hết mình điều muốn nói. Nhu cầu giao
tiếp rất đa dạng như: nhu cầu muốn bộc lộ sự hiểu biết, muốn thể hiện kết quả học tập,


rèn luyện, nhu cầu muốn tranh luận, bàn bạc với bạn bè một vấn đề gì đó… Tất cả những
nhu cầu đó đều là động lực kích thích các em nói trong lúc luyện nói. Vì thế giáo viên
cần quan tâm tìm hiểu nhu cầu nói của học sinh để có những biện pháp kích thích nhu
cầu đó, tạo húng thú học tập, từ đó góp phần quan trọng làm tăng hiệu quả dạy học luyện
nói.
Cần giúp học sinh xác định được những việc cần làm để thực hiện tốt bài tập nói. Đó là:
Nói về đề tài gì? (nội dung bài nói), Nói cho ai nghe? (đối tượng tham gia hội thoại). Chỉ
khi nào các em tìm được câu trả lời chính xác cho những câu hỏi này thì các em mới làm
được bài luyện nói của mình.

Giáo viên phải tạo được hoàn cảnh giao tiếp tốt (Điều kiện lớp học), cần phải chú ý đến
tư thế của giáo viên, khơng khí của lớp học, các hoạt động nghe của học sinh.
Biết cách luyện tập từ dễ đến khó, từ nói từng từ thành nói thành câu rồi liên kết các câu
thành một bài nói, từ nói về chủ đề dựa vào tranh đến phát triển về chủ đề đó…
Phải lựa chọn và sử dụng lời nói đúng với vai trị giao tiếp. Khi nói phải đảm bảo tính văn
hố của lời nói, phải nói đúng lúc, đúng chỗ, khơng nên có những lời nói và cử chỉ thừa,
tránh thái độ thờ ơ cũng như tránh thái độ nóng nảy khi khơng đồng tình với ý kiến người
khác.
Đưa các em vào trong các tình huống giao tiếp để em nào cũng được thực hành nói. Giáo
viên cần giúp học sinh sử dụng ngữ điệu phù hợp khi nói, tránh lối nói như đọc thuộc
lịng..
Để tăng hiệu quả luyện nói cho học sinh giáo viên cần khuyến khích động viên khích lệ
các em để các em tự tin, phấn khởi khi tham gia nói. Nếu lớp học ồn ào hoặc người nghe
khơng có thái độ tơn trọng người nói, khơng có ý thức cộng tác hội thoại thì người nói sẽ
khơng nói được, các em sẽ khó diễn đạt khi phải nhìn trước ánh mắt nghiêm khắc của
giáo viên hoặc cái nhìn xét nét của bạn bè trong lớp.
Thời gian dạy luyện nói trong mơn Tiếng Việt khơng nhiều, nhất là ở phần Học vần (từ 3
đến 7 phút) nên giáo viên phải tận dụng thời gian, phối hợp với các môn học khác như:
Môn TNXH, Đạo đức (hoặc phân môn Tập làm văn miệng, Luyện từ và câu đối với các
lớp trên) … Và trong giao tiếp hằng ngày để bồi dưỡng, uốn nắn kỹ năng nói cho các em.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Kết quả của nội dung nghiên cứu: Qua nhiều năm áp dụng và thực hiện kinh nghiệm
trong việc hình thành và rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh khối lớp 1, từ năm học 20072008 cho đến nay, tôi đã mang lại hiệu quả cao cho việc dạy - học môn Tiếng Việt cũng
như kĩ năng giao tiếp của các em ngày được hoàn thiện hơn. Lớp tôi chủ nhiệm cũng


được nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, phụ huynh đánh giá cao về ý thức, thái độ, kĩ năng
nói của các em.
Trong năm học vừa qua lớp tôi chủ nhiệm có các em Nguyễn Văn Bình, Đinh Thị Thủy,
Y Hiếu Niê, Y Cách Mlô vào đầu năm học các em này có thái độ sợ sệt, nhút nhát, nói

trống khơng, thiếu chủ ngữ, diễn đạt không rành mạch, ngại tiếp xúc với các bạn nhưng
sau quá trình được hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói các em đã có sự tiến bộ rõ rệt, đã
tự tin hơn khi giao tiếp, hăng hái phát biểu xây dựng bài, đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của
mình trước lớp, kết quả học tập của các em có sự tiến bộ rõ rệt.
Với kinh ngiệm đó, học sinh khá, giỏi các năm lớp tôi cũng đạt kết quả khá cao.
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong
q trình giảng dạy của mình tơi nhận thấy học sinh rất hứng thú khi học phân môn Tiếng
Việt và các mơn học khác, nhất là trong phần luyện nói. Lớp học rất sinh động, học sinh
tham gia tích cực, các em biết trả lời, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự
nhiên, chân thật. Những em nhút nhát, rụt rè thụ động đã nhanh nhẹn hơn, tích cực hơn,
đã biết cách ứng xử các tình huống giao tiếp một cách nhanh nhạy, ngoan và lễ phép hơn.
Nhất là những học sinh dân tộc thiểu số, các em đã mạnh dạn hơn trước, vốn từ cũng đã
phát triển hơn nhiều, các em đã hoà đồng vào trong tập thể lớp học và nhà trường. Nhờ
đó chất lượng học tập của học sinh cũng được nâng cao hơn.
Với kinh ngiệm này, theo tôi không chỉ áp dụng kỹ năng nói cho học sinh khối lớp 1 mà
cịn có khả năng lồng ghép vào các khối lớp trên.
Giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ
được tiếng nói và chữ viết của mình.
Vận dụng tốt cho việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 sẽ giúp cho các em rèn
luyện phẩm chất đạo đức, kĩ năng giao tiếp, ứng xử hằng ngày được tích cực hơn.
Tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin khi nói. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách
tồn diện cho học sinh, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội.
Thuận lợi để học tốt các môn học khác.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận
Diễn đạt bằng ngôn ngữ nói là một kĩ năng khó đối với học sinh lớp 1 nói riêng, Tiểu học
nói chung. Để có một kĩ năng nói tốt, địi hỏi người giáo viên phải có phương pháp rèn



luyện phù hợp với trình độ, điều kiện thực tiễn, khả năng tâm lý lứa tuổi của học sinh. Vì
vậy, mỗi người giáo viên phải hết sức năng động và sáng tạo, phải biết lựa chọn và kết
hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh vừa có kiến thức vừa có kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng sống tốt đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Với những giải pháp trên, tôi đã vận dụng ngay vào q trình hình thành và rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh lớp 1, các em rất hứng thú khi học mơn Tiếng Việt, các em đã biết
nói thành câu tự nhiên phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Những em nhút nhát, rụt rè, thụ
động đã trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết ứng xử các tình huống giao
tiếp một cách nhạy bén, sử dụng ngơn ngữ có biểu cảm, có văn hố hơn. Giáo viên có
hứng thú, tích cực tìm tịi tranh ảnh, vật thật để áp dụng cho phần luyện nói có hiệu quả
hơn.
Sự phối hợp giữa các gia đình, hội phụ huynh, ban đại diện thơn, bn cũng có chiều
hướng tiến bộ. Chính vì vậy, hiệu quả dạy học luyện nói đã được nâng cao rõ rệt.
Tóm lại: Bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh là một q trình lâu dài người giáo viên
tuyệt đối khơng nóng vội khi rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh.Giáo viên cần lưu ý
khơng thể có kết quả nói tốt trong một sớm, một chiều mà cần có thời gian để giúp các
em sửa chữa tiến bộ trong quá trình giao tiếp được tốt hơn.
III.2. Kiến nghị
Trên đây là kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân về cách dạy hình thành và bồi dưỡng
kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 thực tế đã áp dụng có hiệu quả. Rất mong được sự trao
đổi, góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học nhà trường, ngành Giáo Dục và Đào Tạo để
cho đề tài được hoàn thiện hơn. Tạo điều kiện để đề tài đươc nhân rộng cho bạn bè đồng
nghiệp tham khảo, góp ý cùng thực hiện để làm sao luyện nói là một phần quan trọng
đươc giáo viên và học sinh chú trọng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Ngọc Chữ - Vũ Đức Ngun - Hồng Trọng Phiến:
Cơ sở ngơn ngữ học và Tiếng Việt.
Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.

2. Phan Thiều:
Rèn luyện ngôn ngữ (tập 1, tập 2) Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Tạp chí dạy và học ngày nay số 4/2007.
Sách Tiếng Việt 1 (tập 1, tập 2).
4. Sách Đạo đức 1.
5. Sách Tự nhiên - Xã hội 1.
6. Website: .
7. Website: .
8. Một số thông tin khác trên internet.


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................... 2
I.1. Lý do chọn đề tài. ................................................................................. 2
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài .............................................................. 3
I.3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 3
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. .............................................................. 3
I.5. Phương pháp nghiên cứu. ..................................................................... 3
II. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................ 4
II.1. Cơ sở lý luận. ...................................................................................... 4
II.2. Thực trạng........................................................................................... 5
a. Thuận lợi- khó khăn................................................................................ 5
b. Thành công- hạn chế. ............................................................................. 5
c. Mặt mạnh- mặt yếu ................................................................................. 6
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động. ......................................................... 6
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra ............. 6
II.3. Giải pháp, biện pháp: .......................................................................... 9
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp .......................................................... 9
b. Nội dung và cách thức thực hiện Giải pháp, biên pháp: .......................... 9
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp .............................................. 19

d. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp. ........................................... 20
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.............. 21
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ .................................................................. 22
III.1. Kết luận ........................................................................................... 22
III.2. Kiến nghị ......................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 24

22


×