Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn một vài kinh nghiệm khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong một giờ đọc- hiểu tác phẩm văn học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.82 KB, 13 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM KHƠI GỢI VÀ RÈN LUYỆN
SỰ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG MỘT GIỜ
ĐỌC- HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hiện nay, nước ta đang đổi mới phát triển trên con đường công nghiệp hóa-
hiện đại hóa. Giáo dục là quốc sách hàng đầu của nhà nước ta. Mục đích giáo dục
là đào tạo nên những con người có phẩm chất tốt, có năng lực, thông minh,sáng tạo
góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Môn ngữ văn là môn
học hàng đầu góp phần hình thành phẩm chất tốt đẹp cho thế hệ trẻ, giáo dục lòng
yêu nước, yêu quê hương thiết tha, thử thách để vươn tới lí tưởng cao đẹp. Bởi thế
vấn đề dạy học môn văn trong trường phổ thông đang là vấn đề thời sự nóng hổi,
luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội Theo khảo sát
của các nhà giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây, chất lượng học văn của
học sinh THPT ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn văn đang mất dần vị thế vốn có
của nó. Tình trạng học sinh không còn hứng thú với việc học văn, không phát huy
tính sáng tạo đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường phổ thông hiện
nay.
Trước thực trạng đó, đã có nhiều cuộc hội thảo, chuyên đề đổi mới phương
pháp dạy học văn được tổ chức dưới nhiều cấp độ khác nhau trong phạm vi cả
nước từ giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở
phổ thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình,
sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay
đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích
cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức
vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui
hứng thú trong học tập.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi kinh
nghiệm của bản thân về một số giải pháp nhằm góp phần rèn luyện sự sáng tạo cho
học sinh trong giờ đọc -hiểu tác phẩm văn học ở chương trình ngữ văn bậc THPT.


II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI.
1.Thuận lợi:
- Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng và học môn
Ngữ văn luôn được sự quan tâm rộng rãi của các ban ngành,nhà trường, giáo viên
và cha mẹ học sinh. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai đã tổ chức các hội nghị
chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THPT, tổ chức hội
giảng cấp tỉnh trong nhiều năm, tuyên dương những giáo viên dạy giỏi cấp
tỉnh.Ban Giám Hiệu nhà trường, tổ chuyên môn,triển khai hoạt động dạy và học,
1
không nặng về thủ tục hành chính.Yêu cầu của nhà trường, của tổ chuyên môn là
phải thực hiện nghiêm túc qui chế chuyên môn, dạy đúng chuẩn kiến thức, đổi mới
phương pháp dạy phù hợp, thường xuyên nhắc nhở giáo viên thực hiện tốt các qui
định của ngành, của nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên trong tổ chuyên môn nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy, tận tâm với nghề, luôn đổi mới trong phương pháp dạy và học
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn.Giáo viên trong tổ nhiệt tình
tham gia các đợt thao giảng, dự giờ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, nhiều học sinh
đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh.
- Nhà trường được cung cấp nhiều trang thiết bị: máy chiếu, tranh ảnh,đồ
dùng dạy học…tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn. Tất cả giáo viên trong tổ
chuyên môn đều tự làm đồ dùng dạy học, tìm tòi tư liệu phục vụ cho việc giảng
dạy môn Ngữ văn.
- Chương trình học theo ban cơ bản và học tăng cường theo khối thi đại học
hiện nay của nhà trường đòi hỏi thầy và trò phải sáng tạo trong giảng dạy và học
tập, phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Giáo viên phải
đổi mới cách soạn giáo án, thiết kế bài dạy, tổ chức các khâu lên lớp và chuẩn bị
bài ở nhà. Nhờ vậy chất lượng giảng dạy các bộ môn, trong đó có môn ngữ văn
ngày càng cao.
- Học sinh muốn đạt danh hiệu học sinh tiên tiến, học sinh giỏi phải cố gắng

học tập môn Ngữ văn. Nhiều học sinh tìm tư liệu học tập môn Ngữ văn, có phương
pháp học tập khoa học.
2. Khó khăn:
- Trong thực tế những năm gần đây mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học
như: phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học tích hợp, phương
pháp dạy học theo nhóm… nhưng nhiều giáo viên vẫn soạn giảng theo lối cũ, thậm
chí trong các đợt thao giảng giáo viên vẫn đóng vai trò trung tâm.
- Nhiều học sinh ý thức học tập chưa cao, bằng lòng với học lực trung bình,
còn lơ là, còn thụ động. Nhiều học sinh còn dành nhiều thời gian cho các môn
khoa học tự nhiên để thi vào đại học, môn Ngữ văn chỉ mong đạt điểm trung bình.
- Một số học sinh vẫn học theo lối cũ nghĩa là thầy đọc-trò chép,hoặc thầy
giảng trò nghe nên chưa pháp huy được tính sáng tạo của học sinh trong môn Ngữ
văn.
- Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác phẩm, học
sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng tạo do đó dẫn
đến tình trạng mù kiến thức.
- Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít chịu
khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu quả cao khi
cảm nhận tác phẩm văn chương.
2
3. Số liệu thống kê:
- Khi thực hiên phương pháp mới trong giảng dạy đọc hiểu tác phẩm văn học,
chất lượng của giờ dạy cũng như bài viết của học sinh được nâng cao, nhiều học
sinh từ thụ động vươn lên sự hứng thú trong các tiết đọc văn.
- Chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong những năm gần đây( căn cứ vào
điểm kiểm tra cuối kì số học sinh đạt 5.0 trở lên)

Năm học Lớp Số học sinh Số lượng Tỉ lệ
2011-2012
12A1

12A3
10A2
40
40
39
40
38
37
100%
95%
94.8%
2012-2013
12A1
10A1
10A2
40
40
39
40
38
38
100%
95%
97.4%
2013-2014
12A6
10C1
10C4
10C9
40

40
39
40
40
39
39
39
100%
97.5%
100%
97.5%
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Môn Văn trong nhà trường trung học, nhất là THPT của ta đã có truyền thống
lâu đời, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và có nhiều thành tựu. Tuy nhiên trong
bối cảnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề
cần được làm sáng tỏ và có sự đột phá thật sự.
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và nhận
định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn chậm
đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
- Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung
phươg pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998)
- Từ những quan điểm của những nhà nghiên cứu ở trên, chúng ta thấy việc
rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học là rất cần
thiết. Dựa vào quan điểm của các nhà khoa học, qua thực tiễn giảng dạy của bản
3

thân, người viết mạnh dạn rút ra vài kinh nghiệm rèn luyện sự sáng tạo cho học
sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học, với mong muốn góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở trường THPT.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá trị tư
tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình đầu tiên là tiếp
xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá trị của hình
tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của nhà văn để làm
nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết thúc sự tiếp nhận ở người đọc qua
việc hiểu, rung cảm, có được những rung cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng
của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong đời sống cá nhân.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được những
thói quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện, tự điều
chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần là quá
trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn diễn ra quá trình nhận
thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về những vấn đề trong tác
phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối với lứa tuổi học sinh chính là
quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm, hiểu ra cái đúng, cái hay của nó
và bằng tài năng của mình người thầy phải cảm thụ, cảm nhận một cách toàn diện
để sau đó từng bước đưa học sinh bước vào tác phẩm mà phân tích, cảm thụ và
hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng đắn.
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng, tưởng
tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà văn trong
tác phẩm, bởi vì nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm phương tiện, cách
thức, thủ pháp nghệ thuật để sáng tác tác phẩm văn học. Quá trình tiếp xúc, tiếp
thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ vào tài năng, kĩ năng của
người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình giảng, nhận xét để bằng các giác
quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ thống ngôn ngữ, hình tượng, các thủ
pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn dắt của người thầy rất quan trọng, vì thế
thầy muốn dẫn dắt học sinh bước vào khám phá tác phẩm thì trước hết phải hiểu

tác phẩm, thâm nhập vào tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái và có khả năng
phân tích, đánh giá tác phẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm
thụ cái hay, chỗ độc đáo của tác phẩm để từ đó từng bước hiểu ra vấn đề nhà văn
đặt ra và giải quyết trong tác phẩm.
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng: “giảng
văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc
đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn trước hết là chỉ ra sự
thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác
phẩm văn chương ”( Giảng văn Chinh phụ ngâm- Đặng Thai Mai- ĐHSPI HN;
1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy trong tác phẩm rõ ràng lao động của
giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính
nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo
4
viên và trình độ, khả năng của học sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc với tác phẩm văn
chương, học sinh cần có sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, rõ ràng mới có thể
cảm nhận được cái hay của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó theo tôi hoàn toàn
phụ thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của giáo viên.
Vậy thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng mọi
cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm
văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng
đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí dỏm
khi tiếp cân tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái
độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương hoặc có
thể đó còn là một hệ thống câu hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt
học sinh phải suy nghĩ, phải căng thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách
khai thác vấn đề.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THPT Long Khánh, tôi thấy
rằng để có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một
nghệ thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự
sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp học có

ít nhất 40 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự liên tưởng, tưởng
tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố cũng đủ để chúng ta hiểu
rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy nhiên nói như vậy không
có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những giờ dạy, bài giảng thành
công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc với nhiều khoá
học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện tư
duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương qua một số vấn đề, một số thao
tác sau đây:
2.1. Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc lời
dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ để tạo tâm
thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác phẩm, vào bài
dạy một cách hứng thú.
Ví dụ: - Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương
của Huế ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc
“Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế và hỏi
cảm nhận của học sinh về dòng sông Hương.
- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn bài hát
về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn về vấn đề cơ
bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
2.2. Phải khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những
gì đã có trong văn bản ngôn từ của tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi có khả năng tạo
được tâm lí thoải mái trong tư duy của các em khi tiếp cận tác phẩm ở các dạng
câu hỏi từ khái quát đến cụ thể, từ khẳng định đến gợi mở, định hướng.
5
Ví dụ 1: Khi tìm hiểu tác phẩm “ Bài ca ngất ngưỡng” của Nguyễn Công Trứ,
Gv hỏi: đọc xong bài thơ em có cảm nhận như thế nào về nhân vật trữ tình trong
bài thơ?
Học sinh: Em tưởng tượng được cảnh nhà nho ngất ngưỡng cưỡi bò vàng
nghênh ngang giữa phố, tiếng đạc ngựa ngân vang, vài ba cô ả đào lẽo đẽo theo

sau
Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”, GV có thể hỏi:
Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên ở đoạn đầu tác phẩm?
Học sinh: Bức tranh được đặc tả với vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng. Giữa
không gian bao la của biển, của bầu trời, hình ảnh chiếc thuyền cùng con người
đang thu lưới sau một đêm lao động vất vả ẩn hiện trong những mảng màu sáng tối
của ánh bình minh trên biển sớm mờ sương. Cảnh mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi lên
một cuộc sống thanh bình, yên ả.
2.3.Trong giảng văn, giọng đọc của giáo viên như trên đã nói là rất quan
trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được cái
hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể thấy
mở ra trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội. Đọc đúng,
đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều đoạn thơ, đoạn
văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho trò bao nhiêu điều
thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách nhiệm tập luyện cho
học sinh:
* Hình thành thói quen đọc trực tiếp văn bản
GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy-
học văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực
tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản
ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn
văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học” Đáng tiếc
là nhiều năm nay, trong nhà trường THPT đã diễn ra tình trạng, học sinh không cần
đọc trực tiếp văn bản nhưng vẫn soạn được bài, thậm chí khi thầy cô giáo yêu cầu
“hoạt động nhóm” và cử đại diện trình bày…, các em vẫn tỏ ra làm việc tích cực
và phát biểu một cách gọn gàng. Giáo viên, dù biết rõ học sinh đang trong vai diễn,
nhưng vẫn cứ khen trò của mình trả lời rất tốt, rất giỏi! Việc học sinh xem nhẹ đọc
tác phẩm đã làm hạn chế khả năng cảm thụ và sáng tạo của chính mình, từ đó
khiến cho học sinh chỉ biết tiếp thu một cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc hiểu
văn bản, thiếu năng lực đọc một cách sáng tạo. Như vậy, mấu chốt của vấn đề nâng

cao hiệu quả cảm thụ văn học chính là ở việc đọc trực tiếp văn bản văn học.
Học sinh thường ngại đọc tác phẩm khi soạn bài, lý do chưa hẳn là vì tác
phẩm không hay hoặc học sinh không thích văn học. Đơn giản vì các em phải học
quá nhiều môn học. Ngoài ra, lối sống thực dụng trong xã hội hiện nay cũng có
một tác động không nhỏ đến điều này. Kết quả khảo sát những năm gần đây cho
thấy, hầu hết học sinh THPT đều định hướng thi vào các trường Đại học thuộc
khối ngành kinh tế, kỹ thuật, công nghệ… Rất ít học sinh chọn thi vào các trường
6
thuộc khối ngành khoa học xã hội & nhân văn. Học văn, theo đó luôn trong tình
trạng đối phó của các em. Tài liệu tham khảo đã trở thành cẩm nang trong mọi tình
huống. tài liệu tham khảo đã trở thành cẩm nang trong mọi tình huống. Số ít những
em lựa chọn các khối có thi môn văn thì bài giảng của thầy, những tài liệu phân
tích bình giảng tác phẩm, những sách văn mẫu, tài liệu luyện thi… sẽ là những vật
bất li thân, là "bùa hộ mệnh. Nhận thức được điều đó, tôi thường yêu cầu học sinh
tóm tắt tác phẩm trước bằng lập sơ đồ, bảng biểu, sau đó kiểm tra thực hiện của
học sinh trong thời gian hỏi bài cũ.
Ví dụ: Chuẩn bị cho bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, tôi yêu cầu học
sinh lập bảng:
-Bảng 1: Tìm hiểu tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kì mạn lục (Yêu
cầu: Học sinh tìm hiểu và hoàn tất các thông tin về tác giả, quê quán, thời đại về
thời gian ra đời, nội dung và đặc điểm thể loại )
-Bảng 2: Vẽ sơ đồ tóm tắt truyện ( Họ tên học sinh thực hiện:……….Lớp:
…)
Ban đầu, việc làm này chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt thành, nhưng
dần dần đã trở thành việc làm bình thường và có hiệu quả. Thói quen này nếu được
hình thành một cách tự giác thì chính giáo viên, học sinh đã làm được một khâu
quan trọng trong yêu cầu đọc - hiểu.
* Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến nhấn mạnh
yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng giọng điệu của

tác phẩm. Theo ông, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước
hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái
giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình
viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó,
công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên…”
Tục ngữ có câu: “Ăn không nên đọi, nói không nên lời”. “Nói không nên lời”
là một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực
nói nên lời. Không biết đọc diễn cảm, không tìm được ngữ điệu thích đáng trong
giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy văn. Có nhiều giáo viên có kiến thức,
nhưng khi giảng bài, học sinh thấy chán, buồn ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu
khí, thiếu hơi văn, chưa tìm được ngữ điệu, giọng điệu thích đáng cho mình. Như
vậy, người dạy văn giỏi, ngoài kiến thức cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù
hợp, đa dạng. Có như vậy tác phẩm mới tác động sâu vào cảm nhận của học sinh.
Và đây là một phần quan trọng để phát huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn
của học sinh.
Ngữ điệu và giọng điệu trong dạy học môn văn trước hết được thể hiện ở khả
năng đọc diễn cảm và ngữ điệu giảng bài của giáo viên. Vậy đọc diễn cảm là gì?
Ngoài việc đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng đặc trưng thể loại. Mỗi tác phẩm có
một giọng điệu riêng. Nắm bắt đúng giọng điệu của tác phẩm chính là nắm bắt
đúng tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tác phẩm trữ tình cần đọc khác với tác
7
phẩm tự sự; đọc đoạn đối thoại khác đoạn độc thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc
văn kể, văn tường thuật; đọc văn chính luận khác với đọc bài tùy bút… Tuỳ từng
văn bản cụ thể mà giáo viên và học sinh có thể chọn cho mình một “tông giọng”
phù hợp.
Có thể xem đọc diễn cảm là nghệ thuật của trình diễn. Đọc diễn cảm không
phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Thơ là âm vang của
cảm xúc. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc, làm cho
nó ngân nga trong hồn người. Đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu
sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng

tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi
mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn.
Khi rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, dù chỉ trong một thời gian
ngắn trong tổng số 45 phút của tiết học, tôi thường lưu ý cho học sinh về cách đọc
từng loại văn bản. Khi một học sinh đọc diễn cảm một văn bản nào đó, tôi cho
rằng, học sinh đó đã hiểu được giá trị của văn bản ít nhất là 50 %.
Ví dụ bài Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi phải đọc một cách dõng dạc, hùng
hồn:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo
Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Đọc Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu ta phải đọc sao cho
toát lên cái bi hùng của văn tế. Khi đọc đoạn trích Trao duyên thì phải đọc với
giọng xúc động, đau đớn đến tột cùng của nhân vật Thuý Kiều trong đêm trước
ngày từ biệt gia đình để ra đi theo Mã Giám Sinh… Bằng hình thức đọc diễn cảm,
giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hứng thú, giúp các em có cảm
nhận mới mẻ về văn bản, kích thích khả năng liên tưởng, trí tưởng tượng để thâm
nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Có thể nói, rèn luyện kĩ năng đọc diễn
cảm là biện pháp hữu hiệu trong rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh.

8
2.4. Trong giờ giảng văn, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên

còn phải cố gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác những thói
quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp. Theo tôi đó có
thể là những thói quen sau:
- Thói quen đọc thuộc tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu đoạn
mà mình tâm đắc nhất.
- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác có liên
quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích tác
phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh không máy
móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới lạ ở tác phẩm khi
cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là phải có sự cảm nhận của
riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, đặc
trưng thi pháp.
2.5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ giảng văn không chỉ dừng
lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách học, cách
dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và liên tưởng theo
một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời bình mà phải tùy
thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học sinh cách cảm thụ, cách
phát hiện.
Theo tôi bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với
tác phẩm. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng đánh thức liên tưởng
của học sinh, là con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ
thuật văn bản, góp phần nâng cao giá trị thẩm mỹ của bài văn, bài thơ, khơi dậy ở
trái tim non trẻ của các em tình yêu con người và cuộc đời để các em biết ghét cái
ác, cái xấu hướng tới chân, thiện mỹ. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy
phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh,
tạo nên sự giao lưu, cộng hưởng về tình cảm trong giờ văn.
Ví dụ:

Khi giảng đến đoạn Thuý Kiều trao kỷ vật cho Thúy Vân:
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh phân tích:
Kỉ vật là hiện thân của tình yêu: là Bức tờ mây ghi lời thề chung thủy, là
Chiếc vành, Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin.
+ “giữ” nghĩa là không trao hẳn mà chỉ để em giữ hộ.
9
+ “của chung” là của ba người. Kiều không đành lòng trao kỉ vật cho em,
không nỡ rời xa những gì nồng nàn, tha thiết nhất của tình yêu…
+ Nhịp câu thơ ngắt đôi nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào trong đó…
Học sinh trình bày được những ý như vậy đã là hay, nhưng nếu biết đưa vào
một lời bình ngắn gọn, đúng lúc thì hiệu quả thẩm mĩ của giờ học sẽ tăng lên đến
bất ngờ.
Chẳng hạn, ở đây, giáo viên có thể đưa ra lời bình về từ “của chung” của
Hoài Thanh: “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy”. Đau đớn vì duyên
thì trao mà tình không trao nổi. Kỉ vật với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin
nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu.
Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản,
nhưng giáo viên không được lạm dụng biện pháp này. Bởi lẽ, nhiệm vụ chính của
giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không
phải là trổ tài trình diễn để “thôi miên” học sinh. Do đó, giáo viên chỉ đưa ra lời
bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc
đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khoái
cảm thẩm mỹ. Giáo viên phải chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ
thuật, và chọn được cách nói ấn tượng, độc đáo, nhằm tác động mạnh đến cảm xúc
của học sinh.
2.6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ giảng văn, giáo viên nên
hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp học sẽ giúp
học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng thẩm mỹ ở tác

phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt, vững vàng lý luận
thi pháp trong quá trình giảng văn.
Ví dụ:
* Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ tình hoặc hình
tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “ Sóng” của Xuân
Quỳnh ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình tượng em; Khi tìm hiểu bài thơ
“Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích theo mạch trữ tình- chính luận
của nhân vật trữ tình trong bài thơ).
* Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm giảng
bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết ( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “ Hai đứa trẻ
” của nhà văn Thạch Lam thì phân tích theo nghệ thuật miêu tả bởi truyên Thạch
Lam không có cốt truyện nên không có giọng kể mà chỉ có giọng tả; Khi tìm hiểu
tác phẩm “ Chữ ngời tử tù” của Nguyễn Tuân thì phân tích nghệ thuật xây dựng
nhân vật; khi tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” hoặc “ Người lái
đò sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể loại bút kí, tuỳ bút).
2.7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh cũng như kết
hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần vận dụng các phương pháp,
kĩ thuật dạy học mới vào giờ đọc văn như: thảo luận nhóm, sử dụng sơ đồ minh
họa…
10
IV. KẾT QUẢ:
Trong năm học 2013-2014, qua 4 lớp 12A6, 10A2, 10A3, 10A7 tôi trực tiếp
giảng dạy, tôi đã vận dụng một số thao tác trên ở những bài bài giảng văn để
không ngừng góp phần rèn luyện, khơi gợi cho học sinh khả năng sáng tạo ở các
em. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy có sự thành công, đạt được yêu cầu mục đích
đã định. (căn cứ vào điểm kiểm tra cuối kì số học sinh đạt 5.0 trở lên)
Năm học Lớp Số học sinh Số lượng Tỉ lệ
2013-2014
12A6
10C1

10C4
10C9
40
40
39
40
40
39
39
39
100%
97.5%
100%
97.5%
Một kết quả tôi nhận thấy rõ là các em hoạt động tích cực, tham gia thảo luận
có hiệu quả và đặt ra nhiều vấn đề khá thú vị. Qua đó các em rèn luyện kĩ năng
động não, hợp tác, phản biện.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu là công
việc thường xuyên và cần thiết, ở bộ môn văn các đặc thù của nó vẫn là sự sáng tạo
dựa trên sự đồng cảm, sự cảm nhận của người học qua người dạy văn và văn bản
ngôn từ trong tác phẩm. Sự sáng tạo trong văn chương không hề có sự giống nhau
bởi sự liên tưởng, tưởng tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống
nhau trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả- người dạy-
người học. Theo tôi để có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học phải có một
trường liên tưởng, một sự tưởng phong phú, linh hoạt để từ đó người dạy có thể
đưa người học vào tác phẩm bằng hệ thống các câu hỏi, bằng lời bình, cách đọc,
lời phân tích và người học tiếp nhận tác phẩm bằng quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn
hiểu biết và khả năng cảm nhận được tác phẩm văn chương để lĩnh hội từ người
dạy những gì tâm đắc nhất, đồng thời mở rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều

lĩnh vực khác nhau.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Học sinh nhớ nhiều, học nhiều
là điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu. Điều chủ
yếu là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại cách giảng dạy
văn trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ
thì không những việc dạy văn không hay mà việc đào tạo con người cũng không có
kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh
biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ đó theo cách của
11
mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy học sinh biết suy nghĩ sáng tạo trong
giờ đọc văn là điều cần thiết.
VI . KẾT LUẬN :
Phát huy được sự sáng tạo của học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học
đó là nguyện vọng của giáo viên, việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp
dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận
dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo
niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Với những điều đã trình bày trên đây, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ
bé vào việc khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc hiểu. Mặc
dù rất cố gắng nhưng ắt hẳn không thể tránh khỏi những sai sót, tôi mong nhận
được sự đóng góp của quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương.
( Nguyễn Trọng Hoàn - NXBGD 2001)
- Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường. (ĐHSP Huế- 2002)
- Sách Ngữ văn 10, 11, 12
- Sách giáo viên chỉnh lý hợp nhất năm 2000 - NXBGD.


Người thực hiện


Nguyễn Thị Hoài Phương
12
13

×