PHÒNG GD&ĐT CHÂU PHÚ
TRƯỜNG TH A ĐÀO HỮU CẢNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Xã Đào Hữu Cảnh, ngày 15 tháng 12 năm 2018
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến : Phát huy tính tích cực, tự giác học tốn
của học sinh lớp 3.
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Ái Lành
Nam, nữ: Nữ
- Ngày tháng năm sinh: 10/03/1982
- Nơi thường trú: ấp Hưng Thạnh, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, tỉnh
An Giang.
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh.
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp.
-Trình độ chun mơn: Đại học.
- Lĩnh vực công tác: Dạy lớp 3C.
II- Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1/Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của lãnh đạo ngành, chính quyền địa phương và của
Ban giám hiệu nhà trường.
- Một số phụ huynh học sinh đã thực sự chăm lo tới việc học tập của con
em mình.
- Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức trong học tập.
- Bản thân luôn không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp trong
việc phát huy tính tích cực, tự giác học Tốn của học sinh.
2/ Khó khăn:
- Một số phụ huynh học sinh vì hồn cảnh phải đi làm ăn xa, gửi con cho
ông bà nên việc học của các em hầu như khoán trắng cho nhà trường.
- Một bộ phận học sinh còn lười trong học tập nên dẫn đến các em chưa
hoàn thành môn học.
1
- Nhận thức đúng đắn về mục đích học tập vẫn chưa có, tâm lí các em cịn
ham chơi, học kém cũng chưa biết tự mình phấn đấu.
3/Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực, tự giác học tốn của học sinh
lớp 3.
4/Lĩnh vực: Giáo dục
III- Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
Trong dạy học toán ở Tiểu học, giải tốn có vị trí quan trọng, có thể coi
dạy học giải Tốn là "Hịn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán học
sinh phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức
và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết
phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và
trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể
coi giải tốn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ
của học sinh.
Dạy học giải tốn ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây:
+ Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức
và thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính tốn, vận dụng
kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, đời sống).
Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh
đã lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp giúp
học sinh phát huy hoặc khắc phục.
+ Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập
dượt quan sát, phỏng đốn tìm tịi.
+ Qua giải tốn, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc
của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đốn có căn cứ,
tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối
cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc
lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, lập khn, xây dựng lịng ham
thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao từng
bước.
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn
vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết
2
về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục cịn góp phần hình thành và bồi
dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc
học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.
Vậy để giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng
dạy chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với
phương pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi
đến thành công giáo dục địi hỏi mọi người phải biết và khơng ngừng nổ lực
phấn đấu, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào cơng
việc của mình. Đây là một cơng việc vừa mang tính giáo dục vừa mang tính nghệ
thuật. Bộ giáo dục đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng cường hoạt
động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương pháp dạy học
ở tất cả các môn học thơng qua việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ
lớp 1 đến lớp 3. Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường Tiểu học ở trong tình hình hiện nay.
Qua tham khảo, trao đổi với các giáo viên dạy ở trường cùng với kinh
nghiệm bản thân, qua q trình cơng tác và giảng dạy, tôi nhận thấy:
+ Giáo viên dạy lớp 3 là những giáo viên nhiệt tình yêu nghề, có trách
nhiệm trong cơng việc, mạnh dạn chân thành có ý thức vươn lên, có tinh thần
tập thể cao.
Giáo viên dạy lớp 3 ở trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh là những giáo
viên có trình độ đào tạo Cao Đẳng sư phạm và Đại học sư phạm, chất lượng
giảng dạy của giáo viên mỗi năm có sự tiến bộ rõ rệt. Trong giảng dạy, đảm bảo
việc truyền đạt đúng đủ lượng kiến thức theo yêu cầu của chương trình. Từng bài
giải giáo viên biết rõ cách tổ chức, biết động viên khích lệ học sinh trong học
tập, thu hút sự chú ý của học sinh.
+ Về phía học sinh: Năm học 2017 - 2018, khối lớp 3 gồm có 136 học
sinh. Đa số học sinh đều đi học đúng độ tuổi, có sức khoẻ tốt, các em đều có nề
nếp, ý thức học tập. Các em biết vâng lời kính trọng thầy cơ giáo, u lao động,
tham gia đầy đủ các hoạt động ngoài giờ lên lớp và các phong trào thi đua. Các
em đều là những học sinh được tiếp cận với chương trình Tiểu học mới nên có
nhiều thuận lợi cho giáo viên trong q trình giảng dạy.
3
+ Kết quả học tập mơn Tốn của học sinh ngày một nâng cao, nhưng thực
tế chất lượng học tập mơn Tốn của học sinh vẫn cịn nhiều điều cần quan tâm.
Tuy mơn Tốn đạt gần 100 % từ trung bình trở lên, song số điểm giỏi chưa
nhiều, điểm đạt yêu cầu chủ yếu ở phần giải toán đơn, học sinh mắc lỗi nhiều ở
phần giải toán trong luyện tập và kiểm tra, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng mơn
Tốn.
- Trong năm học 2017 - 2018, tơi đã làm công tác giảng dạy và tiến hành
nghiên cứu 30 em học sinh lớp: 3A trường Tiểu học “A” Đào Hữu Cảnh.
- Cụ thể tình hình của lớp như sau:
+ Lớp 3A Tổng số học sinh: 30 em. Trong đó: 14 nữ.
- Phần lớn các em có hồn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa,
các em ở nhà với ông bà nên không ai quan tâm đến việc học hành của các em,
đồ dùng sách vở còn thiếu thốn. Qua khảo sát được kết quả như sau:
Mức độ đạt được
Số học sinh
Chưa nắm được cách giải
9
Nắm được cách giải
12
Giải hoàn chỉnh
9
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Với nhu cầu của một xã hội hóa giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi
mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc,
biết tự giác chủ động sáng tạo trong cơng việc. Nhìn lại việc học của con em ở
địa phương, tơi thấy nhận thức của các em cịn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự
rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham
học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn là làm thế
nào để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập. Đây
là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ
do chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng
4
q hương và đưa trình độ hiểu biết của tồn dân đi lên sánh được với các nước
phát triển trên thế giới. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền nông thôn và miền
núi. Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh nông thôn,
dân tộc mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc học của
mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó các em có
tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có kết
quả cao hơn.
3. Nội dung sáng kiến
3.1/ Tiến trình, thời gian thực hiện:
- Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội kiến
thức mới. Tạo cho các em sự hứng thú trong học tập.
- Năm học 2017-2018 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A.
Trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh. Đây là lớp mà các đối tượng học sinh ở rải
rác các tổ, ấp trong xã . Đa số là người dân lao động và làm thuê đời sống rất khó
khăn, cha mẹ của các em ít được học hành nên việc học của các em chủ yếu dựa
vào bản thân.
Căn cứ vào những thực trạng đã điều tra, cả những nguyên nhân dẫn đến
thực trạng ấy. Tôi nhận thấy rằng, bởi lẽ các em chưa tích cực, chủ động trong
học Toán là do nhiều nguyên nhân:
+ Nhiều học sinh chưa nghiên cứu kĩ đề toán, nhiều học sinh vốn Tiếng
Việt còn hạn chế, nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán cịn
gặp nhiều khó khăn.
+ Một số học sinh chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học,
dẫn đến còn lúng túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài tốn
này.
+ Học sinh cịn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, cịn bị hạn chế trong
việc lựa chọn các phép giải.
5
+ Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài tốn đã giải
xong khi tính đáp số hay tìm được câu trả lời câu hỏi.
+ Trong q trình giảng dạy mơn tốn giáo viên cịn coi nhẹ một số bước
trong q trình giải tốn như: Tìm hiểu đề toán, kiểm tra cách giải toán, nên
nhiều học sinh mắc những lỗi khơng đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc
rèn kĩ năng giải toán cho học sinh.
Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải
toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện
mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ, sáng tạo.
Việc giải tốn vừa địi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ
vừa đòi hỏi một khả năng thực hành. Để giúp học sinh có khả năng thực hành đó,
lúc đầu học sinh cần được giáo viên dẫn dắt, hướng dẫn giải các bài tốn theo
mẫu, tái hiện cách giải điển hình, có thể giúp ích cho học sinh trong chừng mực
nhất định. Song do tích chất đặc trưng của giải tốn đã nói ở trên, riêng các biện
pháp đó khơng thể giúp học sinh đạt được các mục tiêu cần thiết.
Ở phạm vi đề tài này tơi xin trình bày một số giải pháp giúp học sinh giải
toán ở lớp 3 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy, trên cơ sở những gì đã
có và khắc phục những thiếu sót, chưa hợp lí nhằm giúp học sinh giải tốn thật
tốt, thật hiệu quả ở lớp 3.
3.2/ Biện pháp tổ chức:
3.2.1 Để giúp học sinh lớp 3 nắm vững quá trình giải tốn và có kĩ năng
trong giải tốn, trước hết giáo viên cần nắm được:
+ Giúp học sinh giải tốn chính là q trình dạy học giải tốn, giáo viên
cần chú ý 2 vấn đề then chốt:
- Làm cho học sinh nắm được các bước cần thiết của quá trình giải tốn và
rèn luyện kĩ năng, thực hiện các bước đó một cách thành thạo.
- Làm cho học sinh nắm được và có kĩ năng các phương pháp chung cũng
như các thủ thuật (Phép) thích hợp với từng loại toán thường gặp ở Tiểu học để
đi đến kết quả mong muốn.
Để giải quyết được hai vấn đề then chốt đó, giáo viên phải nắm vững vị
trí, nhiệm vụ, u cầu dạy học giải toán ở lớp 3.
Giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc điểm của quá
trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh Tiểu học
đang hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng, người giáo
viên Tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến hành
dạy học giải tốn thành cơng.
6
* Các ví dụ:
Ví dụ: Người giáo viên cần nắm khả năng phát hiện quan hệ logic giữa
các bài toán đơn của học sinh, các em gặp khó khăn gì khi lựa chọn các phép giải
toán.
- Để giúp học sinh giải toán tốt, trong cụ thể mỗi tiết dạy giáo viên phải
lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học thích hợp. Phương pháp dạy học
tốn rất cần thiết, có đóng góp quan trọng trong dạy học giải tốn, song phải sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ. Giáo viên phải biết lựa chọn, phối hợp
sử dụng hài hoà các phương pháp dạy học.
Ví dụ: Dạy đến: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
Bài toán: (Trang 26 sách giáo khoa Tốn 3):
Chị có 12 cái kẹo, chị cho em 1/3 số kẹo đó. Hỏi chị cho em mấy cái kẹo ?
Để hình thành phép chia và có câu lời giải, giáo viên cần sử dụng phương
pháp trực quan: Dùng hình vẽ nhóm những cái kẹo, bơng hoa ... để minh hoạ.
* Khi dạy đến dạng toán hợp giải bằng hai phép nhân chia có liên quan
đến việc rút về đơn vị.
Bài toán: (Trang 128 sách giáo khoa Tốn 3)
Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong.
Giáo viên cần lưu ý:
- Để giúp học sinh giải toán, giáo viên có thể sử dụng phương pháp vấn
đáp, gợi mở để giúp học sinh chủ động thực hiện bài giải.
- Để giúp học sinh giải toán, giáo viên phải khêu gợi hứng thú, động lực
học tập của học sinh, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn học sinh, mọi học
sinh đều tham gia, phát triển năng lực cá nhân, có kĩ năng thực hành tốt.
Có thể tuỳ vào từng dạng bài, với thực tế số lượng học sinh, thực tế của
nhà trường, giáo viên có thể sử dụng một số hình thức tổ chức. hướng dẫn hoạt
động dạy học toán theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học toán ở Tiểu
học.
3.2.2 Chuẩn bị cho việc giải toán:
Hai loại tốn ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Tốn đơn và
tốn hợp. Mỗi loại tốn này có vai trị quan trọng của nó. Việc giải các bài toán
hợp thực chất là giải một hệ thống các bài tốn đơn. Có kĩ năng giải các bài tốn
đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp.
Ở lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán
đơn dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh
7
thường gặp những từ chìa khố như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So sánh
hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương
ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn "Bao nhiêu lần", với "Bao nhiêu
đơn vị", và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài
để ngăn ngừa tác dụng "Cảm ứng" của các từ "Chìa khố". Nắm vững ý nghĩa
của phép nhân và phép chia trong mối quan hệ giữa hai phép tính này, điều này
rất quan trọng, nên giáo viên luôn luôn lưu ý giúp học sinh hiểu đúng các từ quan
trọng trong đề toán.
Ở lớp 3, các bài toán đơn "Tìm một phần của một số" gắn với phép chia.
Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài toán "chia
thành phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất về mặt ý nghĩa tốn
học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác nhau về mặt ý
nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vượt qua sự
khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và thực hiện đúng phép
tính thích hợp.
Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song
vốn ngơn ngữ vẫn cịn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến
thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần
được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia
số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một cơng cụ phổ biến,
tinh lược hố những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội
dung đề bài tốn. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải toán.
Khi học sinh nắm vững cách giải các bài tốn đơn, có thể gợi cho học sinh
hồn thành tốt dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt
các cấu trúc toán học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các cơng cụ, thủ
thuật tốn học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi
giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và
củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược.
Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài tốn là
có ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên
cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải
toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy
trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình
ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn từ vừa thúc đẩy quá trình
tư duy của học sinh.
3.2.3 Giúp học sinh nắm được quá trình giải tốn:
Q trình này thường được tiến hành theo 3 bước:
- Tìm hiểu nội dung bài tốn.
8
- Tìm cách giải bài tốn.
- Thực hiện cách giải bài toán.
Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự đúng đắn của các bước
trong việc giải tốn nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp
dụng sơ đồ đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong
quá trình giải tốn.
a. Dạy học sinh tìm hiểu kĩ năng nội dung bài tốn:
- Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn
của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ
ngôn ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ tốn học và ngơn ngữ kí hiệu (chữ số,
các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và
hiểu đầu bài toán rất quan trọng giúp các em sử dụng được ngơn ngữ kí hiệu đặc
biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng.
Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học
sinh nhắc lại nội dung đầu bài, khơng phải học thuộc lịng mà bằng cách diễn tả
của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh đã nhập tâm đầu
bài tốn để tập trung suy nghĩ về nó.
Mỗi bài tốn đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết
trong đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được
diễn đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các
dữ kiện và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó,
từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài tốn.
Ví dụ:
* Bài tốn 4 trang 56 sách giáo khoa Tốn 3:
" Có 3 thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ
các thùng đó. Hỏi cịn lại bao nhiêu lít dầu ?"
Với bài tốn trên đọc và hiểu kĩ đầu bài rất quan trọng, giúp học sinh chỉ
ra và phân biệt rành mạch "Số lít dầu ở ba thùng, học sinh xác định được:
Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít.
Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.
Cái cần tìm (ẩn số): cịn lại bao nhiêu lít dầu?
Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần
tìm (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh
biết tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài tốn dưới
dạng ngắn gọn cơ đọng nhất. Tuyệt đại bộ phận các bài tốn ở Tiểu học nói
chung, ở lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn
9
thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần
tóm tắt bằng sơ đồ, nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số.
Ví dụ:
* Bài tốn 3 trang 166 sách giáo khoa Tốn 3:
"Một hình chữ nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài.
Tính diện tích hình đó ?".
Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài
toán, học sinh tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
12 cm
Chiều dài:
Chiều rộng:
?
Từ sơ đồ trên học sinh đã thể hiện đầu bài toán một cách ngắn gọn và cô
đọng nhất, đây là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tìm tịi cách giải bài tốn.
Giáo viên tập cho học sinh có thói quen từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các
yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện
cần thiết có liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện không tường
minh, để diễn đạt chúng một cách rõ ràng hơn.
Quá trình tìm hiểu đầu bài và tìm tịi lời giải kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở lại
tìm hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện.
b. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài tốn:
Từ việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết
một nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài tốn hợp thành các bài tốn đơn. Trên
tinh thần dạy học phát triển việc làm, cho các em nắm được các phương pháp
chung và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng
thường gặp, và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết.
* Dẫn về một bài toán đã biết cách giải:
Khi giải một bài toán mới, học sinh biết dẫn nó về một bài tốn mà các em
đã biết cách giải, hoặc có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn nào đó
mà các em đã thực hiện, để giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì các em có thể có
một gợi ý về cách giải.
Ví dụ: Bài tốn 2 phần a trang 38 sách giáo khoa Toán 3:
10
Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số lít dầu bán được trong
buổi chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được
bao nhiêu lít dầu ?
Khi giải nếu qua phân tích hai điều kiện của bài tốn, và tập trung chú ý
vào hai điều kiện: các em dẫn tới những bài tốn đã học về: "Tìm một phần mấy
của một số" để tìm số lít dầu buổi chiều bán được là: 60 : 3 = 20 lít.
* Biến đổi bài toán:
Trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài tốn dành cho học
sinh trung bình, cịn một số bài toán mà các dữ kiện thường nhiều hơn, phức tạp
hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc tìm phương
pháp giải nhiều khi phụ thuộc vào việc tìm ra "điểm nút" để tập trung tháo gỡ ra,
việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy phải biến đổi bài
tốn, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học.
* Quan sát và dự đốn trong q trình tìm ra lời giải:
Quan sát các dữ kiện có vai trị quyết định trong việc tìm ra cách biến đổi,
các biểu thức để tính nhẩm, tính nhanh, trong việc tìm lời giải trong bài tốn.
Ví dụ: Bài tốn lớp 3:
Nêu cách lập dãy số sau đây và điền thêm số thứ tư của dãy vào ô trống.
96
48
24
Quan sát kĩ học sinh sẽ phát hiện ra một số quan hệ sâu sắc là trong hai số
kế cận: Số bên phải bằng số bên trái chia cho 2, từ đó tìm ra số thứ tư trong dãy
số là 12.
c. Hướng dẫn học sinh trình bày cách giải bài tốn và kiểm tra kết
quả:
Khi thực hiện kế hoạch giải bài tốn, học sinh cịn dựa vào các thủ thuật
(hay phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong
muốn. Đối với một số bài tốn có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật
(phép) giải riêng. Với đặc điểm trình độ tư duy của học sinh lớp 3, việc sử dụng
phương pháp chung, dưới hình thức các phép thích hợp, với lứa tuổi sẽ mang lại
kết quả mong muốn.
+ Tìm lời giải bằng sơ đồ:
Ở lớp 3, các bài tốn đều mang tính chất đơn giản nên các dữ kiện và điều
kiện của nhiều bài tốn có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại sơ
đồ này được dùng phổ biến làm chỗ dựa cho việc tìm kế hoạch giải bài tốn hoặc
một phần bài toán.
11
Trong nhiều bài toán liên quan đến việc so sánh, xếp thứ tự việc dùng tóm
tắt thay cho sơ đồ đoạn thẳng, để biểu diễn quan hệ giữa các số, tỏ ra thích hợp
và mang lại kết quả tốt hơn.
Ví dụ: Bài 3 trang 58 sách giáo khoa Toán 3:
"Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ
hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả
hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua ?
Để giải bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn bằng sơ
đồ.
Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng
thứ nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai sẽ là ba phần
bằng nhau. Ta có sơ đồ:
127 kg
Thửa ruộng 1:
? kg
Thửa ruộng thứ 2:
Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số kg cà chua của hai thửa
ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải toán:
Bài giải:
Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số kg cà chua là:
127 x 3 = 381 (kg).
Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số kg cà chua là:
127 + 381 = 508 (kg).
Đáp số: 508 kg cà chua.
+ Lựa chọn và kết hợp các phép giải:
Khi điều khiển q trình dạy học sinh giải tốn, giáo viên phải khêu gợi
được cho học sinh cố gắng tự tin tìm ra cách giải tốn, tự tìm ra các thủ thuật
thích hợp, biết mị mẫm, quan sát, phỏng đốn, huy động các kinh nghiệm đã có
để tìm ra lời giải. Việc hướng dẫn các em giải toán, trước hết là học sinh hoàn
thành tốt, biết từng bước dùng chữ thay số cần tìm, diễn đạt quan hệ bài tốn
bằng phương trình và giải nó bằng thủ thuật thích hợp, vừa sức các em là điều
cần chú ý.
12
Thực hiện cách giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu,
trong kế hoạch giải bài tốn và trình bày bài giải. Theo chương trình tốn hiện
hành, thì mơ hình trình bày bài giải ở lớp 3 được thể hiện như sau:
Ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức đều phải kèm theo câu lời giải, có
ghi đáp số.
Ví dụ 1: (Bài tập 3 trang 32 sách giáo khoa Toán 3):
Bài giải:
Năm lọ hoa như thế có số bơng hoa là:
7 x 5 = 35 (bơng hoa)
Đáp số: 35 bơng hoa.
Ví dụ 2: (Bài tập 3 trang 106 sách giáo khoa Toán 3):
Bài giải:
Số cây đội đó trồng thêm là:
948 : 3 = 316 (cây)
Đội đó trồng được tất cả số cây là:
948 + 316 = 1 264 (cây).
Đáp số: 1 264 cây.
+ Kiểm tra cách giải bài toán:
Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm
được câu trả lời câu hỏi. Vì vậy yêu cầu sư phạm quan trọng là làm sao gây được
và phát huy tinh thần trách nhiệm và lòng tin vào kết quả đạt được. Kiểm tra
cách giải và kết quả bài toán là u cầu khơng thể thiếu khi giải tốn, và phải trở
thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.
Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại tồn bộ bài giải, nhìn lại phương
pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra bài
giải vừa nắm vững thêm cách giải.
Chú ý từng bước cho học sinh thói quen sốt lại và suy nghĩ về tính hợp lí
của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dịng, chưa hợp lí để tìm cách cải
tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi:"Có thể giải bằng cách khác
khơng ?". Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh
hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:
- Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá trình
giải với các số đã cho.
13
Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài tốn đó.
- Giải bài tốn bằng cách khác.
- Xét tính hợp lí của đáp số.
Ví dụ: (Bài tập 1 trang 176 sách giáo khoa Toán 3):
Một sợi dây dài 9135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng
1/7 chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ?
Bài giải:
Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là:
9135 : 7 = 1305 (cm).
Chiều dài của đoạn dây thứ hai là:
9135 - 1305 = 7830 (cm).
Đáp số:
Đoạn thứ nhất: 1305 cm.
Đoạn thứ hai: 7830 cm.
Để kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập
tương ứng giữa chiều dài đoạn dây thứ nhất, chiều dài đoạn dây thứ hai với chiều
dài của cả sợi dây.
Ta thấy:
1305 + 7830 = 9135 (cm).
Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài tốn có cách giải và
kết quả đúng.
+ Để kiểm tra cách giải bài tốn, học sinh có thể giải bài tốn bằng cách
khác:
Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau:
Đoạn 1
Đoạn 2
9 135 cm
Ta thấy đoạn dây 1 là một phần, đoạn dây hai là sáu phần bằng nhau vậy
có thể giải theo hai cách:
Bài giải:
Chiều dài đoạn dây thứ nhất là:
9135 : 7 = 1305 (cm).
14
Chiều dài đoạn dây thứ hai là:
1305 x 6 = 7830 (cm).
Đáp số:
Đoạn thứ nhất: 1305 cm.
Đoạn thứ hai: 7830 cm.
Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi chiều
dài của đoạn dây thứ hai, thì cịn lại chiều dài của đoạn dây thứ nhất:
9135 - 7830 = 1305 (cm).
*Ta thấy đáp số trên là kết quả đúng.
3.2.4. Rèn kĩ năng giải tốn cho học sinh:
Hoạt động có mục tiêu: hình thành năng lực khái quát hoá và kĩ năng giải
toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong giờ học tập cho học sinh. Có thể tiến
hành một vài phép giải sau:
a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các
số đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài tốn.
b. Giải bài tốn có nhiều cách giải khác nhau.
c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài
toán.
e. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể tiến hành dưới những
hình thức sau:
- Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết số liệu hoặc điều kiện.
- Đặt điều kiện cho bài toán.
- Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán cịn thiếu số liệu.
- Lập bài tốn tương tự với bài toán đã giải.
- Lập bài toán ngược với bài tốn đã giải.
- Lập bài tốn theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ.
- Lập bài toán theo cách giải cho sẵn.
Ví dụ: Túi gạo thứ nhất bằng 1/3 túi gạo thứ hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng
nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?
Ở bài toán này cần hướng dẫn học sinh phân biệt rõ ẩn số của bài toán,
tránh trường hợp nhầm lẫn giữa tìm "nhiều hơn số kilơgam" và "nhiều hơn số
phần". Từ đó học sinh thấy được bài tốn này thiếu dữ kiện, túi gạo thứ nhất
đựng bao nhiêu kilôgam chưa cụ thể, học sinh có thể thêm dữ kiện vào và giải
bài toán.
15
Bài toán:
Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo bằng 1/3 túi thứ hai. Hỏi túi thứ hai đựng
nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?
Bài giải:
Túi gạo thứ hai đựng số gạo là:
8 x 3 = 24 (kg).
Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất là:
24 - 8 = 16 (kg).
Đáp số: 16 kg gạo.
Ví dụ: (bài tập 3 trang 129 sách giáo khoa Tốn 3):
Lập bài tốn theo tóm tắt sau rồi giải bài tốn đó:
Tóm tắt:
4 xe: 8520 viên gạch.
3 xe: ......... viên gạch.
Nhìn vào bài giải học sinh phát hiện ngay được bài giải thuộc dạng toán
"Toán hợp giải bằng hai phép nhân chia, có liên quan đến việc rút về đơn vị" và
từ đó dễ dàng đặt được đề tốn:
" Bốn xe ô tô chở được 8520 viên gạch. Hỏi 3 xe ô tô như thế chở được
bao nhiêu viên gạch ?
Bài giải:
Mỗi xe ô tô chở được số viên gạch là:
8520 : 4 = 2130 (viên gạch).
Ba xe ô tô chở được số viên gạch là:
2130 x 3 = 6390 (viên gạch).
Đáp số: 6390 viên gạch.
IV- Hiệu quả đạt được:
Trong quá trình dạy thực nghiệm, học sinh hiểu bài, tích cực học tập, thực
hiện nghiêm túc các bài kiểm tra, kết quả kiểm tra sau tiết dạy thực nghiệm như
sau:
TS học
Hoàn thành
Chưa hoàn
16
sinh
30
thành
SL
TL
SL
TL
21
70%
9
30%
Năm học 2017 - 2018 là năm học tiếp tục thực hiện chương trình Tiểu học
mới. Các em học sinh lớp 3 đã đều được học từ lớp 1, lớp 2. Đến lớp 3, các em
được tiếp tục kế thừa, phát triển kiến thức và kĩ năng ở hai lớp dưới. Những vấn
đề tôi băn khoăn về việc dạy học sinh giải tốn được xuất phát từ những khó
khăn của học sinh khi giải toán ở lớp 2. Sau một năm học, thực hiện những giải
pháp đã nêu trên, kết quả thực hiện cụ thể như sau:
* Kết quả giải toán: Tổng số học sinh: 30em.
Mức độ đạt được
Khảo sát
Cuối kỳ I
Cuối kì II
Chưa nắm được cách giải
9
4
2
Nắm được cách giải
12
13
14
Giải hồn chỉnh
9
15
24
* Chất lượng mơn Tốn: Tổng số học sinh: 30em.
xếp loại
Khảo sát
Cuối kỳ I
Cuối kỳ II
Hoàn thành
20
25
30
Chưa hoàn thành
10
5
0
V. Mức độ ảnh hưởng:
1. Về nhận thức:
- Qua kết quả nghiên cứu của đề tài dù còn rất hạn hẹp, mới chỉ là kết quả
thử nghiệm ban đầu sau năm học 2017- 2018 song chúng tôi cũng nhận thấy đề
tài cũng đã giúp cho việc nâng cao chất lượng giải tốn cho học sinh lớp 3, góp
phần nâng cao chất lượng mơn Tốn trong trường Tiểu học
- Để học sinh có phẩm chất của người lao động mới, việc giúp học sinh
giải toán là một nội dung quan trọng trong chương trình tốn ở Tiểu học. Bởi vì
giải tốn được coi là một trong những biểu hiện năng động nhất, của hoạt động
trí tuệ của học sinh.
2. Về biện pháp thực hiện:
17
- Giáo viên cần ln có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình
độ nghiệp vụ. Nghiên cứu nắm vững vị trí yêu cầu của việc dạy học giải toán.
- Giáo viên nắm vững các hoạt động trong dạy học giải toán.
- Tăng cường thực hành, trao đổi đúc kết, rút kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy.
- Có biện pháp dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh.
- Tổ chức cho học sinh học tập theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học.
VI. Kết luận
1. Dạy học giải tốn thực sự là "hịn đá thử vàng" của dạy học toán, là một
yêu cầu quan trọng trong u cầu chung của mơn Tốn, việc vận dụng, tìm kiếm
những biện pháp dạy học giải tốn cho học sinh lớp 3 nói riêng và học sinh Tiểu
học nói chung là đòi hỏi cấp thiết và cũng là mong muốn của học sinh Tiểu học
nói chung, là địi hỏi cấp thiết và mong muốn của những người quan tâm đến
giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học.
2. Từ lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: giúp học sinh giải tốn tốt ở
lớp 3 có vị trí hết sức quan trọng, là cầu nối logic của môn Toán từ lớp đầu cấp
đến các lớp cuối cấp với yêu cầu ngày một cao hơn.
3. Để giúp học sinh giải toán ở lớp 3, người giáo viên phải phát huy khả
năng, năng lực của mình, huy động sự hỗ trợ của đồng nghiệp, của nhà trường,
của phụ huynh học sinh, cùng phối hợp thực hiện.
Với điều kiện, thời gian nghiên cứu triển khai đề tài cịn q ít, song chúng
tơi hi vọng sự đóng góp nhỏ bé của đề tài vào việc giảng dạy chương trình mơn
tốn lớp 3 trong trường Tiểu học .
Do hạn chế về thời gian, điều kiện nghiên cứu và trình độ hiểu biết của
bản thân, chắc chắn nội dung đề tài còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự giúp
đỡ, góp ý của đồng nghiệp để đề tài tiếp tục triển khai có chất lượng tốt hơn nữa.
Tôi cam đoan những nội dung bao cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Ái Lành
18