Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Skkn rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.37 MB, 27 trang )

Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển
giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách tồn diện. Do đó Tiếng Việt là
mơn học có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực vào rèn kĩ năng giao tiếp,
là chìa khố học tập để chiếm lĩnh tri thức lồi người. Tiếng Việt góp phần bồi
dưỡng tâm hồn, hình thành và phát triển tồn diện nhân cách cho người học sinh.
Môn Tiếng Việt giúp cho học sinh 4 kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Ngơn ngữ dưới
dạng nói (ngơn bản) và dưới dạng viết (văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn
tại và phát triển xã hội. Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người.
Các bộ phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao gồm:
Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong đó, phân mơn
Luyện từ và câu là phân mơn có tính chất khởi đầu của các phân môn khác. Qua
tiết Luyện từ và câu học sinh có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng, cụ thể sinh
động mọi sắc thái biểu cảm. Nói và viết đó là những hình thức giao tiếp rất quan
trọng, thơng qua đó các em thực hiện q trình tư duy- chiếm lĩnh tri thức, trao đổi
tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp các em hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc
sống. Vấn đề đặt ra là người giáo viên dạy Luyện từ và câu như thế nào để nâng
cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu bài của học sinh? Cách thức tổ
chức, tiến hành tiết dạy Luyện từ và câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Trong thực tế những năm đã từng đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy phân môn
Luyện từ và câu với tư cách là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở trường
tiểu học, Luyện từ và câu có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực
sử dụng từ và câu trong giao tiếp và học tập, là một loại hình nghệ thuật lấy ngơn từ
làm phương tiện thể hiện. Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người.
Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần khơng nhỏ làm nên điều này. So sánh
có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu
tả sinh động, mặt khác so sánh cịn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh


động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm, So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ
tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ướt lệ,
dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu
từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh giúp
các em hiểu và cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang
tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu
quý tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cho học sinh.
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh chỉ
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

1


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ
rất khó khăn. Vì vậy địi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ, thực tế.
Điều đó khiến tơi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng cách nào để khơi gợi
ở học sinh hứng thú, say mê học tập mơn Luyện từ và câu. Vì thế đây là vấn đề tôi
băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Rèn kỹ
năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Như chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là mơn học chính vừa là cơng cụ giúp học
sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để dẫn dắt người
học khai thác những giá trị của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể hình
thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các em.
Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngơn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua
việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học

sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn.
Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có
được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.
Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân mơn Luyện từ và câu
trong mơn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân mơn Luyện từ và câu, từ
đó giúp các em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể
chuyện... và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Các em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh,
các vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu (đoạn
văn), thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung. Các em sẽ
gặp khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh, tìm từ, đặt
câu, phép nhân hóa... vì vốn từ cịn ít chưa có thói quen và chưa biết cách quan sát,
nhận xét sự vật, hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn
của các em chỉ mang nội dung thơng báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả.
Điều cốt yếu với mọi tiết Luyện từ và câu là cung cấp kiến thức và rèn luyện
kĩ năng tìm từ, dùng từ đặt câu cho học sinh. Học sinh phải giải nghĩa được một số
từ ngữ đơn giản, so sánh được các sự vật trong tranh hoặc bằng câu hỏi.
Do đặc thù của lớp, nhà trường, địa phương hay gọi cách khác là vùng miền. Đối
tượng học sinh thuộc nhiều tỉnh thành, nhiều miền dẫn đến tiếng nói, phát âm, trình
bày khác nhau. Với lại đối tượng nhận thức của các em khơng đồng đều, thêm vào đó
các em chưa thực sự quan tâm, u thích mơn Luyện từ và câu hoặc chưa nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của mơn học. Đứng trước thực tế đó tơi nhận thấy nhiệm
vụ mỗi giáo viên chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư nguyện
vọng của từng đối tượng học sinh để vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

2


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


mục đích cuối cùng là các em ngày càng yêu thích môn Luyện từ và câu, áp dụng
làm bài tập tốt hơn, là cơ sở để học tốt các môn học khác.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Biện pháp so sánh trong môn Luyện từ và câu lớp 3
Học sinh lớp 3A, trường Tiểu học Krông Ana, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk
Lăk, năm học 2014 – 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp trò chuyện với học sinh, giáo viên. Phương pháp khảo nghiệm thực tiễn giảng dạy.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Cơng nghiệp hố - hiện đại hố
đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Nhu
cầu này địi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình cấp Tiểu
học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Ngơn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương
pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các bộ phận
ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ thống nhỏ, có
cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn ngữ. Môn
Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trường phổ thông nên phải
thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy học Tiếng Việt
phải cụ thể hóa mục tiêu và các nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ mơn của
mình. Như vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu chung

của giáo dục nước ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề,
có năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo.
Luyện từ và câu là một trong những phân mơn có vị trí quan trọng của mơn
Tiếng Việt. Phân mơn này địi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng họp
từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được các bài tập không những học
sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các kĩ
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

3


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

năng về tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh sử dụng từ, sử dụng câu trong các
tình huống khác nhau trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần
dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Luyện từ và câu
là phân mơn có tính khởi đầu, có liên quan mật thiết đến các mơn học khác.
Trong q trình dạy một tiết Luyện từ và câu, để đạt mục tiêu đề ra ngoài
phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngơn ngữ về đời sống
thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp
kiến thức mà còn là phương tiện rèn kĩ năng nói, viết và cách diễn đạt câu văn cho
học sinh. Học tốt Luyện từ và câu sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác, đồng
thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả năng
giao tiếp, kỹ năng sống và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong
sáng của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi, khó khăn:


* Thuận lợi:
- Ln được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Krông Ana;
Lãnh đạo nhà trường, của các tổ chuyên mơn đã có vai trị tích cực giúp giáo viên
đi đúng nội dung, chương trình phân mơn Luyện từ và câu.
- Học sinh lớp 3 giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các em
khơng cịn bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở các lớp học trước, quan
trọng là ở lớp 3 các em đã được trang bị một lượng kiến thức ở lớp 2, đã nắm vững
kiến thức, kĩ năng mà các thầy cơ giáo trước đó đã trang bị. Đây là cơ sở giúp cho
các em học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
- Đa số các em có ý thức trong việc học, có chuẩn bị bài khá chu đáo trước
khi đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát.
- Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên
việc đầu tư cho con cái học tập cũng có những thuận lợi nhất định.
* Khó khăn:
Tiếng Việt là mơn học khó, nhất là phân mơn Luyện từ và câu địi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. cần phải có vốn sống thực tế,
người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết gợi
mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em hiểu nghĩa từ,
so sánh ngôn ngữ quả không dễ.
Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu
một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập cịn lại.
Trong các mơn tự nhiên, Tốn được coi là mơn học khó thì trong các mơn xã hội thì
phân mơn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là phân
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

4


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi
lĩnh hội kiến thức.
Trước tình trạng trên giáo viên phải kịp thời thức tỉnh, hình thành cho các em
biết cách dùng từ đặt câu, hiểu nghĩa từ, tìm các từ so sánh...
Thêm một thực tế nữa là các loại sách tham khảo tràn lan trên thị trường như:
Để học tốt phân môn Luyện từ và câu; Giúp em học giỏi Luyện từ và câu lớp 3;
...thế là các em chỉ mất một khoản tiền không lớn là có thể ung dung chép vào vở
nếu cần, mà không phải mất quá nhiều thời gian và suy nghĩ đau đầu nữa. Chứ các
em có ngờ việc làm đó dẫn đến hậu quả lớn, nó làm cho não bộ của các em ít phát
triển dần dần trở nên lười nhác.
2.2. Thành công, hạn chế
* Thành công
Đa phần các em có khả năng nhận biết các kiểu câu đã học ở lóp 2, dùng từ
đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào tranh ảnh hoặc câu hỏi gợi ý
ngày một tiến bộ rõ rệt trong nhận thức, trong bài tập kể cả khi trình bày bằng lời.
* Hạn chế
Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa.
Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau,
khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
Ranh giới giữa các cụm từ hoặc từ trong tiếng Việt khơng mang tính xác định,
khơng dễ nhận biết nên các em cịn thiếu tự tin khi học phân môn này.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
Một số em có năng khiếu về mơn Tiếng Việt cho nên khi học các phân môn
Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc...các em dễ dàng biết tìm từ so sánh, các sự vật
được so sánh, nhân hóa; biết dùng từ đặt câu, viết đúng chính tả, diễn đạt tương đối
tốt.
* Mặt yếu
Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập của các em
còn yếu.

Hiện nay đa số các em lười nhác học Luyện từ và câu, nhiều em chưa đọc kĩ đề
bài, chuẩn bị bài sơ sài. Thậm chí nhiều em cịn chưa biết chọn từ ngữ xếp vào bảng
phân loại theo nghĩa của chúng, không nhớ các từ dùng để so sánh hai sự vật. Bài làm
cịn sai chính tả, ngữ pháp, chưa biết chọn từ thích họp để điền vào chỗ chấm ...
Từ việc học yếu lại không được thầy cơ quan tâm, uốn nắn kịp thời, khơng có
cơ hội được thể hiện trước lớp dẫn đến một số em buồn chán trong việc học dẫn
đến không hiểu, nghèo vốn từ.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

5


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

* Ngun nhân của thành cơng
- Giáo viên nhiệt tình và kiên trì rèn luyện, kết hợp giữa phương pháp và
biện pháp một cách nhuần nhuyễn, đổi mới phương pháp giảng dạy từ cũ sang mới.
- Học sinh có một kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh tương đối vững
vàng, các em ngày càng ham học môn Luyện từ và câu.
* Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
- Một bộ phận học sinh lười học, đọc cho nên làm bài tập còn nhiều hạn chế
về câu, từ, nghĩa của từ...;
- Ít chú trọng đến mơn học;
- Ngại học Luyện từ và câu, làm bài tập thực hành.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.

Đa số học sinh chăm ngoan, ý thức học tập tốt. Qua tiết Luyện từ và câu, học
sinh có khả năng nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài để từ đó các
em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng cao về đặc điểm

của từ, so sánh các sự vật, âm thanh,...
Bên cạnh đó học sinh cịn chưa xác định rõ được động cơ học tập, lười học,
các em ở lứa tuối này chưa có được vốn từ ngữ dồi dào, dùng từ thiếu chính
xác...Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng
như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin, trở
nên rụt rè, nhút nhát.
Tôi đã áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn Luyện từ và câu,
rèn kỹ năng nhận biết các biện pháp so sánh, nhân hóa trong bài văn, bài thơ, nhận
thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi làm bài dẫn
đến bài ít mắc lỗi về dùng từ đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào
tranh ảnh hoặc câu hỏi gợi ý, các em sử dụng ngôn ngữ trong thực tiễn giao tiếp,
tích cực hóa vốn từ, hình thành các kỹ năng ngôn ngữ, phân môn Luyện từ và câu
không chỉ cung cấp cho học sinh một số vốn từ đa dạng, phong phú mà cịn giúp
học sinh có kỹ năng sử dụng từ ngữ một cách thành thạo đạt hiệu quả cao trong
hoạt động giao tiếp hàng ngày, bước đầu cung cấp cho học sinh một số kỹ năng sơ
giản về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt.
Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với mỗi
loại bài tập, giáo viên nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức những
hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, ln động
viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Môn Luyện từ và
câu với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng củng cố lý
thuyết biết cách dùng từ so sánh, biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ và ở nhiều thể
loại bài tập khác nhau. Vì vậy, giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp
dạy học phù hợp mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

6


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


bài tập một cách độc lập, sáng tạo.
Trong việc rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu
mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao
cho phù họp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học
phân môn Luyện từ và câu chưa cao. Một số bài trong chương trình đề ra chưa gần
gũi với học sinh. Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói sng nên học sinh không
hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm khơng đạt hiệu quả cao.
Học sinh chưa có hứng thú học tập phân mơn này. Đa số các em đều cho rằng
Luyện từ và câu là mơn học khó. Một số kiến thức cịn trừu tượng, khó hiểu, phần
lý thuyết cũng khơng có, học sinh chỉ được hiểu qua những bài tập làm mẫu của
giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại vì thế học sinh thường ngại học
phân mơn này.
Chất lượng phân môn Luyện từ và câu đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết
làm những bài tập có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏ i
gợi ý. Đấy là vấn đề nan giải địi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng
bước giảng dạy đạt kết quả.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tổ chức cho học sinh làm quen và tập diễn đạt giữa những điều nhỏ nhất trong
từng tiết học với cuộc sống, giao tiếp, đối nhân xử thế hàng ngày, đặc biệt nó có
thể liên hệ với tính chất liên kết các phân mơn như: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện,
Tập viết, Tập làm văn,... Điều này quả thật là có giá trị vô cùng lớn trong việc
thông qua học mà giáo dục được con người, hình thành nhân cách đúng với yêu
cầu cấp bách của xã hội ngày nay. Đồng thời còn hình thành và rèn luyện cho các
em bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tốt tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt.
Ngồi ra cịn giúp các em trau dồi thêm vốn ngôn từ cho bản thân để vận dụng
trong giao tiếp hàng ngày, biết trình bày nội dung cần thiết trước tập thể. Mà thiết
thực nhất vẫn là để làm được bài tập ở các dạng so sánh trong phân môn Luyện từ
và câu rõ ràng, rành mạch, lôgic.

3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
3.2.1. Nội dung
Nội dung chương trình: Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tơi thống kê
phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu
của chương trình sách giáo khoa lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý
thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân mơn
Luyện từ và câu. Tồn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8
bài với các mô hình sau: Mơ hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật. Mơ hình 2: So sánh Sự
vật - Con người. Mơ hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động. Mơ hình 4: So sánh Âm
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

7


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

thanh - Âm thanh. Tác giả sách giáo khoa đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và
phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập.
3.2.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Tùy theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị và từng đối tượng học sinh, giáo
viên có thể áp dụng các biện pháp hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số
biện pháp bổ trợ khác, về cơ bản tơi thấy có một số biện pháp sau:
3.2.2.1. Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3:
Trong sách giáo khoa có ít bài tập sáng tạo, kiến thức cịn mang tính trừu
tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể
nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa lệnh bài tập cần rõ ràng để học sinh hiểu
được mục đích yêu cầu của bài tập. Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng
Việt người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với
nhau như khi dạy bài Tập đọc: “Hai bàn tay em” (Trang 7- Sách giáo khoa Tiếng
Việt 3 - Tập I), trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn

mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn Luyện từ và câu. Để học sinh học
tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, dạng bài tu từ so sánh
học sinh cần nắm và làm theo các yêu cầu sau: Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu
cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốn học sinh của mình có một kỹ năng nhận biết
biện pháp so sánh vững vàng địi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng
dẫn các dạng bài tập về kiểu bài so sánh như:
a) Mơ hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật.
* Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
“Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành”
(Huy Cận)
“Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch ” (Vũ
Tú Nam)

“Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Lương Vĩnh Phúc)
“Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe”
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó các em sẽ
tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là:
“Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”.
8
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


“Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”.
“Cánh diều” so sánh với “dấu á”
“Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa
đầu cành”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều
có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa
(Cho học sinh quan sát tranh ảnh để các em dễ nhận thấy điếm giống nhau).

Hay vì sao nói “Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Mặt biển và tấm thảm đều
phẳng, êm và đẹp; Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
(Giáo viên có thể giới thiệu hình ảnh “Cánh diều” và vẽ lên bảng “dấu á”) để
học sinh quan sát, so sánh.

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

9


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai.
(Giáo viên có thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn hoặc cho học sinh quan sát
tranh).

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

10



Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

b) Mơ hình 2: So sánh Sự vật - Con người.
* Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới
đây: “Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”
(Hồ Chí Minh)
“Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lịng vàng”.
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người
nhưng các em chưa giải thích được “Vì sao?”. Chính vì thế điều đó giáo viên giúp
học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “Trẻ em”
giống như “búp trên cành”. Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển
đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống
như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho
cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
b) Mô hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động
* Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:

“Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

11


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


Chân đi như đập đất”
(Trần Đăng Khoa)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó
học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau.
Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.

“Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi”
(Ngô Viết Dinh)
Dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử dụng biện
pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh phải
tự tạo lập.
Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con người.

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

12


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

“Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân trên cỏ”
Hoạt động “chạy” so sánh với hoạt động “lăn tròn” qua từ “như”. Hoạt động
chạy của những chú gà con được miêu tả giống như hoạt động lăn tròn của những

hịn tơ nhỏ. Đó là miêu tả bằng cách so sánh. Có thể miêu tả bằng cách so sánh như
vậy vì chú gà con thường có lơng màu vàng óng như tơ, thân hình lại trịn nên các
chú chạy giống như những hịn tơ đang lăn.
c) Mơ hình 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh
* Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới
đây:
“Cơn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
(Nguyễn Trãi)
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ
nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn:
“Tiếng suối” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua từ “như”.
Ngồi các mơ hình so sánh trên học sinh cịn được làm quen với kiểu so sánh:
Ngang bằng và không ngang bằng (hay còn gọi là so sánh hơn kém). So sánh
ngang bằng dùng các từ so sánh: như, là, tựa, như thể...
Ví dụ: “Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló
13
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

trong cây”.
Cũng có khi so sánh ngang bằng khơng dùng từ so sánh mà dùng dấu câu như
dấu gạch ngang, dấu hai chấm.

Ví dụ:

“Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao

Đêm hè, hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.”
(Trần Đăng Khoa)
Hay:
“Đồng ruộng: vựa thóc thơm”
(Phạm Hổ)
So sánh khơng ngang bằng dùng các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng ...
Ví dụ:
“Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con”
(Trần Quốc Minh)
“Bế cháu ơng thủ thỉ
Hay:
Cháu khỏe hơn ơng nhiều!
Ơng là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng”
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

14


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

(Phạm Cúc)
“Trăng khuya sáng hơn đèn”
(Trần Đăng Khoa)
Các dạng bài tập về biện pháp so sánh học sinh phải nhận diện được những sự
vật được so sánh, những hình ảnh so sánh những đặc điểm so sánh và những từ so
sánh trong câu. Cảm nhận và nêu được tác dụng của so sánh.
Tập đặt câu dùng hình ảnh so sánh (dựa vào các bức tranh để đặt câu)


Ví dụ: Bài tập 3/trang 126.
Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả bóng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh:
Chúng ta sẽ so sánh mặt trăng với quả bóng, muốn so sánh ta phải tìm điểm giống
nhau giữa mặt trăng và quả bóng, học sinh đặt được câu: “Ơng trăng trịn như quả
bóng”. Từ đó gợi ý học sinh đặt được các câu khác có hình ảnh so sánh như “Bé cười
tươi như hoa ”, “Đèn điện sáng như sao ”, “Đất nước ta cong cong hình chữ S”.
So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc có nét tương đồng, có dấu
hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một cách cụ thể hình ảnh
đặc điểm của sự vật, sự việc. Trong thực tế có hai loại so sánh là so sánh tu từ và so
sánh luận lý. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh.
Ví dụ:
“Ơng trăng trịn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ”
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

15


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

(Trần Đăng Khoa)
Mục đích của so sánh tu từ nhằm diễn tả hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự
việc. Chính do đặc điểm này mà so sánh tu từ mang tính chất khoa trương. So sánh
luận lý nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng. (Vỉ dụ: Bảo
cũng học giỏi như Hồng).
Trong q trình dạy học so sánh, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt rõ ràng
hai loại so sánh trên để tránh sự nhầm lẫn khi nhận biết cũng như tạo lập các hình

ảnh tu từ trong văn nói cũng như văn viết. So sánh có hai bình diện đó là so sánh
đồng loại và so sánh khác loại. So sánh đồng loại là so sánh giữa người với người,
vật với vật.
Ví dụ:
“Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành”
So sánh khác loại là so sánh giữa vật với người, so sánh cái cụ thể với cái trừu
tượng.
Ví dụ:
“Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
+ Yếu tố 1 là yếu tố được hoặc bị so sánh (tùy theo việc so sánh là tích cực
hay tiêu cực).
+ Yếu tố 2 là từ ngữ chỉ phương diện so sánh
+ Yếu tố 3 là từ ngữ chỉ ý so sánh hay còn gọi là từ so sánh.
+ Yếu tố 4 là yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh”
Trong thực tế mô hình cấu tạo nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều trường
hợp so sánh khơng đầy đủ cả 4 yếu tố. So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh
chìm. So sánh chìm khiến cho sự liên tưởng được rộng rãi hơn kích thích sự làm
việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn.
Ví dụ: “Dịng sông là một đường trăng lung linh dát vàng”
So sánh vắng cả 2 yếu tố: yếu tố 2 và yếu tố 3 được gọi là so sánh sử dụng
chỗ ngắt giọng và hình thức đối chọi.
Ví dụ:
“Trường Sơn: chí lớn ơng cha Cửu
Long lịng mẹ bao la sóng trào”.
Hay:
“Máy bay: chim sắt lớn
Có trái tim động cơ”

Có những trường hợp có thể được đảo lên trước cùng với từ so sánh. (Ví dụ:
“Giống như những con chim màu vàng, những chiếc lá phong lượn trịn trên khơng
trung và rơi xuống mặt đất”). Có rất nhiều từ ngữ được sử dụng làm yếu tố thể hiện
quan hệ so sánh như: như, tựa như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu, giống, giống như, chẳng
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

16


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

khác gì...
So sánh là một biện pháp nghệ thuật có chức năng nhận thức, chức năng biểu
cảm, cảm xúc và có cấu tạo đơn giản nên được dùng nhiều trong tiếng Việt: trong lời
nói hàng ngày, trong văn chính luận cũng như trong lời nói nghệ thuật. Cái tài tình của
nhà văn, nhà thơ là phát hiện ra được nét giống nhau một cách chính xác, bất ngờ mà
người khác khơng nhận thấy hoặc khơng để ý đến. Ví dụ: “Những thân cây tràm vươn
thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ” (Đoàn Giỏi). “So sánh” là một nội dung
được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3, các kiến thức được cung cấp cho
học sinh thông qua hệ thống bài tập không lý thuyết nên hệ thống dữ liệu được lựa
chọn phải thực sự chính xác cho học sinh. Nội dung so sánh được cung cấp cho học
sinh thông qua hệ thống bài tập thực hành với mục tiêu cụ thể là: Học sinh nhận biết
biện pháp so sánh bao gồm hình ảnh so sánh, các kiểu so sánh: ngang bằng, hơn kém;
sự vật - sự vật, âm thanh - âm thanh, hoạt động - hoạt động, từ so sánh, phương tiện so
sánh trong các bài học trong ngơn từ nói hàng ngày, kể cả lời nói của chính các em.
Rèn luyện kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh trong giao tiếp.
Như vậy trong Luyện từ và câu lớp 3 so sánh bước đầu được đưa vào thơng qua
sách giáo khoa, qua các ví dụ và bài tập thực hành giúp cho học sinh cảm nhận, gây
hứng thú và từ đó tìm ra được kiến thức mới để áp dụng trong nói và viết hàng ngày.
Các kiến thức trong phân mơn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học kiểu bài

so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên tắc trực
quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài tập giáo viên có thể
chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ học và sử dụng
bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá
nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng
giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng
phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùng
dạy học hiệu quả nên được sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu. Đặc biệt ngày
nay công nghệ thơng tin đang phát triển chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so
sánh bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhận rõ sự
giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách
chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cần phải
biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, khơng q lạm dụng hình ảnh.
Ngồi ra trong q trình dạy học giáo viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập
nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học.
Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu.

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

17


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác
nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ nhạt. Giáo viên phải biết phố i hợp
sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như vậy hiệu quả tiết dạy mới
được như mong muốn. Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới
phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu; Để học sinh tự thực hành các bài
tập, làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài giáo viên có thể tóm tắt (chốt kiến

thức) thật ngắn gọn để học sinh nắm chắc bài.
Ví dụ: Bài 1/ trang 24. Sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình ảnh so
sánh trong những khổ thơ sau:
“Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời”
(Thanh Hải)
“Mùa đơng
Trời là cái tủ ướp lạnh”
(Lị Ngân Sùn)
Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh
các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn:
“Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm”
(Tơ Hà)
(Đưa hình ảnh động hoặc tranh ảnh Hoa xoan - mây)

Trên thực tế có những học sinh chưa từng được nhìn thấy hoa xoan. Do vậy

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

18


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong mơn Luyện từ và câu

hình ảnh hoa xoan - mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống nhau giữa hai
sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ li ti, màu tím ngắt,
nở thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho ta cảm giác chúng như những chùm

mây tím xốp đang bồng bềnh trơi. Ở bài tập 2/trang24, sau khi các em tìm được các
từ chỉ sự vật so sánh trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ
khác : tựa như, giống như, y như). Giáo viên có thể chốt bài “Trong mỗi hình ảnh
so sánh trên thường có mấy sự vật được so sánh với nhau; Các sự vật được so sánh
có những đặc điểm như thế nào với nhau ? (ngang bằng, giống nhau) Để thực hiện
sự so sánh ngang bằng (giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ sự so sánh nào ?
(là, tựa, như, tựa như...). Giáo viên cần nắm vững mức độ nội dung của cả chương
trình và từng bài để dạy phù hợp với từng loại bài và từng đối tượng học sinh.
Nội dung dạy học về so sánh ở các tuần 1, 3, 5, 7, 9, 10,12, 15, 18 của học kì I,
nhưng mỗi bài chỉ dạy một nội dung nhỏ. Ví dụ: Tuần 1- Học sinh bước đầu làm
quen với biện pháp tu từ so sánh (xác định những từ chỉ sự vật so sánh trong câu
thơ để nhận diện biện pháp so sánh). Tuần 3- Học sinh xác định được các hình ảnh
so sánh trong câu thơ, văn. Nhận biết từ chỉ sự so sánh (ngang bằng) trong những
câu đó. Tuần 5 - Học sinh nắm được các kiểu so sánh mới, so sánh hơn kém ...
.Tuần 7- Học sinh nắm được kiểu so sánh sự vật với con người v.v...Nắm được yêu
cầu trên, giáo viên cần căn cứ vào đối tượng cụ thể của học sinh mình để dạy, giúp
các em nắm kiến thức trọng tâm hoặc có thể mở rộng nâng cao thêm với học sinh
khá giỏi. Ví dụ : Ở tuần 7 sau khi chốt kiến thức cơ bản, giáo viên có thể hỏi thêm:
cách so sánh sự vật này với sự vật khác như vậy có tác dụng gì? (nhằm làm tăng
thêm vẻ đẹp của sự vật được nói tới...).
3.2.2.2. Lựa chọn phương pháp dạy:
Có nhiều phương pháp để dạy Luyện từ và câu lớp 3. Tuy nhiên, khi dạy nội
dung so sánh ta thường hay sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là trực quan và giảng
giải. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu văn, thơ trích dẫn đều thuộc loại
so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc điểm của sự
vật sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Có em
chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng (dấu hỏi) với “Vành
tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa” với hình ảnh "đàn lợn con” nằm quây quanh bụng
mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa
sai quả ....sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó

thật chính xác, sinh động và gợi tả ... Tuy nhiên có những hình ảnh so sánh khơng
thể dùng trực quan để giảng giải vì nó thuộc kiểu so sánh khác loại (so sánh cái cụ
thể với cái trừu tượng)
Ví dụ: “Cơng cha nghĩa mẹ như núi cao biến rộng”.
Hay :
“Đêm nay con ngủ giấc tròn
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

19


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”.
Khi đó giáo viên phải dùng phương pháp giảng giải, mô tả để học sinh phát
huy tư duy trừu tượng của mình để hình dung tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau
giữa cái cụ thế và trừu tượng ấy. (Ý nói cơng ơn sinh thành nuôi dưỡng dạy bảo
của cha mẹ giành cho con như biển nước, biển không bao giờ khô cạn. Hoặc: Hình
bóng mẹ, tình cảm của mẹ ln là nguồn động viên an ủi con, là ngọn gió lành thối
mát tâm hồn con đến suốt cuộc đời). Tuy nhiên để giờ học sinh động giáo viên cần
linh hoạt phối hợp cả hai phương pháp trên và các phương pháp khác, đa dạng hóa
các hoạt động học tập.
3.2.2.3. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Luyện từ và
câu:
Trong mỗi giờ học giáo viên cần đa dạng hóa các hoạt động học tập nhằm kích
thích được tính chủ động sáng tạo và gây hứng thú học tập cho các em, giáo viên
có thể phối hợp các hoạt động học tập như học cá nhân, học theo cặp, họ c theo
nhóm để tránh sự nhàm chán của học sinh.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động tích cực.

Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận
nhóm, đàm thoại với nhau hoặc hoạt động cá nhân về một vấn đề. Qua đó học sinh
lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác. Khơng khí học thoải mái khiến học sinh mạnh
dạn, tự tin khi nói. Các em có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến trước đông người
một cách lưu lốt, rành mạch.
Ví dụ: Tìm các từ chỉ đặc điểm trong những câu thơ sau:
“Em vẽ làng xóm
Tre xanh, lúa xanh
Sông máng lượn quanh
Một màu xanh mát
Trời mây bát ngát
Xanh ngắt mùa thu”.
(Định Hải)
Có thể cho học sinh quan sát bức tranh về quê hương, làng xóm.

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

20


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh quê hương làng xóm, quan sát tổng thể bức ảnh,
sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc của bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình
vừa quan sát. Thơng qua việc quan sát tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó
các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để làm bài tập. Luyện cho học sinh cách trình bày,
giới thiệu về từ chỉ đặc điểm. Khi nói đến mỗi người, mỗi vật, mỗi hiện tượng, ...
xung quanh chúng ta đều có thể nói kèm cả đặc điểm của chúng như: đường ngọt,
muối mặn, nước trong, hoa đỏ thì các từ ngọt, mặn, trong, đỏ chính là các từ chỉ
đặc điểm của các sự vật vừa nêu. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ra được các từ ở bài

tập trên là: xanh, xanh mát, bát ngát, xanh ngắt. (Có thể làm việc cá nhân hoặc
từng nhóm nhỏ).
Như vậy trong mỗi tiết học giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức dễ dàng, tích cực, tự giác.
Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các em
vào một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh phải quan sát một bức tranh,
một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng lực sáng
tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một kiểu bài nào của một tiết Luyện từ và câu,
giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát huy được năng lực sáng
tạo trong bài làm của mình.
3.2.2.4. Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến
thức giữa các phân môn Tiếng Việt:
Khi dạy Luyện từ và câu giáo viên cần hiểu rõ tính tích họp kiến thức giữa các
phân mơn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

21


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Tập làm
văn có nội dung phù hợp tiết Luyện từ và câu sắp học; giáo viên cần dặn dị hướng
dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh,
hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng
kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo,
trên tivi,...hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị
những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em
có thể trình bày được bài tập một cách chân thực, sinh động và sáng tạo.
Như vậy khi dạy các phân mơn đều nhằm mục đích tạo đà cho học sinh học tốt

phân môn Luyện từ và câu, mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo
khoa. Do đó tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Luyện từ
và câu lớp 3.
3.2.2.5.Tạo tâm thế thoải mái cho các em trong học tập:
Tiết học được coi là thành công nếu tiết học đó học sinh có thể lĩnh hội khơng
chỉ nội dung chính trong sách giáo khoa mà cịn mở rộng được kiến thức nâng cao.
Khi dạy tiết Luyện từ và câu tơi thường lấy thêm các bài tập nâng cao ngồi sách giáo
khoa cho học sinh làm với hình thức khuyến khích học sinh, phân hóa đối tượng học
sinh trong lớp chứ không áp đặt nên các em rất thoải mái tiếp nhận những bài tập làm
thêm và làm có hiệu quả. Tôi luôn gần gũi giúp đỡ các em làm tốt các bài tập. Từ đó
học sinh đã hứng thú học tập phân môn này, việc giao tiếp với thầy cơ, bạn bè của các
em có phần tự tin rất nhiều, các em áp dụng vào viết văn cũng tốt hơn.
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp:
• Về phía giáo viên:
Trong q trình giảng dạy từng bước hình thành khả năng học tốt Luyện từ và
câu cho học sinh, người thầy cần phải kiên trì, bền bỉ, phải đầu tư thời gian, phải
tổng kết đánh giá để nắm bắt sự tiến triển của học sinh. Khi học sinh tiến bộ, giáo
viên cần khen ngợi, khuyến khích các em. Lời khen của cơ giáo sẽ có sự tác động
không nhỏ tới sự cố gắng của học sinh.
Cần không ngừng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ bằng cách trau dồi
kiến thức, tự học, tự rèn luyện, tìm tịi, sáng tạo trong q trình giảng dạy những
phương pháp phù hợp, có sức lơi cuốn, hướng dẫn học sinh để có kết quả cao.
Tích cực tìm tịi, nghiên cứu tư liệu để trau dồi sự hiểu biết, kinh nghiệm thẩm
mĩ, kinh nghiệm sống, vai trò của người thầy trong một tiết Luyện từ và câu, nhất
là việc vận dụng các thao tác, hình thức tổ chức một tiết dạy. Kịp thời uốn nắn,
điều chỉnh khi các em làm bài chưa sát hoặc lệch lạc với nội dung bài tập.
Giáo viên cần quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, nhất là đầu tư nhiều
hơn đối với những em cịn yếu về khả năng trình bày trước lớp. Không nên tập
trung vào một số em học khá, nếu như vậy những em học yếu có tư tưởng ỷ lại,
phó mặc, cho rằng: “cơ giáo chẳng gọi đến mình đâu.”

Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

22


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Giáo viên cần tạo cơ hội cho các đối tượng học sinh tiếp cận trực tiếp, cụ thể
và thường xuyên với các dạng bài tập Luyện từ và câu.
• Về phía học sinh:
- Các em cần phải xác định rõ được động cơ học tập của mình, học Tiếng
Việt là học làm người, là con đường để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và phát
huy truyền thống tốt đẹp giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đó phải lắng nghe và
tuân thủ theo hướng dẫn của giáo viên để tự rèn luyện khả năng sử dụng từ, tìm từ
ngữ của mình.
- Tập trung lắng nghe, thảo luận, trao đổi để tìm ra cách dùng từ đặt câu, viết
câu văn (dựa vào tranh) có hình ảnh, diễn đạt lưu lốt. Mạnh dạn trình bày trước
nhóm, trước lớp. Để có thể làm được điều đó, các em cần phải đọc sách tham khảo
liên quan đến môn Tiếng Việt, Luyện từ và câu để học tập cách dùng từ, tìm từ,
diễn đạt,... để trau dồi thêm vốn ngôn từ của bản thân vốn đã rất ít ỏi. Từ đó có kĩ
năng sử dụng đúng và hay ngôn ngữ dân tộc trong nghe, đọc, nói và viết, kĩ năng
đọc - hiểu các loại văn bản sau này của bản thân.
- Cố gắng làm hết bài tập, đặc biệt là các bài tập luyện nói, luyện viết.
- Nắm chắc cách làm bài theo từng loại bài tập trong phân môn Luyện từ và
câu. Dành thời gian thích đáng đọc kĩ đề bài để xác định yêu cầu của bài tập.
- Khi làm bài, phải nắm chắc yêu cầu của đề bài, cần phải chủ động và theo
cách diễn đạt của mình, cố gắng tìm từ, tìm sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Hướng dẫn học sinh liên hệ thực tế và tích hợp kiến thức, biết dùng từ đặt câu,
sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa trong bài làm vì giữa chúng có mối liên

hệ chặt chẽ với nhau giúp cho các em làm bài một cách tốt nhất.
Các biện pháp tơi nêu trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau, tạo cho các em tâm thế học tập tốt nhất. Học sinh được lĩnh hội kiến thức
một cách tự nhiên không gây áp lực học tập với học sinh. Đặc biệt khi học phân
môn Luyện từ và câu tiết học thành công một phần do giáo viên sử dụng kết hợp
nhiều giải pháp khác nhau. Từ đó phát huy được lợi thế của từng giải pháp để hiệu
quả tiết dạy tốt, nhiièu tiết dạy thành cơng sẽ góp phần nâng cao chất lượng phân
mơn Luyện từ và câu cũng như các phân môn khác.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Để có kết quả khả quan tơi đã tiến hành khảo nghiệm đến các em học sinh
khối lóp 3 với đề bài như sau:
Ghi lại tên các sự vật được so sánh với nhau trong những câu sau:
- Từ trên gác cao nhìn xuống, hồ như một chiếc gương bầu dục khổng lồ,
sáng long lanh.
- Cầu Thê Húc màu son, cong cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn.
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

23


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

- Người ta thấy có con rùa lớn, đầu to như trái bưởi, nhô lên khỏi mặt nước.
* Kết quả trước khi thực hiện đề tài:
Tìm được Biết sự vật 1,
hình ảnh so
sự vật 2
sánh
Đạt Chưa Đạt Chưa
đạt

đạt

Tìm được từ
dùng để so sánh 2
sự vật với nhau
Đạt
Chưa đạt

65.2% 34.8% 57.8% 42.2%

39.2%

Trên

Dưới

TB

TB

58.5%

41.5%

60.8%

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu:
Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 với đề
bài: Tìm hình ảnh so sánh trong các câu sau:

- Những thân cây tràm vươn thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ.
- Đước mọc san sát, thẳng đuột như hằng hà sa số cây dù xanh cắm trên
bãi. (Mai Văn
Tạo)
Tìm được
hình ảnh so
sánh

Biết sự vật 1,

Đạt

Đạt

Chưa
đạt

sự vật 2
Chưa
đạt

81.6% 18.4% 86.7% 13.3.%

Tìm được từ
dùng để so sánh
2 sự vật với nhau
Đạt
87.1%

Trên


Dưới

TB

TB

89.1%

10.9%

Chưa đạt
12.9%

* Giá trị khoa học:
Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Luyện từ
và câu đạt được kết quả khả quan, học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn
từ của học sinh phong phú hơn, nhận biết kiểu bài so sánh trong phân mơn chính
xác, chắc chắn, rõ ràng, mạch lạc.
Với kết quả như nói ở trên phần nào đã nâng cao chất lượng chung của môn
Luyện từ và câu tồn trường mà tơi đã triển khai, áp dụng trong tổ chuyên môn.
Bước đầu nhận thấy được sự chuyển biến đáng kể trong tinh thần học tập của học
sinh thông qua các tiết dự giờ thăm lớp, thao giảng, những phản hồi của đồng
nghiệp … đặc biệt qua kết quả thể hiện trong sổ Theo dõi chất lượng học sinh.
24
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng


Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu


III. PHẦN KỂT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tiếng Việt là môn học công cụ, giúp cho học sinh nắm được những tri thức cơ
bản của khoa học Việt ngữ. Luyện từ và câu là phân mơn cơ bản trong chương trình
Tiếng Việt tiểu học, là chìa khóa để học tốt các mơn học khác. Vì vậy dạy Luyện từ và
câu khơng những giúp các em biết tìm hình ảnh so sánh, từ để so sánh, các sự vật
được so sánh chính xác, rõ ràng, mạch lạc, lưu lốt có sức cuốn hút lòng người. Đặc
biệt biết biến đổi tri thức văn hóa, dụng ý của đề bài thành vốn kinh nghiệm nhiều mặt
để tìm hiểu chân lí, giá trị thẩm mĩ đích thực của cuộc sống mn hình mn vẻ.
Do đó mỗi thầy cơ giáo phải thật sự nhiệt tình và kiên trì rèn luyện hình thành
cho học sinh có kĩ năng viết, nói hay tiếng mẹ đẻ. Tơi nghĩ rằng, dù giải pháp nào
cũng được thực hiện trong mối quan hệ hữư cơ với quá trình tổ chức và hướng dẫn
của giáo viên. Hiệu quả của giờ lên lóp là hiệu quả của sự kết hợp giữa phương pháp
và biện pháp dạy học một cách nhuần nhuyễn. Con đường đổi mới phương pháp dạy
Luyện từ và câu từ cũ sang mới là một q trình phức tạp và địi hỏi cơng phu.
Với tất cả những gì đã trình bày ở trên, tôi cảm thấy đây là vấn đề tuy không
mới nhưng nó rất cần cho mỗi con người cụ thể là học sinh, nhất là đối với xã hội
hiện nay. Địi hỏi mỗi con người khơng chỉ đơn thuần là học cho biết mà phải biết
viết hay, nói hay.
Nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Luyện từ và câu của học sinh lóp 3, tơi
mạnh dạn đề xuất và triển khai cho giáo viên trong trường thực hiện một số biện
pháp rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh trong mơn Luyện từ và câu lóp 3 và
đã cho kết quả khả quan. Tơi hy vọng rằng tính khả thi của những biện pháp trên
được phổ biến rộng rãi.
Qua quá trình áp dụng và thực hiện các biện pháp trên từ nhiều năm ở nhiều thế
hệ học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy, tôi thấy phấn khởi là các em đã thực sự hứng
thú hơn khi học môn Luyện từ và câu. Đặc biệt đến các tiết Luyện từ và câu em nào
cũng thích được phát biểu. Những em vốn học khá, qua sự rèn luyện của tôi, các em
càng muốn tỏ rõ bản lĩnh của mình trước tập thể. Những em vốn trước đó học yếu nay
vươn lên trung bình hoặc khá tuy chưa thật hồn hảo. Điều tơi nhận thấy rõ nhất là các

em nhanh chóng khắc phục được tính rụt rè, lúng túng, mất bình tĩnh khi trình bày.
Chính vì thế chất lượng phân mơn được cải thiện rõ rệt, càng ngày các em càng thích
học Tiếng Việt, u phân mơn Luyện từ và câu. Do đó hiện nay tơi khơng trực tiếp
đứng lớp giảng dạy nhưng tôi đã truyền lại kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện đạt hiệu
quả cho giáo viên khối lớp 3 mà mình đang phụ trách.
Như vậy có thể khẳng định lại rằng Tiếng Việt có sức tác động sâu sắc đến người
học, làm phong phú hơn kinh nghiệm sống, giúp các em vượt qua những giới hạn về
thời gian và không gian được phản ánh trong từng bài học cụ thể. Ngồi ra cịn có vai
Nguyễn Thị Hường - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng

25


×