Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn PHƯƠNG PHÁP dạy học lấy học SINH làm TRUNG tâm TRONG môn TOÁN lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.15 KB, 15 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI TỪ
TRƯỜNG: TIỂU HỌC LỤC BA
----------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM
TRONG MƠN TỐN LỚP 4”

Người thực hiện: Nguyễn Xuân Tiến
Giáo viên giảng dạy: Lớp 4B
Trường: Tiểu học Lục Ba

Năm học: 2011-2012

Trang 1


MỤC LỤC
Trang
A/PHẦN MỞ ĐẦU:

Trang 3

I/ Lí do chọn sáng kiến

Trang 3

II/ Mục đích của sáng kiến

Trang 4


III/ Phạm vi của sáng kiến

Trang 4

B/ PHẦN NỘI DUNG

Trang 4

I/ Cơ sở lí luận

Trang 4

II/ Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm

Trang 5

II.1. Mơ hình phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm

Trang 5

II.2. Những khó khăn khi thực hiện mơ hình dạy học
lấy học sinh làm trung tâm

Trang 6

II.2.1.Bước 1 : Nêu vấn đề

Trang 6

II.2.2. Bước 2 : Giải quyết vấn đề


Trang 6

II.2.2.1.Hoạt động 1

Trang 6

II.2.2.2. Hoạt động 2

Trang 7

II.2.2.3. Hoạt động 3

Trang 8

III. Một ví dụ minh hoạ

Trang 9

C/ PHẦN KẾT LUẬN

Trang 12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 15

Trang 2



A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Chương trình Sách giáo khoa đổi mới tuy đến nay đã thực hiện được
hết 3 cấp học, xong dường như, đối với nhiều giáo viên tiểu học, phương
pháp mà sách giáo khoa mới đòi hỏi là phải lấy học sinh làm trung tâm cho
mọi hoạt động dạy học, phải dạy học sinh tự phát hiện và làm chủ tiết học
quả là rất khó. Một phần là do đa số giáo viên đã quen với cách dạy truyền
thống. Phần khác, nếu dạy học theo phương pháp này, tuy lấy học sinh làm
trung tâm nhưng khơng vì thế mà giáo viên được “ nhàn” hơn thậm chí giáo
viên phải vất vả hơn vì phải chuẩn bị rất kĩ tại nhà và tới lớp cũng vẫn phải
linh hoạt theo học sinh. Hơn nữa, cách dạy này rất tốn thời gian và học sinh
nước ta còn chưa quen nên nhiều khi khó thực hiện hoặc thực hiện khơng có
hiệu quả. Tình trạng trên diễn ra ở rất nhiều trường, đặc biệt là đối với các
trường ở cấp huyện, xã nơi mà mặt bằng trình độ của học sinh tương đối
thấp.
Tuy thế, rõ ràng là phương pháp dạy học này là một phương pháp dạy
học rất hiệu quả. Chính vì vậy, bản thân tơi ln tâm huyết tìm tịi và nghiên
cứu nhằm thực hiện phương pháp dạy học này. Sáng kiến “phương pháp
dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong mơn tốn học lớp 4” này chính
là những bài học mà bản thân tơi đã đúc rút qua quá trình dạy học và ứng
dụng rất thành công vào công tác giảng dạy thực tiễn. Tôi lựa chọn mơn
Tốn là bởi vì trong những mơn học ở trường thì mơn Tốn ln được coi là
một trong những mơn học chính vì tầm quan trọng của nó đối với cuộc sống.
Đây cũng là mơn học địi hỏi sự tư duy và tính sáng tạo cao nhưng đồng thời
cũng lại tương đối “khơ khan” và khó với đa số học sinh.

Trang 3


II. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN

Nếu giáo viên áp dụng phương pháp này, dạy học theo hướng tổ chức
cho học sinh tự tìm tịi, tranh luận, thảo luận để tìm cách giải quyết vấn đề
thì mới có thể phát huy hết ưu điểm của sách giáo khoa mới. Cách dạy này
cũng sẽ giúp trẻ có điều kiện để tự thể hiện tài năng, trí thơng minh, óc sáng
tạo của mình; Qua đó, các em có thể rèn luyện tính tháo vát, năng lực xoay
sở, óc dám nghĩ, dám làm, đồng thời cũng rèn luyện cho trẻ năng lực “phát
minh”, năng lực trình bày và diễn đạt, tính tự tin trong cuộc sống.
III. PHẠM VI CỦA SÁNG KIẾN
Như tôi đã đề cập ở trên, vì đây là một phương pháp khá khó ứng dụng
và tốn thời gian nên giáo viên khơng nên lạm dụng mà chỉ nên thực hiện đối
với một số môn nhất định. Trong sáng kiến này, tôi chỉ đưa ra một mơ hình
chung cho phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm; phân tích các
bước của mơ hình để thấy được những khó khăn giáo viên hay gặp phải khi
thực hiện nó để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó
khăn đó. Cuối cùng là một ví dụ về một tiết Tốn học mà tơi đã ứng dụng.
B. PHẦN NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Cho dù bất cứ sáng kiến hay cách dạy hay nào, muốn đạt được hiệu
quả tốt nhất thì người giáo viên vẫn phải truyền đạt cho học sinh được đầy
đủ những nền tảng kiến thức chung về bài học mà sách giáo khoa đòi hỏi
cũng như đảm bảo được trình tự các bước lên lớp. Với phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm này cũng vậy. Về cơ bản, tiết dạy vẫn đi theo
trình tự các bước như sau:
Bước 1 : Nêu vấn đề.
Bước 2 : Giải quyết vấn đề : Giới thiệu nội dung bài mới.
Trang 4


Bước 3 : Học sinh thực hành : Học sinh vận dụng những kiến thức đã
được giới thiệu ở bước 2 để giải các bài tập ở trong sách giáo khoa, sách bài

tập hoặc do giáo viên đề ra.
Trong 3 bước trên, bước 3 luôn là bước học sinh hoạt động độc lập vì
khi đó các em đã có được những kiến thức cần thiết. Chính vì thế, phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm ở đây chủ yếu tập trung vào 2 bước
đầu, giai đoạn mà nhiều giáo viên thường chỉ “diễn xuất” một mình, khơng
có hoặc ít có sự tham gia của học sinh.
II/ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM
II.1. MƠ HÌNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM
TRUNG TÂM
BƯỚC 1

BƯỚC 2

Nêu vấn đề

Giáo
Viên
nêu
vấn
đề

Tổ chức
bàn bạc
để định
hướng
giải
quyết

Giải quyết vấn đề
Từng học sinh tự

nghĩ cách giải quyết


nhân

Thảo
luận
trong
nhóm
nhỏ

Trang 5

Thảo luận trước lớp
cách giải quyết
Từng HS
trình bày
cách giải
quyết của
mình hoặc
nhóm mình

Tồn
lớp chất
vấn,
trao đổi,
thảo
luận

Giáo

viên
nhận
xét,
đánh
giá,
chốt lại
ý quan
trọng


II.2. NHỮNG KHĨ KHĂN KHI THỰC HIỆN MƠ HÌNH DẠY HỌC
LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM
II.2.1.BƯỚC 1 : NÊU VẤN ĐỀ
Trong bước 1 khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện theo mơ
hình này là khâu “Tổ chức bàn bạc để định hướng giải quyết”. Lý do là vì
học sinh chưa quen với phương pháp này. Hơn nữa, lúc này các em chưa có
một kiến thức gì về vấn đề mà giáo viên nêu ra ( vì đây là bài mới chưa học).
Để khắc phục khó khăn trên địi hỏi người giáo viên cần phải sâu sát
với trình độ của học sinh, từ đó có những câu hỏi, câu gợi ý phù hợp, hướng
dẫn các em sử dụng kiến thức mà các em đã có từ những bài học trước để
đưa ra ý kiến. Giáo viên cũng cần lưu ý rằng những ý kiến này nên có tính
khái quát mà không cần phải cụ thể và chi tiết. Có thể xảy ra trường hợp học
sinh đưa ra một ý kiến sai hoặc thậm chí các em khơng đưa ra được ý kiến
nào. Khơng sao. Điều đó là bình thường và dễ gặp phải bởi vấn đề mà giáo
viên nêu ra trong phần này là kiến thức của bài mới chưa học. Vì vậy, giáo
viên cũng khơng nên sửa ngay. Giáo viên chỉ cần tập hợp lại một số ý, dựa
vào ý của các em (nếu có) để định hướng suy nghĩ cho các em. Mục đích của
bước này đơn giản chỉ để tạo hứng thú đồng thời hướng các em vào nội dung
chính, trọng tâm của bài.
II.2.2. BƯỚC 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

II.2.2.1. HOẠT ĐỘNG 1 : Từng học sinh tự nghĩ cách giải quyết
Giáo viên có thể cho học sinh làm việc cá nhân trong khoảng ít phút
( một hoặc hai phút) theo hướng đã định ra trong phần nêu vấn đề, nên yêu
cầu các em ghi tắt ý kiến của mình ra một mảnh giấy. Sau đó, để cơng việc
của học sinh hiệu quả hơn, giáo viên có thể cho các em trao đổi theo cặp
hoặc theo nhóm. Hiệu quả nhất là nên làm việc theo những nhóm bốn học

Trang 6


sinh (vì thơng thường, bàn học sinh là bàn ngồi hai người; tổ chức nhóm bốn
vừa dễ sắp xếp, đỡ tốn thời gian, dễ cho việc trao đổi của các em cũng như
việc quản lý của giáo viên, ít gây ồn ào trơng cơng việc lập nhóm.)
Trong lúc học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ này, giáo viên nên đi
quanh lớp để quan sát, quản lý đảm bảo tất cả các học sinh đều làm việc,
đồng thời đôn đốc, khuyến khích các ý hay hoặc gợi ý và trả lời một số câu
hỏi của học sinh.
Để khắc phục vấn đề tốn thời gian vì lí do học sinh khơng quen, giáo
viên có thể cho học sinh thực hiện hoạt động nhóm thường xuyên trong các
buổi học. Điều này sẽ tạo ra một thói quen giúp các em nhanh hơn trong các
thao tác như trao đổi, thảo luận, lập nhóm và giúp đỡ lẫn nhau trong khi
cùng làm việc trong nhóm. Các nhóm cũng sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu
giáo viên có thể sắp xếp chỗ ngồi hợp lý cho các em (đảm bảo trong mỗi
nhóm đều phải có một thành viên khá giúp điều khiển nhóm). Giáo viên
cũng nên hướng dẫn cho các nhóm chọn ra một thành viên làm “thư kí” ghi
lại tồn bộ các ý kiến của nhóm đã thảo luận và nghĩ ra. Những ý này có thể
ghi vào một tờ giấy hoặc tốt hơn là ghi vào một bảng phụ để tiện cho việc
trình bày và sửa chữa trước lớp ở bước tiếp theo.
II.2.2.2. HOẠT ĐỘNG 2 : Thảo luận trước lớp cách giải quyết.
Sau khi các nhóm đã thảo luận xong, giáo viên nên dành thời gian cho

ít nhất một hoặc hai học sinh được đứng trước lớp trình bày cách giải quyết
của mình hoặc của nhóm mình vì hoạt động này giúp rèn luyện tính tự tin,
năng lực trình bày và diễn đạt sự việc cho trẻ. Nếu thời gian hạn chế không
cho phép đại diện của tất cả các nhóm trình bày thì giáo viên nên treo bảng
phụ của các nhóm này lên bảng. Trong khi các đại diện trình bày, giáo viên
yêu cầu cả lớp lắng nghe, sau đó so sánh, trao đổi, thảo luận để nhận xét, bổ

Trang 7


sung ý kiến cho bạn và cho mình.
Ở hoạt động này, giáo viên nên yểm trợ về mặt sư phạm. Điều đó có
nghĩa là giáo viên nêu lại cho rõ các ý mà học sinh đã nói. Học sinh nói đúng
thì giáo viên nêu lại cho rõ cái ý đúng ấy; học sinh nói sai thì giáo viên nêu
lại cho rõ cái ý sai ấy để cả lớp hiểu rõ các ý kiến của các “báo cáo viên”.
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì học sinh thường trình bày các vấn đề
một cách lúng túng, lộn xộn, không rõ ràng, mạch lạc. Nếu thiếu sự yểm trợ
về mặt sư phạm này thì rất dễ xảy ra trường hợp “khơng ai hỏi ai nói
gì”.Giáo viên tuyệt đối khơng nên vội khẳng định là ý nào đúng, ý nào sai để
khuyến khích học sinh sáng tạo trong trao đổi, thảo luận để tự nhận ra ý sai,
ý đúng, ý hay. Nói tóm lại là giáo viên chỉ yểm trợ về mặt sư
phạm mà không yểm trợ về mặt khoa học ở hoạt động thảo luận.
II.2.2.3. HOẠT ĐỘNG 3 : Giáo viên nhận xét, đánh giá.
Đây chính là lúc mà giáo viên đưa ra sự yểm trợ về mặt khoa học cho
học sinh. Giáo viên tổng kết thảo luận : nêu lại các cách làm của học sinh;
đánh giá đúng, sai, hay, dở, sau đó chốt lại ý quan trọng.(ý này có thể là một
trong những ý kiến của học sinh hoặc nếu học sinh chưa đưa ra được thì giáo
viên đưa ra ý của mình, trọng tâm của bài học).
Nói chung, khi thực hiện phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, giáo viên có thể gặp một số khó khăn nhất định như học sinh khơng

quen, tốn thời gian, khó tổ chức và quản lý. Tuy nhiên, với cách tiến hành
như tơi đã trình bày ở trên, các khó khăn này sẽ được khắc phục và phương
pháp này chắc chắn phát huy hiệu quả tối ưu.

Trang 8


III. MỘT VÍ DỤ MINH HOẠ
TỐN 4 – TIẾT 73
DẠY BÀI : NHÂN VỚI SỐ CÓ 2 CHỮ SỐ
BƯỚC 1 : NÊU VẤN ĐỀ
a) GV nêu vấn đề : Tính 38 x 24 = ?
- Làm thế nào bây giờ ?
b) HS thảo luận, nói vắn tắt ý của mình…
c) GV dựa vào ý của HS để định hướng suy nghĩ :
- Đây là phép nhân với số có 2 chữ số, ta chưa học.
- Ta mới chỉ học cách nhân với số có một chữ số.
- Vậy phải tìm cách quy về phép nhân với số có một chữ số (hay
quy về các phép nhân đã học)
BƯỚC 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
Hoạt động 1 :
HS tự nghĩ cách nhân theo hướng nêu trên, ghi tắt vào giấy các ý riêng
của mình. Sau đó các em bàn bạc trong nhóm nhỏ (nhưng phải nói thì thầm).
Trong lúc đó GV đi quanh để giám sát, đơn đốc, khuyến khích các ý
hay, trả lời các câu hỏi của học sinh (GV cũng phải nói thầm).
Hoạt động 2 :
a)Một số học sinh lên cơng bố “phát minh” của mình (hoặc nhóm mình)
trước cả lớp. Học sinh này được nói và viết tự do trên bảng lớp. Chẳng hạn:
- HS A : + Tách 24 = 8 x 3 => 38 x 24 = 38 x (8 x 3) = (38 x 8) x 3
+ 38 nhân 8 là một phép nhân với số có một chữ số, em đã biết làm

+ 38 x 8 được bao nhiêu nhân tiếp với 3,cũng là nhân với số có một
chữ số, em biết làm rồi.
+ Cả lớp hoan hô. GV khen : tuyệt hay, giỏi !
Trang 9


- HS B: + Em tách theo phép cộng 24 = 7 + 8 + 9
+ Dùng quy tắc nhân một số với một tổng
38 x 24 = 38 x (7 + 8 + 9 ) = 38 x 7 + 38 x 8 + 38 x 9
+ Đây toàn là phép nhân với số có một chữ số, biết làm rồi.
+ Cả lớp hoan hô. GV khen …
- HS C : + Em dùng phép trừ 38 = 40 - 2
+ Dùng quy tắc nhân một hiệu với một số
38 x 24 = (40 – 2) x 24 = 40 x 24 – 2 x 24
+ 40 x 24 là nhân với số tròn chục : học rồi.
+ 2 x 24 là phép nhân với số có một chữ số, biết làm rồi.
+ Hoan hô… khen …
- HS D : + Em dùng phép cộng theo cách khác : 24 = 10 + 10 + 4
+ Dùng quy tắc nhân một một số với một tổng:
38 x 24 = 38 x (10 + 10 + 4 ) = 38 x 10 + 38 x 10 + 38 x 4
+ Phép nhân với 10 : quá dễ.
+ 38 x 4 là phép nhân với số có một chữ số: đã học.
+ Hoan hô… khen …
- HS E :

+ Em tách theo phép cộng : 24 = 20 + 4
+ 38 x 24 = 38 x (20 + 4 ) = 38 x 20 + 38 x 4
+ 38 x 20 : có dạng phép nhân với số trịn chục : đã học.
+ 38 x 4 là phép nhân với số có một chữ số: đã học.
+ Khen … Hoan hơ…


Trang 10


- HS F : + Em bắt chước cách cộng viết : nhân số chục với số chục, số đơn
vị với số đơn vị :

3x2=6

;

8 x 4 = 32

+ 38 x 24 = 632
+ Khen … Hoan hô…(mặc dù sai !)
b) Thảo luận về các “phát hiện” đã được công bố :
- Đúng, sai ?
- Cách nào gọn hơn, dễ làm hơn ?
- Cách nào dài, khó làm ?
- Cách nào quá đặc biệt ?
- ….Chẳng hạn :
-

A làm hay nhưng nếu 38 x 17 thì làm sao tách 17 thành tích của
2 số ?
A trả lời (cãi): thế thì em tách 38.
Chất vấn : Tách thử coi.
38 = 2 x 19
Vậy 38 x 24 = 2 x 19 x 24 vẫn là nhân với số có hai chữ số.
A thừa nhận là kẹt đường, cách này không dùng được.


-

B làm đúng song dài hơn C : ba phép tính dài hơn hai phép tính.

-

C làm đúng nhưng khơng hay bằng E : phép trừ khó làm hơn
phép cộng.
Cách làm của D và E cũng giống nhau nhưng D làm dài hơn.

-

Cách làm của F sai vì khơng thể làm tính nhân giống như tính
cộng được ( chỉ tính 38 x 20 đã lớn hơn 700 rồi không thể bằng
632 được.)

-

Cách làm của E hay nhất.
Trang 11


Hoạt động 3 :
a) GV tổng kết thảo luận để chốt lại cách làm của E sau đó nêu cách tính
thực tiễn như trong sách giáo khoa.
b) HS vận dụng giải bài tập.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Trong quá trình tìm tòi học hỏi ở đồng nghiệp, bạn bè, sách báo… tôi
đã thử áp dụng vào thực tế lớp học của mình

Qua thời gian thực nghiệm suốt học kỳ I đã có kết quả rõ rệt . Kết quả
kiểm tra học kì I mơn Tốn thay đổi như sau:
Kết quả kiểm tra GHKI

Kết quả kiểm tra CHKI

+ Tổng số học sinh : 25

+ Tổng số học sinh : 25

Giỏi : 2 em = 8%

Giỏi : 7 em = 28%

Khá : 6 em = 24%

Khá : 10 em = 40%

TB : 12 em = 48%

TB : 8 em = 32%

Yếu : 5 em = 20%

Yếu : 0 em

= 0%

C - PHẦN KẾT LUẬN
Phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” là một trong

những cách dạy học tiên tiến bậc nhất hiện nay. Khi thực hiện phương pháp
này trong các tiết tốn trên lớp, tơi nhận thấy ban đầu đúng là các em còn
lúng túng bỡ ngỡ trong các thao tác nhưng qua một vài lần thực hiện và
được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên (sự yểm trợ đúng lúc một số câu
hỏi, gợi ý, yểm trợ về mặt sư phạm hay về mặt khoa học,…) các em đã trở
nên quen dần và thậm chí cịn tỏ ra rất thích thú vì bản thân các em được
trực tiếp tham gia vào bài học. Các em học tập hào hứng và hăng say hơn vì
hoạt động nhóm giúp giảm bớt căng thẳng đặc biệt là đối với những học sinh
Trang 12


có học lực yếu, khơng thể tự làm việc một mình. Học sinh có thể hỏi giáo
viên hoặc bạn bè ngay những điều mà các em không biết, không hiểu.(Điều
mà ở cách dạy truyền thống, khi giáo viên tự mình “diễn trình”, học sinh rất
ngại làm). Chính vì thế mà các tiết học đều đạt hiệu quả rất cao, hầu như mọi
học sinh đều hiểu bài và vì vậy bước thực hành ( HS giải bài tập) diễn ra rất
tốt.
Tuy nhiên, rõ ràng phương pháp dạy học này vẫn mang trong mình
nhiều nhược điểm. Hai trong số đó là việc giáo viên và học sinh chưa quen
lắm với cách dạy, học này và cách dạy, học này cũng khá tốn thời gian. Song
như tôi đã đề cập ở mục II.2, những khó khăn này sẽ dễ dàng được khắc
phục dựa vào lịng nhiệt tình, vào tâm huyết với nghề của người giáo viên.
Nếu người giáo viên “chịu khó đầu tư” kĩ cho tiết dạy tại nhà, nghiên cứu kĩ
về khả năng của từng học sinh để có sự sắp xếp chỗ ngồi hợp lý nhằm tạo
điều kiện cho học sinh có thể giúp đỡ nhau, trao đổi, thảo luận trong nhóm
cũng như giữa các nhóm. Thêm vào đó, đơi lúc giáo viên cũng cần phải
khích lệ, dặn dị học sinh chuẩn bị trước bài ở nhà.
Có một vài nhược điểm của phương pháp dạy học này mà khơng có
cách khắc phục. Đó là phương pháp này sẽ rất khó thực hiện nếu như học
sinh đã học trước bài từ trong hè.(Bởi nếu vậy học sinh đã biết trước kiến

thức của bài mới và việc này hạn chế khả năng tư duy, sáng tạo của các em.
Ngồi ra, nó cũng chỉ có thể thực hiện ở một số loại bài mà khơng phải ở tất
cả các mơn, các bài. Chính vì thế, điều cần thiết là người giáo viên phải biết
linh hoạt sử dụng phương pháp này vào đúng bài học, đúng đối tượng, linh
hoạt trong từng tiết dạy, từng tình huống phát sinh trên lớp từ những ý kiến,
những câu trả lời của học sinh thì mới có thể đạt được hiệu quả như mong
muốn. Bên cạnh đó, giáo viên nên ghi nhớ một điều cốt lõi : phải tạo được

Trang 13


một khơng khí học tập thật thoải mái khơng gị ép thì học sinh mới khơng
thụ động mà ngược lại sẽ chủ động tham gia vào các hoạt động, phát huy
được tối đa khả năng và óc sáng tạo của tất cả học sinh.
Cuối cùng, cho dù phương pháp có hay đến mấy mà giáo viên sử dụng
không tốt đôi khi lại gây ra hiệu ứng ngược: làm học sinh rối tung và không
hiểu bài. Việc sử dụng quá nhiều cũng sẽ gây ra tâm lý nhàm chán ở học
sinh. Bởi vậy, giáo viên không nên chỉ sử dụng phương pháp này mà phải
biết kết hợp sử dụng một số phương pháp dạy học khác nữa nhằm tạo ra sự
phong phú trong việc dạy các mơn khác nhau.
Nói tóm lại, để một tiết dạy được thành công, điều kiện quyết định
khơng phải là ở phương pháp mà ở chính người giáo viên. Và phương pháp
chỉ là một phương tiện giúp người giáo viên đạt được mục đích đó.
“Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm” mà tôi vừa giới thiệu
trong sáng kiến này hi vọng sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp cho các bạn
đồng nghiệp gần xa trong việc giảng dạy với phương châm “Tất cả vì học
sinh thân yêu!”
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tơi đúc rút được qua q
trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có
những thiếu sót.

Rất mong sự góp ý, giúp đỡ của q thầy cơ và bạn bè đồng nghiệp để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi được hồn thiện hơn và có hiệu quả thiết thực hơn
trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Lục Ba, ngày 26 tháng 4 năm 2012
Người viết SKKN
Nguyễn Tuấn Sơn
Trang 14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tác giả

Tên tài liệu

Nhà
xuất bản

Đỗ Đình Hoan
Nguyễn Áng

1

V ũ Quốc Chung

Sách giáo khoa Toán

Đỗ Tiến Đạt


các lớp

Đỗ Trung Hiệu

1, 2, 3,4, 5

Trần Diên Hiển

Sách giáo viên Tốn

Đồn Thái Lai

các lớp

Phạm Thanh Tâm

1, 2, 3,4, 5

NXBGD

Kiều Đức Thành

2

3

Vũ Dương Thuỵ …
Đỗ Đình Hoan


Giáo trình

Đỗ Trung Hiệu

phương pháp

NXB ĐHSP

Vũ Dương Thụy

dạy học Toán ở Tiểu

Hà Nội

V ũ Quốc Chung

học
Tài liệu bồi dưỡng
giáo viên dạy lớp các
lớp

BGD & ĐT

1, 2, 3,4, 5
Một số tập san
4

Báo Thế giới trong ta

Tạp chí Báo


nói về

Thế giới trong

đổi mới phương pháp

ta

dạy học ở Tiểu học

Trang 15



×