Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Kiến thức về biến đổi khí hậu (chương 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.99 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chƣơng 2. Biến đổi khí hậu tồn cầu </b>



<b>CHƢƠNG 2. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỒN </b>


<b>CẦU </b>



<b>2.1 Biến đổi khí hậu trong các thời kỳ địa chất </b>



Những bằng chứng thu được qua các thời đại địa chất khác nhau cho thấy sự biến đổi của khí hậu
Trái đất trong quá khứ là rất sâu sắc.


<b>2.1.1 Khí hậu trƣớc Kỷ Đệ tứ </b>



Khí hậu trước Kỷ Đệ tứ (trước đây 2,6 triệu năm) nóng hơn hiện nay với nồng độ CO2 cao hơn


trong khí quyển. Thời kỳ trước Kỷ Đệ tứ này quá xa để có thể có những mẫu lõi băng, tuy nhiên
sử dụng một số phương pháp đại diện như đồng vị cacbon, đồng vị Bo, quan hệ thực nghiệm
giữa lỗ khí và nồng độ CO2 trong khí quyển, người ta có thể đánh giá được nồng độ CO2 trước


Kỷ Đệ tứ. Kết quả cho thấy nồng độ CO2 trong giai đoạn này nhìn chung cao hơn so với các thời


kỳ gian băng, tiền công nghiệp. Sự biến đổi của CO2 trong giai đoạn này được giả thiết là do các


biến đổi của các quá trình kiến tạo trên Trái đất.


Giai đoạn giữa của Thế Pliocene (hay còn gọi là Thế Thượng Tân), khoảng từ 3,3 đến 3 triệu
năm trước là giai đoạn gần đây nhất và có nhiệt độ trung bình tồn cầu được duy trì ấm hơn so
với hiện tại. Theo các tính tốn từ nhiều mơ hình thì nhiệt độ cho giai đoạn này lớn hơn so với
thời kỳ tiền công nghiệp khoảng 2ºC đến 3ºC, đưa ra một bức tranh rất giống với khí hậu của
Trái đất cuối thế kỷ 21 được dự tính bởi các mơ hình tồn cầu. Thế Pliocene cũng đủ gần để hình
dạng của các lục địa và đại dương đạt đến mức tương tự như ngày nay. Nồng độ khí CO2 trong



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hình 2.1 Niên đại địa chất Đại Tân Sinh


Vào khoảng 55 triệu năm trước, giai đoạn giữa của Thế Palaeocene (Thế Cổ Tân) và Thế Eocene
(Thế Thủy Tân), một đợt nóng đột ngột kéo dài với mức tăng vài °C đã được ghi nhận bởi những
biến đổi của đồng vị 18<sub>O và tỷ lệ Mg/Ca. Đợt nóng lên tồn cầu cùng với những tác động đến </sub>


môi trường đi kèm được ghi nhận ở tất cả các vĩ độ, trên cả bề mặt lẫn ở sâu dưới đại dương. Đợt
nóng này kéo dài gần 100 nghìn năm và thường được gọi là Cực đại nhiệt Cổ-Thủy Tân (PETM:
Palaeocene-Eocene Thermal Maximum). Các bằng chứng về sự thay đổi đối với mưa trên tồn
cầu được ghi nhận ở trong nhiều hóa thạch, bao gồm cả hóa thạch thực vật. Các nghiên cứu đồng
vị 13<sub>C trên biển và lục địa cho thấy một khối lượng lớn cacbon với tỷ lệ </sub>13<sub>C thấp đã được giải </sub>


phóng vào khí quyển và đại dương. Nguồn gốc của việc giải phóng cacbon này có khả năng là từ
khí mêtan CH4, CO2 từ các hoạt động núi lửa, hoặc sự ơxy hóa trầm tích hữu cơ. Cực đại nhiệt


Cổ-Thủy Tân làm thay đổi hệ sinh thái toàn cầu, đã và đang được nghiên cứu rất nhiều và có
những đặc điểm khá giống với ngày nay trong vấn đề lượng cacbon phát thải vào khí quyển đang
ngày một tăng cao. Trong giai đoạn PETM, các tính tốn cho thấy lượng cacbon giải phóng vào
khí quyển nằm trong khoảng từ 1 đến 2 ×1018


g cacbon, tương đương với lượng KNK phát thải
dự tính trong thế kỷ 21.


<b>2.1.2 Các thời kỳ băng hà –gian băng </b>



Các bản ghi cổ khí hậu cho thấy một chuỗi các thời kỳ băng hà- gian băng xen kẽ kể từ 740
nghìn năm trước đây trong số liệu lõi băng, và kể từ vài triệu năm trước đây trong số liệu trầm
tích đại dương dưới sâu. Thời kỳ băng hà là một giai đoạn giảm nhiệt độ lâu dài của khí hậu Trái
đất, dẫn tới sự mở rộng của các sông băng, các dải băng trên lục địa và trên vùng cực. Thời kỳ
gian băng thì ngược lại, khí hậu Trái đất trở nên ấm hơn, làm băng tan chảy. Thời kỳ băng hà


cuối cùng kết thúc cách đây khoảng 18000 năm. Thế Holocen (Toàn Tân) mà chúng ta đang sống
thuộc về một giai đoạn gian băng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Hình 2.2Thay đổi nhiệt độ bề mặt Trái đất có tương quan chặt chẽ với sự thay đổi của nồng độ </i>
<i>khí CO2 trong 400.000 năm qua. Số liệu tái tạo từ dữ liệu lõi băng ở Vostock </i>


<i>(</i> />


Trong 430 nghìn năm trở lại đây, khi mà các số liệu cùng các hiểu biết có được đầy đủ hơn,
những chu trình băng hà- gian băng có chu kỳ 100 nghìn năm với biên độ rất lớn xuất hiện rõ
nét. Hình 2.2 đã sử dụng số liệu tái tạo từ dữ liệu lõi băng ở Vostock, Nam Cực (vĩ độ:


78°27'51"S, kinh độ: 106°51'57"E). Ngoài chu kỳ 100 nghìn năm, các biến đổi lớn của khí hậu
với chu kỳ nhỏ hơn cũng được xác định.


Ở đây sẽ giải thích thêm một chút về phương pháp phân tích quá khứ sử dụng lõi băng. Ưu điểm
nổi trội của các mẫu băng đá đó là các mẫu này rất bền, không bị lẫn thông tin như các mẫu trầm
tích đáy biển (thường hay bị nhiễm các vi sinh vật). Trong một mẫu băng đá dày đến mấy nghìn
mét, mỗi lớp tuyết mỏng là lượng tuyết tích tụ hàng năm, chứa các thơng tin về khí quyển của
Trái đất vào thời điểm đó. Do vậy, thông tin của mẫu lõi băng tại mỗi độ sâu cho biết thành phần
khí quyển và nhiệt độ tại từng thời kỳ tương ứng.Phân tích bề dày lớp băng, biến động của hàm
lượng 18<sub>O sẽ cho các thông tin về giáng thủy và nhiệt độ trong quá khứ. Phấn hoa quan sát được </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

750.000 năm. Bên cạnh Nam Cực và Greenland, người ta còn có thể lấy mẫu băng tại những
sơng băng sâu ở dãy Andes của Peru và Bolivia, núi Kilimanjaro của Tanzania, và dãy
Himalayas của Châu Á.


Các lõi băng chỉ ra rằng nồng độ KNK tương quan với nhiệt độ Nam Cực theo các chu kỳ băng
hà – gian băng (Hình 2.2), gợi ý rằng có một mối liên kết chặt chẽ giữa KNK trong khí quyển và
nhiệt độ. Các số liệu lõi băng phân giải cao trong thời kỳ gian băng cho thấy nhiệt độ Nam cực
bắt đầu tăng vài trăm năm rồi nồng độ CO2 mới tăng. Trong thời kỳ gian băng hiện tại (và có lẽ



tương tự cho 3 thời kỳ gian băng trước đó), ấm lên ở cả hai bán cầu xảy ra sớm vài nghìn năm so
với dấu hiệu tăng mực nước biển đầu tiên, kết quả của việc tan băng ở Bắc bán cầu do tốc độ
nóng lên nhanh của các vĩ độ phía Bắc.


Các phân tích từ lõi băng chỉ ra rằng nồng độ CO2 khí quyển thay đổi trong khoảng từ 180 đến


300 ppm qua các thời kỳ băng hà – gian băng trong vịng 650.000 năm trở lại đây. Việc giải thích
một cách định lượng cũng như cơ chế của sự thay đổi CO2 này vẫn là một trong những bài tốn


chưa được giải của lĩnh vực khí hậu. Các q trình trong khí quyển, đại dương, trong trầm tích
biển và trầm tích trên đất liền, cũng như động lực băng biển và các tảng băng cần được tính đến.
Bởi vì biến đổi khí hậu trong giai đoạn ban đầu và giai đoạn kết thúc của một thời kỳ băng hà
diễn ra trong khoảng vài nghìn năm, hầu hết các biến đổi này bị tác động bởi một quá trình hồi
tiếp dương của CO2: nghĩa là một sự lạnh đi nhỏ ban đầu (có thể xuất hiện do sự biến động của


quỹ đạo Trái đất, sẽ được đề cập đến ở phần sau) sẽ được tăng cường do nồng độ CO2 trong khí


quyển giảm đi.


Bên cạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa thay đổi nhiệt độ và nồng độ CO2 trong khí quyển, các phân


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Hình 2.3 Biểu diễn độ lệch tâm, độ nghiêng trục và tuế sai chuyển động của Trái đất trên quỹ đạo
(theo ).


<b>Độ lệch tâm </b>dao động với chu kỳ khoảng 413.000 năm và giá trị thay đổi trong khoảng từ 0,002
(độ lệch tâm nhỏ, quỹ đạo gần tròn) đến 0,050 (độ lệch tâm lớn hơn, quỹ đạo có hình elíp vừa
phải) từ 800.000 năm trước đến dự kiến 200.000 năm tiếp theo trong tương lai. Giá trị củađộ
lệch tâm hiện tại là 0,017.Thay đổi của độ lệch tâm điều chỉnh khoảng cách của Trái đất với mặt
trời và có ảnh hưởng hạn chế đến bức xạ trung bình tồn cầu và trung bình năm. Tuy nhiên sự


thay đổi của độ lệch tâm làm thay đổi khoảng cách từ Trái đất đến mặt trời, dẫn đến sự điều
chỉnh mạnh của các mùa và ảnh hưởng của vĩ độ do độ nghiêng trục và chuyển động tuế sai gây
nên.


Hiện tại, chênh lệch của điểm gần mặt trời nhất (gọi là điểm cận nhật) và điểm xa nhất (điểm
viễn nhật) là khoảng 5,1 triệu km tương ứng với độ chênh khoảng 6,8% của bức xạ Mặt Trời,
nghĩa là bức xạ mặt trời tại điểm cận nhật lớn hơn bức xạ mặt trời tại điểm viễn nhật là 6,8%.
Trái đất đi qua điểm cận nhật vào khoảng ngày 03 tháng 01 (năm 2000 diễn ra vào ngày 02 tháng
01), và qua điểm viễn nhật vào khoảng ngày 04 tháng 7 hàng năm (năm 2000 là ngày 02 tháng
7). Trong quá khứ có thời điểm độ lệch tâm lớn hơn nhiều so với hiện tại, nghĩa là quỹ đạo là
elíp nhiều hơn, lượng bức xạ mặt trời ở điểm cận nhật sẽ có thể lớn hơn tới 23% so với điểm
viễn nhật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ngày đơng chí, Bắc bán cầu nhận được ít bức xạ hơn trong mùa đông so với trong mùa hè.
Tương tự, cũng là hệ quả của sự nghiêng, khi Bắc bán cầu bắc trải qua mùa đơng thì Nam bán
cầu lại là mùa hè.Do đó, khi độ nghiêng của trục tự quay Trái đất nhỏ thì mùa đơng ấm hơn và
mùa hè mát hơn.


Biến đổi do tiến động quĩ đạo Trái đất hay còn gọi là <b>tuế sai</b> sinh ra do lực hấp dẫn giữa các
hành tinh (chủ yếu với sao Mộc) làm quỹ đạo elíp của Trái đất xoay quanh trong không gian theo
2 chu kỳ cơ bản là 19.000 và 23.000 năm. Tiến động quỹ đạo này làm thay đổi hướng của trục
quay Trái đất tương đối so với mặt trời, làm biến đổi các điểm phân theo thời gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hình 2.4 Thay đổi tham số của quỹ đạo Trái đất từ 250,000 năm trước đến nay
(


Thời kỳ băng hà gần đây nhất bắt đầu từ khoảng 116.000 năm trước, đáp lại sự thay đổi của quỹ
đạo Trái đất. Các tảng băng tăng và mực nước biển giảm đến cực đại trong Cực đại Băng hà
Cuối cùng (LGM: Last Glacial Maximum) cách đây khoảng 21.000 năm. Nồng độ của các KNK
trong khí quyển trong giai đoạn LGM thấp hơn khá nhiều so với giai đoạn tiền công nghiệp, làm


giảm -2,8W/m2


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Đối với mực nước biển, các phân tích dựa trên các mơ hình cho phép ước lượng sự thay đổi mực
nước biển trung bình trong thời kỳ chuyển tiếp băng hà – gian băng cuối cùng, nghĩa là từ giai
đoạn Cực đại Băng hà Cuối cùng sang thế Holocene (Toàn Tân). Kết quả cho thấy mực nước
biển đã tăng lên khoảng 120 m so với 21.000 năm trước


đây.

<b>2.1.3 Giai đoạn gian băng hiện tại </b>



Khí hậu Trái đất đã nhiều lần thay đổi, với những thời kỳ băng hà lạnh xen kẽ với những thời kỳ
gian băng ấm áp. Cách đây 20.000 năm cho đến khoảng 11.000 năm Trái đất vẫn lạnh hơn hiện
nay khoảng 5ºC. Đó cũng là thời kỳ băng hà cuối cùng trong lịch sử Trái đất.


Từ cách đây 11.000 năm Trái đất ấm dần lên và đến khoảng 8.000 năm trước đây, nhiệt độ Trái
đất đã ở mức gần tương đương với nhiệt độ ngày nay, với sự hơn kém về nhiệt độ là khoảng 1°C.
Thời kỳ gian băng hiện tại (thế Holocene) chứng kiến các thay đổi do tác nhân của con người lên
môi trường từ quy mô địa phương (ví dụ thay đổi sử dụng đất) đến quy mơ tồn cầu (ví dụ các
thành phần khí quyển). Các dữ liệu ở thời kỳ hiện tại đầy đủ và tốt hơn rất nhiều so với các thời
kỳ trước đó, cả về khơng gian lẫn thời gian.


Trong thời kỳ gian băng hiện tại, các thay đổi trong quỹ đạo Trái đất điều chỉnh khí hậu phân bố
theo vĩ độ và theo mùa của bức xạ mặt trời.


Các phân tích lõi băng cho thấy nồng độ CO2 khí quyển giảm khoảng 7 ppm trong giai đoạn cách


đây từ 11.000 đến 8.000 năm, tiếp đó tăng lên khoảng 20 ppm cho đến thời điểm bắt đầu thời kỳ
cơng nghiệp (đạt giá trị 280 ppm) (Hình 1.6).


Nồng độ CH4 giảm từ giá trị 730 ppb xung quanh thời điểm 10.000 năm trước xuống giá trị 580



ppb cách đây khoảng 6.000 năm, sau đó tăng lại lên 730 ppb vào thời kỳ tiền công nghiệp. Trong
khi đó, NO2 cho mức giảm khoảng 10 ppb trong thời kỳ đầu của thế Holocene và sau đó tăng lên


cùng biên độ trong khoảng từ 8.000 đến 2.000 năm trước đây.


Sự thay đổi nhiệt độ trong thế Holocene đã được nghiên cứu cho rất nhiều khu vực khác nhau. Ở
những khu vực vĩ độ cao của Bắc Đại Tây Dương và khu vực lân cận Bắc Cực, có vẻ như nhiệt
độ mùa hè đạt cực đại vào giai đoạn sớm của thế Holocene (10.000 đến 8.000 năm trước). Các vĩ
độ trung bình phía Bắc cho thấy một xu thế giảm của nhiệt độ bề mặt biển từ giai đoạn ấm thời
kỳ đầu đầu và giữa của Holocene đến giai đoạn lạnh hơn thời kỳ tiền công nghiệp. Giai đoạn ấm
nhất cho Bắc Âu và Tây Bắc của Bắc Mỹ diễn ra vào khoảng từ 7.000 đến 5.000 năm trước đây.
Trong giai đoạn giữa của thế Holocene, phương pháp nghiên cứu phấn hoa và hóa thạch cho thấy
sự mở rộng lên phía Bắc của các khu rừng ơn đới cũng như sự rút lui của băng. Giai đoạn ấm
sớm này cũng được xác định trong các khu vực như xích đạo Tây Thái Bình Dương, Trung
Quốc, New Zealand, Nam Phi và Nam Cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Từ khoảng 1360 đến 1750, Trái đất lạnh hơn hiện nay và lạnh nhất vào khoảng năm 1670, thấp
hơn hiện nay khoảng 0,6 0


C.


Thời kỳ băng hà nhỏ (Little Ice Age) gần đây nhất xảy ra vào khoảng giữa thế kỷ 16 và kết thúc
vào khoảng giữa thế kỷ 19. Nguyên nhân có vẻ như là do sự giảm hoạt động mặt trời. Một số bức
tranh cũ đã mô tả lại cảnh hoạt động trong mùa đông châu Âu cho thấy sự lạnh giá của thời kỳ
này(ví dụ Hình 2.5).


Hình 2.5 Cảnh mùa đông và mọi người di chuyển bằng cách trượt băng (1608, Hendrick
Avercamp).



<b>2.2 Biến đổi khí hậu hiện đại </b>


<b>2.2.1 Biến đổi của nhiệt độ </b>



Một số biểu hiện của BĐKH hiện đại được nhận biết rõ rệt qua nhiệt độ.


Băng hà ở Na Uy và dãy An-pơ bắt đầu rút từ giữa thế kỷ 19. Ở Đơng Âu, nhiệt độ trung bình
năm thời kỳ 1881-1915 tăng lên khoảng vài phần mười độ so với thời kỳ 1846 - 1880. Ở
Lêningrat, nhiệt độ trung bình năm tăng +3,5ºC từ 1801 đến 1850; tăng +4,6oC từ 1921 đến
1936. Các tháng mùa đông đặc biệt nóng lên. Biên độ năm của nhiệt độ (chênh lệch giữa nhiệt
độ cao nhất và thấp nhất) ở Lêningrat do vậy giảm đến 1,3o


C.


Ở Tây Âu, nhiệt độ trung bình mùa đơng mười năm trước năm 1920 đã tăng lên 2,5o<sub>C so với </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

hoà. Ở Bắc Băng dương q trình nóng lên cịn rõ rệt hơn ở miền ôn đới. Từ năm 1910 đến hết
năm 1940 nhiệt độ trung bình ở Băng Đảo Greenland tăng lên 3o


C.


Sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị và mạng lưới thám sát gần đây đã cho phép đưa ra những
kết quả phân tích với độ tin cậy cao về sự biến đổi của nhiệt độ.


<b>Nhiệt độ trung bình tồn cầu đang tăng</b>. Trong 100 năm, từ 1906 đến 2005 nhiệt độ đã tăng
<b>+0,74±0,18</b>º<b>C</b>, nhanh hơn bất kỳ thế kỷ nào trong lịch sử, kể từ thế kỷ 11 đến nay.


Tốc độ tăng nhiệt độ trong 50 năm cuối là <b>+0,13±0,03</b>º<b>C/thập kỷ</b>, gần bằng hai lần tốc độ tăng
trong thời kỳ 1906-2005, cho thấy xu thế biến đổi nhiệt độ ngày càng nhanh hơn. Sai khác lớn
nhất của nhiệt độ giữa hai năm liên tiếp là 0,29ºC (giữa năm 1976 và năm 1977).



Giai đoạn 1961-1990, nhiệt độ tối cao tăng 0,14ºC/thập kỷ và nhiệt độ tối thấp tăng 0,2ºC/thập
kỷ.


Số liệu quan trắc cho thấy, trên các vùng lục địa, trong 12 năm, từ 1995-2006, đã có 11 năm (trừ
1996) là những năm có nhiệt độ cao nhất kể từ 1850, trong đó nóng nhất là năm 1998 và năm
2005. Riêng 5 năm 2001–2005 có nhiệt độ trung bình cao hơn 0,44ºC so với chuẩn trung bình
của thời kỳ 1961–1990.


Nhiệt độ cực trị cũng có xu thế phù hợp với nhiệt độ trung bình, kết quả là giảm số đêm lạnh và
tăng số ngày nóng và biên độ nhiệt độ ngày giảm đi chừng 0,07ºC mỗi thập kỷ.


Nhiệt độ bề mặt biển cũng có xu hướng tăng rõ rệt từ đầu thế kỷ 20 trên các đại dương. <b>Tốc độ </b>
<b>ấm lên trên đất liền lớn hơn trên đại dƣơng</b>. Trong giai đoạn 1979-2005, nhiệt độ trên đất liền
tăng 0,27ºC/thập kỷ còn trên đại dương là 0,13ºC/thập kỷ.


Những nơi nóng lên mạnh nhất nằm ở sâu trong lục địa châu Á và Tây Bắc của Bắc Mỹ. Tuy
nhiên cũng có một số vùng bị lạnh đi từ 1979, đa phần ở đại dương và Nam Bán cầu.


Nhiệt độ trung bình của Bắc Bán cầu trong nửa sau thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ giai đoạn 50 năm
nào trong 500 năm gần đây và có thể cao nhất trong ít nhất 1.300 năm qua.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Hình 2.6 Nhiệt độ trung bình tồn cầu từ 1850 [IPCC, 2007]


Bảng 2.1 Diễn biến của chuẩn sai nhiệt độ trên các châu lục và đại dương trong thế kỷ 20. Đơn


vị ºC [IPCC, 2001]


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>



<b>2.2.2 Biến đổi của lƣợng mƣa </b>




Không giống như xu thế ấm lên khá đồng nhất của nhiệt độ, <b>lƣợng mƣa lại có sự tăng giảm </b>
<b>khá khác nhau theo khu vực</b>.


Trong thời kỳ 1901–2005 xu thế biến đổi của lượng mưa rất khác nhau giữa các khu vực, và
giữa các thời đoạn khác nhau trên từng khu vực.


Ở Bắc Mỹ, lượng mưa tăng lên ở nhiều nơi, nhất là ở phía Bắc Canađa nhưng lại giảm đi ở Tây
Nam nước Mỹ, Đông Bắc Mexico và bán đảo Bafa với tốc độ giảm khoảng 2% mỗi thập kỷ, gây
ra hạn hán trong nhiều năm gần đây.


Ở Nam Mỹ, mưa lại tăng lên trên lưu vực Amazon và vùng bờ biển Đông Nam nhưng lại giảm đi
ở Chilê và vùng bờ biển phía Tây.


Ở Châu Phi, lượng mưa giảm ở Nam Phi, đặc biệt là ở Sahel trong thời đoạn 1960–1980.
Ở khu vực nhiệt đới, mưa giảm đi ở Nam Á và Tây Phi với trị số xu thế là 7,5% cho cả thời kỳ
1901–2005. Khu vực có tính địa phương rõ rệt nhất trong xu thế biến đổi lượng mưa là Australia
do tác động mạnh mẽ của ENSO.


Ở đới vĩ độ trung bình và vĩ độ cao, lượng mưa tăng lên rõ rệt ở miền Trung Bắc Mỹ, Đông Bắc
Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á và Trung Á.


Trên phạm vi toàn cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía Bắc vĩ độ 30ºN thời kỳ 1901–2005 và
giảm đi ở các vĩ độ nhiệt đới, kể từ thập kỷ 1990.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Hình 2.7 Xu thế biến đổi lượng mưa trung bình năm từ 1901 đến 2005 [IPCC, 2007]

<b>2.2.3 Biến đổi ở các vùng cực, băng quyển </b>



Trong thế kỷ 20 cùng với sự tăng lên của nhiệt độ mặt đất có sự suy giảm khối lượng băng trên
phạm vi toàn cầu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Băng ở Greenland mất dần đi với tốc độ khoảng -50 đến -100 Gt/năm, làm tăng mực biển tương
đương khoảng 0,14 đến 0,18 mm/năm trong giai đoạn 1993-2003.


Hình 2.8 Diện tích tuyết phủ ở Bắc Bán Cầu vào tháng 3 – tháng 4 qua các năm [IPCC, 2007]
<b>Độ phủ tuyết có xu hƣớng giảm </b>ở hầu hết các khu vực Bắc Bán cầu, đặc biệt là vào mùa xuân
(Hình 2.8).


<b>Ngày đóng băng của các sơng và hồ đến muộn</b>hơn với tốc độ khoảng 5,8 ngày/thế kỷ; trong
khi đó <b>ngày tan băng lại đến sớm hơn</b> với tốc độ khoảng 6,5 ngày/thế kỷ.


<b>2.2.4 Biến đổi mực nƣớc biển </b>



Nóng lên tồn cầu làm gia tăng mực nước biển.


Trong khoảng 2000 năm trước năm 1870, sự biến đổi của mực nước biến là nhỏ, với tốc độ thay
đổi trung bình từ 0,0 đến 0,2 mm/năm


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Giai đoạn 1993-2003, đo đạc từ vệ tinh Topex/Poseidon cho thấy mực nước biển tăng ở mức
3,1±0,7mm/năm. Người ta cho rằng giai đoạn này tăng nhanh hơn giai đoạn trước có thể là biểu
hiện sự khác biệt giữa biến động của các thập kỷ.


Các nguyên nhân làm cho nước biển dâng chủ yếu là sự dãn nở vì nhiệt, sự tan băng của các
chỏm băng và các tảng băng ở vùng cực.


Bên cạnh đó, sự nóng lên của đại dương toàn cầu chiếm đến 80% sự biến đối năng lượng của hệ
thống khí hậu Trái đất.


Do lượng cacbon nhân tạo nhiều hơn, sự hấp thụ cacbon của đại dương nhiều hơn dẫn đến <b>tính </b>
<b>axit của đại dƣơng nhiều hơn</b>, với sự giảm độ pH bề mặt trung bình là 0,1 đơn vị.



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Hình 2.10 Tốc độ thay đổi của mực nước biển trong hai thời kỳ 1993-2003 và 1953-2003 [IPCC,
2007]


<b>2.2.5 Biến đổi của dịng chảy </b>



Dịng chảy trên thế giới có những biến đổi sâu sắc từ thập kỷ này sang thập kỷ khác và giữa các
năm trong từng thập kỷ.


Dịng chảy tăng lên trên nhiều lưu vực sơng thuộc Mỹ song lại giảm đi ở nhiều lưu vực sông
thuộc Canada trong 30–50 năm gần đây.


Trên lưu vực sơng Lêna ở Xibiri cũng có sự gia tăng dịng chảy đồng thời với nhiệt độ tăng lên
và lớp băng phủ giảm đi. Ở lưu vực sơng Hồng Hà, dòng chảy giảm đi rõ rệt trong những năm
cuối thế kỷ 20 do nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng lên, mức độ tiêu thụ nước cũng tăng lên trong
khi lượng mưa khơng có xu thế tăng hay giảm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>2.2.6 Biến đổi của một số yếu tố và hiện tƣợng cực đoan </b>



Trên hầu hết các khu vực đất liền, trong hơn 50 năm qua số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá
giảm đi và số ngày nóng, đêm nóng tăng lên. Các đợt nắng nóng và nắng nóng gay gắt trở nên
thường xuyên hơn.


Kỷ lục là đợt nóng mùa hè năm 2003 ở châu Âu với nhiệt độ trung bình cao hơn 3,8ºC so với
trung bình mùa hè thời kỳ 1961-1990, và cao hơn 1,4ºC so với sự kiện nóng nhất trước đó, vào
năm 1807. Nhiệt độ lên đến 48ºC ở phía Nam Bồ Đào Nha. Đợt nóng này đã làm 35.000 người
chết, trong đó ở Pháp có 15.000 người.


Các hiện tượng như bão, mưa lớn, lũ lụt, lũ quét, hạn hán, tố lốc dường như cũng xảy ra mạnh
hơn, bất thường hơn.



Trên phạm vi tồn cầu, biến đổi của xốy thuận nhiệt đới (XTNĐ) chịu sự chi phối của nhiệt độ
nước biển, của hoạt động ENSO và sự thay đổi quỹ đạo của chính XTNĐ. Hoạt động của XTNĐ
mạnh tăng lên ở Bắc Đại Tây Dương và một số nơi khác kể từ 1970, tương ứng với sự tăng lên
của nhiệt độ bề mặt biển vùng nhiệt đới. Ngay cả những nơi có tần số giảm đi và thời gian tồn tại
ít đi thì cường độ XTNĐ vẫn có xu thế tăng lên. Xu thế tăng cường hoạt động của XTNĐ rõ rệt
nhất ở Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.


Đối với hạn hán, kể tử những năm 1970, nhiều đợt hạn hán kéo dài, cường độ mạnh cũng đã
được ghi nhận tại nhiều khu vực khác nhau, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Ở Bắc bán cầu, hạn hán xuất hiện phổ biến từ giữa thập niên 1950 trên phần lớn vùng Bắc Phi,
đặc biệt là Sahel, Canađa và Alaska. Ở Nam bán cầu, hạn hán xuất hiện nhiều trong giai đoạn từ
1974 đến 1998. Trên khu vực miền Tây nước Mỹ, hạn hán nặng xuất hiện từ năm 1999 đến cuối
năm 2004 mặc dù lượng mưa trên khu vực này có xu thế tăng trong nhiều thập kỷ gần đây.

<b>2.2.7 Biến đổi của một số yếu tố khác </b>



Từ 1960 đến giữa thập kỷ 1990, tốc độ gió Tây vĩ độ trung bình có xu thế tăng lên trong cả hai
mùa trên cả Bắc và Nam bán cầu. Ranh giới phía Bắc ở Bắc bán cầu và ranh giới phía Nam ở
Nam bán cầu của dịng xiết gió Tây có xu thế dịch chuyển về phía cực. Quỹ đạo của xốy thuận
ơn đới trên Đại Tây Dương ở Bắc bán cầu cũng có xu thế dịch chuyển về phía Bắc cực.


Hơi nước trong tầng đối lưu cũng đang có xu thế tăng lên.


Người ta cũng quan sát được sự <b>giảm bức xạ thƣờng tập trung tại một số khu vực thành thị </b>
<b>rộng lớn</b>. Sự tăng lượng xon khí do hoạt động con người là lý do của việc giảm tổng lượng bức
xạ xuống bề mặt. Ở một số nơi như Đông Âu, gần đây đã quan trắc được sự đảo dấu, liên quan
đến việc khu vực này đã hạn chế được phát thải xon khí, dẫn đến tăng chất lượng khơng khí và
làm tăng lượng bức xạ đi xuống.


</div>


<!--links-->

×