PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Giáo dục vì sự phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu hàng đầu của
giáo dục trong thời đại ngày nay. Điều này được xác định rõ trong thập kỷ của
Liên Hiệp Quốc về giáo dục vì sự phát triển bền vững (2005-2014). Mặc dù vậy,
tầm nhìn, mục tiêu và các nội dung của GDPTBV vẫn chưa được hiện thực hóa ở
mức cần thiết trong giáo dục ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì
vậy rất cần thiết phải tăng cường GDPTBV trong nhà trường phổ thông.
2. Biến đổi khí hậu đã và đang trở thành hiểm họa đe dọa đến sự tồn vong
của toàn thể nhân loại. Việt Nam được cảnh báo là một trong những quốc gia sẽ
phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất khi nhiệt độ Trái Đất không ngừng tăng lên.
Câu hỏi đặt ra là làm gì để ứng phó với BĐKH? Bên cạnh những giải pháp mang
tầm vĩ mô, cần có sự chung tay của cộng đồng quốc tế, sự tham gia của chính phủ
và người dân thì tăng cường GDBĐKH trong nhà trường phổ thông là giải pháp có
tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì GDBĐKH nhằm cung cấp kiến thức, hình thành kĩ
năng và quan trọng nhất là xây dựng năng lực ứng phó có hiệu quả với những tác
động của BĐKH cho HS.
3. Địa lí là một trong những môn học có nhiều thuận lợi nhất để tích hợp
và lồng ghép GDBĐKH. Bởi vì ở nhà trường phổ thông khí hậu và BĐKH là đối
tượng nghiên cứu của khoa học địa lí nói chung và môn Địa lí nói riêng. Địa lí phổ
thông có khả năng nắm vững các kiến thức BĐKH ( biểu hiện, nguyên nhân, hậu
quả ) trên phạm vi toàn cầu, khu vực, quốc gia và địa phương. Và giúp cho HS có
được khả năng “tư duy toàn cầu hành động địa phương”.
4. Phương pháp dạy học dự án là một trong những phương pháp thích
hợp để giáo dục biến đổi khí hậu thông qua môn địa lí. Lí thuyết và thực tiễn đã
chứng tỏ rằng DHDA là một phương pháp dạy học có hiệu quả của giáo dục
BĐKH. DHDA là phương pháp được xây dựng dựa trên tiếp cận trải nghiệm, định
hướng thực tiễn và định hướng hành động với đặc trưng cơ bản tiếp cận khoa học,
được xem là công cụ dạy học hiệu nghiệm, có khả năng phát huy tối đa năng lực
của người học, trang bị những kĩ năng cần thiết để họ có thể thích nghi với thực tế
cuộc sống nhiều biến động.
1
5. Internet đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi để tiến hành dạy
học dự án nội dung giáo dục về sự biến đổi khí hậu, bởi:
- Internet cung cấp khối lượng thông tin khổng lồ, phong phú, cập nhật cho
HS khi các em nghiên cứu các dự án. Với vấn đề mang tính thời sự cao như BĐKH,
sự thay đổi diễn ra từng ngày từng giờ và trên quy mô toàn cầu thì chỉ Internet mới
có thể phản ánh được một cách đầy đủ nhất.
- Các tiện ích của Internet giúp giáo viên tổ chức, quản lý, HS tiến hành các
dự án học tập một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong điều kiện khuôn khổ trường
lớp, chương trình học hạn hẹp thì đây chính là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho dạy học.
- Internet vừa có khả năng kết nối người học, vừa tạo ra cơ hội để HS bày tỏ
những quan điểm của cá nhân, thay đổi cách nhìn nhận của người khác cũng như
của chính bản thân mình, tạo ra những cộng đồng cùng chung tay chống lại nguy cơ
của sự BĐKH.
Với những lí do trên tôi mạnh dạn đề xuất và nghiên cứu đề tài “TỔ CHỨC
CHO HỌC SINH THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VỚI SỰ
HỖ TRỢ CỦA INTERNET TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 6 THCS
II. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu
Những mục tiêu quan trọng nhất của đề tài là :
- Xác định những cách thức và phương pháp sử dụng hiệu quả DHDA và sự
hỗ trợ của Internet để GDBĐKH trong dạy học Địa lí ở trường THCS.
- Xây dựng quy trình với những bước cụ thể để tổ chức cho HS thực hiện các
dự án về BĐKH với sự hỗ trợ của Internet trong dạy học Địa lí, phù hợp với điều
kiện dạy học của nước ta hiện nay.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đánh giá những mục tiêu nói trên, đề tài cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau :
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc GDBĐKH trong dạy học Địa
lí cho HS THCS thông qua phương pháp DHDA và sự hỗ trợ của Internet.
- Sáng tỏ phương pháp dạy học hiệu quả, lựa chọn các công cụ Internet phù
hợp từ đó thiết kế các dự án học tập nội dung giáo dục về BĐKH với sự hỗ trợ của
Internet.
- Tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm chứng kết quả nghiên cứu lí thuyết.
IV. Giới hạn của đề tài
2
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu để làm sáng tỏ hiệu quả của một phương
pháp cụ thể trong GDBĐKH thông qua môn Địa lí : Phương pháp DHDA với sự hỗ
trợ của Internet.
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu là HS các trường THCS trên địa bàn thành
phố Hà Nội
V. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã vận dụng phối hợp các phương pháp, trong
đó có các phương pháp chủ yếu sau:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích hệ thống: Phương pháp này coi quá trình dạy
học là một hệ thống, bao gồm quá trình dạy và quá trình học, tồn tại và phát triển
trong mối quan hệ tương hỗ và tạo nên cấu trúc chặt chẽ. Đó là quá trình dạy và quá
trình học. Việc sử dụng phương pháp này nhằm phát hiện ra các chức năng và cầu
trúc của hệ thống các phương pháp dạy học Địa lí như: Hệ thống các phương pháp
dạy học tích cực, hệ thống phương pháp dạy thụ động để từ đó đề xuất việc đổi mới
phương pháp dạy học.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Đổi mới phương pháp dạy học là một
quá trình liên tục và mang tính kế thừa. Trong đề tài này, phương pháp nghiên cứu
lịch sử được sử dụng làm sáng tỏ những khả năng và hiệu quả của việc áp dụng
phương pháp dự án vào dạy học ở trường phổ thông.
- Phương pháp nghiên cứu các công trình lí luận: Phương pháp này được
sử dụng để nghiên cứu các công trình, cuốn sách về lí luận giáo dục và dạy học,
phương pháp dạy học Địa lí, phương pháp DHDA, các đề tài luận văn tốt nghiệp
cùng chuyên ngành…Đây là nguồn tư liệu tham khảo chủ yếu giúp cho tác giả hiểu
rõ những quan điểm, những ý kiến của các tác giả đi trước.
- Phương pháp thống kê toán học: Giá trị của phương pháp này không chỉ
giới hạn ở chỗ tính toán hay xử lý hàng loạt các số liệu trong quá trình điều tra thực
tế mà còn giải thích và làm rõ mối quan hệ có tính định hướng giữa tâm sinh lí và
khả năng nhận thức của HS.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích tổng hợp chính là nhằm phát
hiện, khai thác, chọn lọc các khía cạnh khác nhau của tài liệu để phục vụ nghiên
cứu. Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước
3
về các vấn đề liên quan đến phương pháp dự án, GDBĐKH, thiết kế và tổ chức các
dự án trong dạy học Địa lí.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra khảo sát: Với các bảng điều tra câu hỏi phương
pháp này được sử dụng để điều tra tình hình áp dụng phương pháp DHDA, thực
trạng GDBĐKH ở trường THCS trên địa bàn Hà Nội và khảo sát năng lực của GV
nhằm phục vụ cho mục đích thiết kế và tổ chức các dự án.
- Phương pháp quan sát: Phương pháp này được sử dụng để thu thập
những thông tin định tính. Ở đề tài này việc quan sát được thực hiện trong suốt quá
trình HS và GV tiến hành dự án để có được điều chỉnh cần thiết phù hợp với thực tế
dạy học.
- Phương pháp chuyên gia: Các vấn đề trong đề tài được được đem ra tham
khảo ý kiến và thảo luận với các chuyên gia giáo dục, cán bộ chương trình, GV…
những người quan tâm, có nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong DHDA và
GDBĐKH.
- Phương pháp thực nghiệm: Đây là phương pháp thu thập và xử lý thông
tin thực hiện bởi những quan sát trong điều kiện có gây biến đổi đối tượng khảo sát
một cách chủ định. Phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích kiểm chứng tính
hiệu quả của đề tài và đánh giá một cách chính xác, khách quan những giả thuyết
mà tác giả đã nêu ra trong đề tài.
VI. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Phương pháp dạy học dự án đã được các nhà nghiên cứu lí luận giáo dục
Việt Nam tiếp cận và giới thiệu trong một số cuốn sách, luận văn, các tài liệu tập
huấn cũng như các bài báo cụ thể:
Phương pháp DHDA đã được trình bày trong giáo trình “Lí luận dạy hoc
Địa lý đại cương” và trong cuốn sách “Phương pháp dạy học địa lí theo hướng tích
cực” của PGS.TS. Đặng Văn Đức. Trong tài liệu Dạy học Project hay dạy học theo
dự án và một số tài liệu tập huấn về Lí luận giáo dục dạy học hiện đại các tác giả
Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier đã đề cập khá rõ vấn đề DHDA.
Một số đề tài luận văn tốt nghiệp cũng đã đi sâu tìm hiểu vấn đề DHDA ví
dụ như : Tổ chức dạy học dự án một số kiến thức chương chất rắn và chất lỏng, sự
chuyển thể trong SGK Vật lí 10 BCB (Nguyễn Thị Phương Dung); Vận dụng
4
phương pháp dự án trong dạy học tiếng việt 4 cho HS khá giỏi (Châu Thị Lan Chi);
Tổ chức dạy học dự án “sử dụng năng lượng mặt trời” cho học sinh lớp 11
(Nguyễn Cao Cường); Tổ chức DHDA các nội dung kiến thức chương “Mắt – các
dụng cụ quang học” trong SGK vật lí 11 (Trần Thị Hải); Tổ chức DHDA giáo dục
vì sự phát triển bền vững trong chương trình SGK Địa lí lớp 10 (Nguyễn Thị Thúy
Hường).
Trên các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học đã xuất hiện một số bài
viết về DHDA, đáng chú ý là bài viết Sử dụng sơ đồ tư duy trong DHDA các nội
dung kiến thức chương từ trường môn Vật lí 9 của tác giả Trần Văn Thành ; Vận
dụng DHDA trong ứng dụng kĩ thuật của Vật lí của Đỗ Hương Trà, Phạm Văn
Ngọc; Sử dụng phương pháp DHDA có ứng dụng CNTT ở trường phổ thông của tác
giả Trần Thị Thanh Thủy.
Các tài liệu tập huấn của các dự án đào tạo kĩ năng cho GV của Bộ Giáo Dục
và các tập đoàn lớn như: Chương trình dạy học Intel của tập đoàn Intel Việt Nam,
chương trình Partners in learning của tập đoàn Microsoft, dự án Việt – Bỉ áp dụng
cho 17 tỉnh miền núi phía bắc…đã đề cập ở mức độ khác nhau đến DHDA. Các tài
liệu này tập trung bồi dưỡng kĩ năng và năng lực ứng dụng CNTT & TT và thực
hành áp dụng phương pháp dự án vào quá trình dạy học.
Các tài liệu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản của phương pháp
DHDA, gồm:
Thứ nhất, cơ sở lí luận của phương pháp: khái niệm, cách tiếp cận, đặc điểm,
phân loại, mục tiêu, ý nghĩa của phương pháp, vai trò của GV và HS, quy trình
chung của DHDA.
Thứ hai, đưa ra quy trình cụ thể, chi tiết để GV có thể thiết kế, tổ chức cho
HS thực hiện các dự án trong các môn học, bài học cụ thể như Vật lí, Địa lí, Toán,
Tiếng Việt, Sinh học…
Thứ ba, lựa chọn những công cụ thích hợp cho DHDA trong đó đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của CNTT & TT.
Ứng dụng CNTT & TT phục vụ quá trình dạy học là một mảng thu hút rất
nhiều đề tài nghiên cứu. Những nghiên cứu đó đã chỉ ra vai trò, chức năng và những
ứng dụng cụ thể của ICT trong dạy học và giáo dục.
5
Về công cụ Internet đối với dạy học có các nghiên cứu như: Sử dụng tài liệu
khai thác thác trên mạng Internet để dạy học Lịch sử ở trường THPT (Đoàn Thị
Kiều Oanh), Sử dụng Internet khai thác thông tin, tư liệu dạy học sinh học (Dương
Tiến Sỹ); Sử dụng Internet trong dạy học (Phạm Tú Anh). Các tài liệu này đã đề
cập đến chức năng, vai trò, các công cụ của Internet có thể được sử dụng để khai
thác thông tin cho dạy học đồng thời đưa ra những hướng dẫn cụ thể. Đối với việc
tổ chức quá trình dạy học bằng công cụ Internet thì các tài liệu của Intel, Microsoft
đã đề cập hết sức cụ thể, chi tiết mang tính ứng dụng cao.
GDBĐKH, hiện nay là chủ đề thu hút được rất nhiều sự quan tâm, của các
nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục. Trong các hội thảo quốc gia và quốc tế về
GDBĐKH tổ chức tại trường ĐHSP Hà Nội có hàng trăm báo cáo của các chuyên
gia về BĐKH, chuyên gia giáo dục trong nước và ngoài nước, các báo cáo này tập
trung làm rõ những vấn đề sau:
- Những kiến thức về khí hậu và BĐKH bao gồm: quan niệm, nguyên nhân,
biểu hiện, hậu quả, giải pháp…đó là các bài viết của TS. Đào Ngọc Hùng, PGS. TS
Nguyễn Kim Hồng, Nguyễn Ánh Hoàng & Lê Thị Ngọc Bích…
- Ý nghĩa và tầm quan trọng của GDBĐKH cho cộng đồng nói chung và các
trường học nói riêng. Chủ đề này có nghiên cứu của PGS. TS Trần Đức Tuấn, PGS.
TS Nguyễn Thị Minh Phương, Ths. Hồ Thị Thu Hồ…
- Các phương pháp và cách thức GDBĐKH trong nhà trường phổ thông như:
Tích hợp GDBĐKH vào chương trình, SGK của các tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng,
Trịnh Phi Hoành, Trần Quốc Huy, Nguyễn Tất Thắng…; Sử dụng phương pháp
DHDA gồm các tác giả: Nguyễn Thị Kim Liên, Trần Văn Thành, Nguyễn Thị Việt
Hà; Tổ chức các hoạt động ngoại khóa giáo dục về BĐKH: Trần Thị Bích Hường,
Đỗ Thị Lý…
- Các công cụ sử dụng để GDBĐKH: Phương tiện trực quan (Ths. Nguyễn
Trọng Đức), Tranh biếm họa (Nguyễn Thị Thu), CVCA – đánh giá tác động của
BĐKH (Hà Văn Thắng)…
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình
nêu trên, đề tài của tôi đã vận dụng để giải quyết một nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể -
6
Tổ chức cho HS thực hiện các dự án về BĐKH với sự hỗ trợ của Internet trong dạy
học Địa lí lớp 6 – THCS.
VII. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, chương 1, chương 2, chương 3 và kết luận,
trong đó:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức cho HS thực hiện các
dự án về BĐKH với sự hỗ trợ của Internet trong dạy học Địa lí lớp 6 - THCS
Chương 2: Thiết kế và tổ chức cho HS thực hiện các dự án về BĐKH với sự
hỗ trợ của Internet trong dạy học Địa lí lớp 6 - THCS
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC CHO HỌC SINH
THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA
INTERNET TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 6 - THCS.
I. Quan niệm về biến đổi khí hậu
1. Khái niệm về biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển,
thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên
nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỉ hay
hàng triệu năm. Sự biển đổi có thế là thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự
phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự BĐKH có thế giới hạn
trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện trên toàn Địa Cầu. (nguồn:
)
2. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu
Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.
• Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống
của con người và các sinh vật trên trái đất.
• Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
• Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ
sinh thái và hoạt động của con người.
7
• Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
• Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần
của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
3. Nguyên nhân gây nên hiện tượng biến đổi khí hậu
Nguyên nhân làm cho khí hậu thay đổi được xác định một phần đến từ tự
nhiên nhưng chủ yếu vẫn do con người, cụ thể:
Khí hậu trái đất thường xuyên thay đổi trong quá trình lịch sử địa chất, sau
một chu kì nóng lại là một chu kì lạnh đi có tên là chu kì băng hà. Hiện nay, chúng
ta đang sống trong chu kỳ nóng lên của Trái Đất, bắt đầu khoảng 10 000 năm trước
đây. Nguyên nhân của các thay đổi lớn của khí hậu bao gồm: thay đổi vị trí của Trái
Đất so với Mặt Trời, thay đổi cường độ hoạt động của mặt trời, sự gia tăng hoạt
động của tro bụi và hơi nước
Nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi nhiệt độ của trái đất và các biến đổi
khí hậu kèm theo là sự gia tăng đáng kể lượng khí nhà kính từ các hoạt động của
con người. Việc tăng khí nhà kính sẽ làm tăng hiệu ứng nhà kính, phá vỡ cân bằng
nhiệt, làm tăng nhiệt độ khí quyển Trái Đất và kèm theo đó là làm biến đổi một loạt
những đặc trưng khí hậu khác.
4. Hậu quả của biến đổi khí hậu
• Băng tan và những hệ lụy đi kèm
Khi nhiệt độ Trái Đất tăng lên chịu ảnh hưởng đầu tiên sẽ là những vùng có
khí hậu lạnh, ở Bắc Cực băng sẽ tan chảy, diện tích băng hà và băng vĩnh cửu sẽ bị
thu hẹp.Tan băng sẽ làm cho mực nước biển dâng cao gây ngập lụt những vùng đất
thấp và các đảo nhỏ trên biển. Hậu quả là, diện tích và không gian sinh tồn của cả
sinh vật và con người đều bị thu hẹp. Xâm nhập mặn sẽ vào sâu trong đất liền làm
suy thoái diện tích đất canh tác màu mỡ ở các vùng hạ lưu các sông lớn. Sóng thần,
động đất, dòng hải lưu biến đổi, hiện tượng El nino, La nina…cũng là những hậu
quả tai hại do nhiệt độ tăng và nước biển dâng.
• Thời tiết cực đoan không ngừng gia tăng
Những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt lội, hay khô hạn là hậu quả
của BĐKH mà nhiều người phải trực tiếp chịu đựng.Thiên tai trong năm 2008 cướp
đi mạng sống của 220.000 người và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành
năm đáng sợ nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất về người và của. Bão
8
Nagis đánh vào Mianma tháng 5/2008 là thảm họa thiên nhiên khốc liệt nhất, giết
chết hơn 135.000 người và đẩy hơn 1 triệu người vào cảnh không nhà cửa. Chỉ vài
ngày sau một cơn địa chấn ở Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã khiến hơn 70.000 người
chết, 18000 người mất tích và gần 5 triệu người mất nhà cửa.
• Biến đổi khí hậu làm suy giảm đa dạng sinh học
Sự tăng lên của nhiệt độ trái đất cùng với sự tăng lên của hàm lượng C0
2
sẽ
làm thay đổi cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái, cũng như sự tương tác sinh
thái của các loài và giới hạn địa lí của chúng, cuối cùng để lại hậu quả tiêu cực cho
đa dạng sinh học. BĐKH làm biến động vùng phân bố của các loài sinh vật. BĐKH
đã buộc các sinh vật phải thay đổi để thích nghi với môi trường sống bằng cách thay
đổi chu kỳ sinh trưởng hoặc phát triển đặc điểm thích nghi mới trên cơ thể. Những
loài không có khả năng thích nghi với những BĐKH có nguy cơ bị tuyệt chủng.
• Nông nghiệp và an toàn lương thực
BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và qua đó lương thực
cho nhân loại – kết quả là nạn đói ngày càng trầm trọng.
Trái Đất nóng lên sẽ tác động mạnh mẽ hơn đến những vùng có khí hậu nhiệt
đới hay những vùng hiện nay đất đai đã bị khô (phần lớn là các nước nghèo châu
Phi, châu Á…) các sa mạc sẽ được mở trên diện rộng, đồng thời mực nước biển
dâng do băng tan chảy sẽ nhấn chìm những vùng đất duyên hải, khiến một diện tích
lớn đất nông nghiệp bị mất. BĐKH không chỉ thu hẹp đất canh tác mà còn làm suy
giảm năng suất nông nghiệp.
• Dịch bệnh gia tăng
Trong thời gian qua các loại bệnh dịch gia tăng như sốt rét, sốt Dengua, tiêu
chảy… có xu hường gia tăng. Và mới đây nhất là sự xuất hiện của những căn bệnh
lạ như cúm gà H5N1, cúm lợn H1N1…đang làm cho nhân loại điêu đứng.Vậy, có
mỗi liên hệ gì giữa gia tăng dịch bệnh và BĐKH ? Bệnh tật dưới tác động của
BĐKH là 1 quá trình liên quan với nhau, thông qua nhiều cơ chế tác động mà khâu
cuối cùng là nguyên nhân gây bệnh dẫn đến ốm đau và tử vong cho con người.
5. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
BĐKH gây ra những hậu quả nặng nề với sự phát triển KT – XH với tất cả
các nước và khu vực. Trong cuộc chiến với BĐKH không một ai có thể đứng ngoài
cuộc. Để giảm nhẹ những thiệt hại nặng nề do BĐKH gây ra người ta nghiên cứu áp
dụng tổng hợp các biện pháp hướng tới sống chung với BĐKH với nhận thức
9
BĐKH là một quá trình không thể đảo ngược. Chúng ta chỉ có thể giảm nhẹ chúng
và nỗ lực thích ứng với chúng. Vì vậy hướng đi chính hiện nay là nghiên cứu áp
dụng những biện pháp phù hợp với tình hình và khả năng của mỗi đối tượng, mỗi
ngành, mỗi cộng đồng trong từng thời điểm sao cho giảm được sự tổn thương do
BĐKH.
Giảm nhẹ – loại trừ nguyên nhân gây BĐKH bằng cách giảm phát thải khí
nhà kính
Thích ứng – tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu được giảm xuống bằng
các biện pháp giảm thiểu những mặt trái của chúng
5.1. Các giải pháp cắt giảm phát thải khí nhà kính vào bầu khí quyển
Trước hết, cần áp dụng công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính trong một
số lĩnh vực cụ thể như cung cấp năng lượng, giao thông, xây dựng, công nghiệp,
nông nghiệp, lâm nghiệp, phế thải…
Tiếp đó, cần có các chính sách và công cụ giảm nhẹ BĐKH như:
• Lồng ghép chính sách khí hậu trong các chính sách phát triển một cách rộng
rãi để dễ dàng thực hiện và khắc phục trở ngại.
• Ban hành những quy chế và tiêu chuẩn để đảm bảo rằng việc phát thải khí
nhà kính được duy trì ở mức cho phép.
• Thực hiện đánh thuế cacbon, tức là thuế đánh vào lượng các-bon có trong
nhiên liệu, mà chính xác là vào lượng khí thải C0
2
từ quá trình đốt nhiên liệu
chứa các-bon.
• Sử dụng các biện pháp kích thích tài chính để khuyến khích sự phát triển và
phổ biến công nghệ mới.
5.2. Các giải pháp thích ứng với tác động của BĐKH
Để thích ứng có hiệu quả với BĐKH trong mỗi một lĩnh vực cần thiết phải
xây dựng hệ thống giải pháp cụ thể, đặc trưng. Dưới đây đề cập đến một số giải
pháp trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên nước, nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản…
Hộp thông tin số 1.1
Các giải pháp thích ứng với BĐKH
Năng lượng và giao thông vận tải
10
Xây dựng các kế hoạch phát triển năng lượng và giao thông vận tải có tính đến các yếu
tố của BĐKH
Nâng cấp và cải tạo các công trình giao thông vận tải ở những vùng thường bị đe dọa
bởi lũ lụt và nước biển dâng.
Bảo đảm quản lý nhu cầu năng lượng trên cơ sở hiệu suất năng lượng cao, sử dụng tiết
kiệm và hợp lý năng lượng.
Sử dụng năng lượng tái tạo giảm lệ thuộc vào nguồn năng lượng duy nhất.
Tài nguyên nước
Sử dụng nguồn nước khoa học và hợp lý
Khai thác đi đôi với duy trì và bảo vệ nguồn nước
Đầu tư nghiên cứu dự báo dài hạn tài nguyên nước
Nâng cao hiệu quả sử dụng nước, tái sử dụng, chống mặn hóa.
Nâng cấp và mở rộng quy mô các công trình tiêu úng
Kiềm chế tốc độ tăng dân số và quy hoạch khu dân cư ven biển
Nông nghiệp
Xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp
Tăng cường hệ thống tưới tiêu cho nông nghiệp
Phát triển các giống cây chịu được điều kiện ngoại cảnh khắc nghiệt
Bảo tồn các giống cây trồng địa phương, thành lập các ngân hàng giống.
Xây dựng các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp với BĐKH, chuẩn xác hóa thời vụ
gieo trồng.
Cải tiến quản lý, sử dụng đất
Dự trữ lương thực cho những vùng nhạy cảm
Lâm nghiệp
Tăng cường trồng rừng, trước hết là rừng đầu nguồn
Bảo vệ rừng tự nhiên tiến tới đóng cửa khai thác rừng tự nhiên, phòng chống cháy rừng
Thành lập ngân hàng cây rừng tự nhiên nhằm bảo vệ một số giống cây rừng quý hiếm.
Tăng cường hiệu suất sử dụng gỗ và kiềm chế sử dụng nguyên liệu gỗ.
Thủy sản
Chuyển đổi cơ cấu canh tác ở một số vùng ngập nước từ đơn thuần lúa sang luân canh
nuôi cá và cấy lúa.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, bến bãi neo đậu của tàu thuyền có tính đến mực nước biển
tăng.
Xây dựng các tuyến đê quai phía trong tạo thành vùng đệm giữa các vùng canh tác
nông nghiệp và biển
Xây dựng hệ thống phòng tránh bão dọc biển cũng như các tuyến đảo
Thiết lập các khu bảo tồn sinh thái tự nhiên, đặc biệt là vùng rạn và đảo san hô
Vùng ven biển
Bảo vệ đầy đủ: Bảo vệ toàn diện để bảo vệ hiện trạng, đối phó có hiệu quả với nước
biển dâng
Thích nghi: Cải tạo cơ sở hạ tầng và chuyển đổi tập quán sinh hoạt cảu dân cư ven bờ
để thích nghi với nước biển dâng.
Rút lui: Né tránh tác động tự nhiên của nước biển dâng bằng tái định cư, di dời nhà cửa,
cơ sở hạ tầng ra khỏi những vùng khó khăn nguy hiểm.
Xây dựng và củng cố đê biển ở những nơi thiết yế
Y tế và sức khỏe
Xây dựng kế hoạch và chương trình nhằm kiểm soát và giám sát y tế ở những vùng có
11
nguy cơ lây nhiễm cao.
Nâng cao nhận thức vệ sinh và văn hóa gia đình thông qua các chương trình nước sạch,
VAC, biogas, xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao hiểu
biết, nhận thức về sức khỏe môi trường do tác động của BĐKH.
Thiết lập nhiều khu vực xanh – sạch – đẹp
Dự trữ thuốc và chất diệt khuẩn ở những nơi nhạy cảm
Đề phòng sự lây nhiêm và truyền bệnh từ bên ngoài
Tiêu dùng bền vững
Tiêu dùng tiết kiệm: tiết kiệm năng lượng, nước, nguyên liệu
Sử dụng những sản phẩm, hàng hóa thân thiện với môi trường,
Sử dụng tối đa giá trị sử dụng của hàng hóa
Tái chế, tái sử dụng hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng
5.3. Truyền thông và giáo dục về BĐKH
Hoạt động ứng phó với BĐKH đang và sẽ phải đối mặt giải quyết các mâu
thuẫn trong suy nghĩ, thái độ, hành vi về sinh hoạt, sản xuất, môi trường giữa các
nhóm đối tượng khác nhau, giữa người này với người khác, và ngay cả trong bản
thân của một con người. Với thực trạng này, truyền thông cần và phải được xem
như là một công cụ quan trọng, cơ bản tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay
đổi thái độ, hành vi của con người trong cộng đồng từ đó thúc đẩy họ tự nguyện
tham gia vào các hoạt động thích ứng, giảm nhẹ BĐKH từ đơn giản nhất đến phức
tạp nhất, và không những chỉ tự mình tham gia mà còn lôi cuốn những người khác
cùng tham gia tạo ra các kết quả có tính đại chúng
5.3.1. Mục đích chung của truyền thông về BĐKH
Thông tin và thu hút cộng đồng tham gia vào quá trình chia sẻ thông tin
nhằm tạo ra sự hiểu biết chung, nhận thức chung về BĐKH – thực trạng, tác động,
hiểm họa tiềm tàng, nguyên nhân, giải pháp cần thiết để thích ứng và giảm nhẹ, từ
đó cùng chia sẻ trách nhiệm và thống nhất hành động theo một hướng chung trong
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến BĐKH. Mục đích chung của truyền thông
về BĐKH là:
• Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết của cộng đồng tham gia vào
các hoạt động, chương trình, dự án nhằm ứng phó với BĐKH.
• Bảo đảm phụ nữ và nam giới được thu hút bình đẳng trong quá trình chia sẻ
thông tin, đóng góp ý kiến, bởi phụ nữ và nam giới có kinh nghiệm khác
nhau do vai trò giới của họ không giống nhau.
12
• Tạo đối thoại thường xuyên trong xã hội để thúc đẩy việc thay đổi các hành
vi thích hợp và có hiệu quả với BĐKH.
Các hoạt động truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức, làm thay đổi hành
vi con người ( Đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng, rèn luyện khả năng sẵn sàng
thay đổi thói quen và phong tục…) là biện pháp thích ứng với BĐKH.
5.3.2. Chủ đề truyền thông về BĐKH hiện nay
Xác định một số chủ đề trọng tâm cần truyền thông về BĐKH như:
• Tác động của BĐKH tới kinh kế, giáo dục, sức khỏe của con người
• Mối quan hệ giữa đô thị hóa và BĐKH
• Các biện pháp giảm nhẹ BĐKH
• Cùng nhau liên kết để ứng phó với BĐKH
• Vai trò của rừng trong ứng phó với BĐKH
• Và nhiều chủ đề khác
Tóm lại, Khi tổ chức cho HS thực hiện các dự án về BĐKH, yêu cầu
quan trọng đầu tiên đối với GV là phải có kiến thức về BĐKH. GV cần nắm
vững khái niệm BĐKH, biểu hiện, nguyên nhân, hậu quả và những giải pháp
cụ thể để ứng phó và thích nghi. Trên cơ sở những hiểu biết đó GV sẽ tìm ra
những kiến thức BĐKH liên quan đến nội dung môn học của mình để có
hướng tích hợp hiệu quả. Quan trọng hơn, GV nên lựa chọn những kiến thức
BĐKH gắn liền với những vấn đề đang diễn ra tại địa phương mà HS đang
học tập và sinh sống. Ý tưởng về các dự án học tập thú vị, độc đáo và có giá trị
thường xuất phát từ những vấn đề mang tính thực tiễn. Truyền thông cũng là
một giải pháp giáo dục có tác động to lớn trong việc thay đổi nhận thức của
người dân về BĐKH. Nhà trường là một bộ phận của xã hội. Quan điểm của
GDPTBV không giới hạn phạm vi giáo dục trong hay ngoài nhà trường, chính
quy hoặc phi chính quy. Vì thế, GV cũng phải biết những phương pháp truyền
thông, tiếp đến bồi dưỡng cho HS cách thức truyền thông trong gia đình và
cộng đồng thông qua đó thay đổi nhận thức của nhiều người.
II. Giáo dục vì sự phát triển bền vững và giáo dục về biến đổi khí hậu trong
nhà trường phổ thông
1. GDPTBV trong nhà trường phổ thông
1.1. Khái niệm về GDPTBV
Khái niệm GDPTBV được lần đầu tiên nhắc đến trong báo cáo Brundland
(1987), nhưng phải đến năm 2002 tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV và
13
Nghị quyết của Liên hợp Quốc về, Thập kỉ Giáo dục Phát triển Bền vững (từ 2005
đến 2014) khái niệm này mới chính thức công bố rộng rãi.
“ GDPTBV là xu hướng phát triển mới của nền giáo dục hiện đại coi trọng
quá trình giải thích và thông hiểu ý nghĩa của PTBV. Quá trình này khuyến khích
người học chủ động cam kết với những mục tiêu PTBV để xây dựng một nếp sống
biết cách tiêu dùng các nguồn lực một cách công bằng và lâu bền.,(theo
– Chính sách giáo dục toàn cầu)“
Mục tiêu của GDPTBV là đưa con người vào vị trí mà nó có thể đóng vai
trò tích cực trong việc tạo ra một hiệu quả bền vững về mặt sinh thái, kinh tế và
tạo nên một môi trường xã hội công bằng. Bằng cách sử dụng những tình huống,
những phương pháp và cấu trúc học tập thích hợp, GDPTBV có nhiệm vụ đổi mới
quá trình học tập ở tất cả khu vực giáo dục mà nó giúp cho các cá nhân chiếm lĩnh
được các kĩ năng phân tích, đánh giá và năng lực hành động mà PTBV đòi hỏi
(FMER,2002, p 4).
Với tư cách là một trào lưu cải cách giáo dục hiện đại theo những định
hướng của sự PTBV, GDPTBV có những đặc trưng cơ bản sau đây:
• GDPTBV xuất phát và phấn đấu vì mục tiêu PTBV của cá nhân, cộng đồng
và xã hội
• GDPTBV là nền giáo dục cho và có ý nghĩa với tất cả mọi ng ười
• GDPTBV là nền giáo dục hiện đại có tính nhất liên môn, liên ngành
• GDPTBV là giáo dục hiện đại theo đuổi mục tiêu xây dựng và phát triển các
năng lực PTBV cho các cá nhân và các cộng đồng.
• GDPTBV liên kết chặt chẽ và phù hợp môi trường và văn hoá địa phương
Các chủ đề quan trọng của GDPTBV là quyền con người, hoà bình, an ninh,
bình đẳng giới, đa dạng về văn hoá, sức khoẻ, HIV/AIDS, các thể chế, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sự thay đổi khí hậu, phát triển nông thôn, đô thị hoá bền vững,
ngăn chặn và giảm nhẹ thiên tai, xoá bỏ đói nghèo, tinh thần và trách nhiệm, kinh tế
thị trường.
GDPTBV là nền giáo dục vì mọi người, diễn ra ở mọi địa điểm và với nhiều
hình thức học tập khác nhau: chính quy, không chính quy. GDPTBV đòi hỏi sự tiếp
cận giáo dục đổi mới, từ chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm và kiểm tra
đánh giá. Các hình thức học tập bao gồm học tập chính quy, không chính quy, học
14
tập ở nơi làm việc, ở các cơ sở đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo giáo viên và
cả ở các tổ chức cộng đồng và xã hội dân sự địa phương.
1.2. Tổ chức GDPTBV trong nhà trường phổ thông
Tất cả các môn học ở trong trường phổ thông đều có cơ hội và khả năng
tham gia tích cực vào GDPTBV không chỉ là những môn có nhiêu ưu thế. Điều này
xuất phát từ khái niệm GDPTBV có nội hàm rộng không chỉ giới hạn ở giáo dục
môi trường mà liên quan đến việc giáo dục kinh tế và xã hội theo định hướng
PTBV. Sự cần thiết phải tăng cường GDPTBV còn xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.
Mặc dù GDPTBV đã ra đời từ lâu nhưng ở không ít nước trên thế giới lĩnh vực này
vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng.
Việc tổ chức GDPTBV trong nhà trường phổ thông cần đi theo những định
hướng cơ bản, tuân thủ những nguyên tắc và những cách tiếp cận sau:
Hộp thông tin 1.2
Những định hướng, nguyên tắc, tiếp cận GDPTBV trong nhà trường phổ PT
Định hướng
• Giúp HS có được những kiến thức cần thiết về PTBV đồng thời GV giúp HS nhận
thức được những những vấn đề của PTBV
• Hình thành và phát triển ở HS những kĩ năng cần thiết để sống một cách bền vững
• Giúp HS thấy được những triển vọng của sự PTBV.
• Hình thành ở HS những giá trị của PTBV
Nguyên tắc
• Phát triển tư duy hệ thống
• Liên kết các nội dung mặt xã hội, sinh thái và kinh tế trong một thể thống nhất
• Dạy học theo quan điểm định hướng hành động
Cách tiếp cận
• Tiếp cận liên môn.
• Tiếp cận tích hợp và lồng ghép
• Tiếp cận văn hóa
• Tiếp cận quá trình
• Tiếp cận trải nghiệm
• Tiếp cận khoa học
• Tiếp cận công nghệ
1.3. GDBĐKH theo quan điểm GDPTBV
15
Như đã trình bày ở trên, GDPTBV có 15 nội dung thuộc ba lĩnh vực, trong
đó thay đổi khí hậu hay BĐKH là một nội dung quan trọng. Với tư cách là một bộ
phận của GDPTBV, GDBĐKH cần đi theo những định hướng, cách tiệp cận của
GDPTBV, tuân thủ những nguyên tắc của GDPTBV. Những vấn đề cơ bản của
GDBĐKH theo định hướng GDPTBV gồm:
• GDBĐKH cần cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về BĐKH, hình
thành kĩ năng và năng lực để họ có thể ứng phó có hiệu quả với những tác động do
BĐKH gây ra. Chỉ ra được bản chất và những vấn đề mấu chốt của nội dung
BĐKH. GDBĐKH không làm cho người học hoang mang, lo lắng, trái lại cần tạo
cho họ tâm thế sẵn sàng đối phó với những thay đổi bất thường của khí hậu.
• GDBĐKH chú ý đến nhiều đối tượng trong cộng đồng. Bởi vì hậu quả do
BĐKH gây ra sẽ tác động không giống nhau ở những cộng đồng dân cư khác nhau.
Những đối tượng cần được ưu tiên là người nghèo, phụ nữ, trẻ em và HS ở những
vùng khó khăn, những vùng chịu tác động của thiên tai, ven biển, miền núi
• Cần thiết phải đưa GDBĐKH vào cộng đồng và không nên chỉ hạnn chế nó
trong hệ thống giáo dục chính quy. Cần phải lựa chọn những nội dung của BĐKH
phù hợp nhất với tình hình thực tế của địa phương để giáo dục. Quá trình
GDBĐKH, kiến thức, kinh nghiệm của người học được sử dụng để xây dựng năng
lực ứng phó với BĐKH tại chính nơi họ đang sống.
• Giáo dục BĐKH cần tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để người học được
tham gia tích cực vào quá trình hành động, quá trình ra quyết định đối với những
vấn đề BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của bản thân, gia đình và cộng đồng.
• Cần xây dựng các mạng lưới khoa học, giáo dục và truyền thông về BĐKH
trên bình diện quốc gia và quốc tế. Ở đó gắn kết những nhà khoa học, những nhà
giáo dục, những người làm công tác xã hội từ nhiều tổ chức nhiều, quốc gia khác
nhau cùng chung tay bảo vệ khí hậu. GDBĐKH cần tư duy mang tính toàn cầu và
hành động gắn với địa phương.
Tóm lại, GDBĐKH là một trọng tâm của GDPTBV. Bởi vì BĐKH ảnh
hưởng đến tất cả nhưng lĩnh vực còn lại trong nội dung PTBV, không chỉ là môi
trường mà còn cả kinh tế và xã hội. Tổ chức GDBĐKH sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả giáo dục trên nhiều phương diện khác nhau. Điều này góp phần thực hiện
16
nguyên tắc liên môn, liên ngành trong GDPTBV. GDBĐKH hướng đến những giá
trị, thay đổi hành vi, hình thành năng lực cho người học, chính vì thế mà phương
pháp dự án là phương pháp thích hợp. Trong DHDA ứng dụng CNTT & TT là một
trong những yêu cầu cơ bản để chắc chắn rằng phương pháp này sẽ phát huy hiệu
quả tối đa. Hơn thế nữa, CNTT đặc biệt là Internet đảm bảo việc thực hiện tốt các
nguyên tắc của GDPTBV là giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc và cho tất cả mọi người.
2. GDBĐKH trong nhà trường phổ thông
2.1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đưa GDBĐKH vào nhà trường phổ thông.
Đưa giáo dục BĐKH vào nhà trường phổ thông là nhiệm cấp bách và có ý
nghĩa cũng như tầm quan trọng đặc biệt bởi những lí do sau:
BĐKH đã trở thành một trong những nguy cơ và thách thức lớn nhất của thời
đại chúng ta. Hơn thế, Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị đe dọa và sẽ chịu những
hậu quả nặng nề nhất khi mực nước biển không ngừng tăng lên. Chính vì lẽ đó nhận
thức được sâu sắc vấn đề BĐKH (nguyên nhân, hậu quả và giải pháp ứng phó) là
hết sức cần thiết đối với tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, mọi thành phần dân cư…để
có các hành động cụ thể thích ứng với BĐKH toàn cầu. Nhà trường phổ thông với
sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; với mạng lưới rộng
khắp đất nước, với hệ thống chương trình, nội dung, kế hoạch và phương pháp giáo
dục; với đội ngũ hùng hậu của những người làm công tác giáo dục đóng một vai trò
to lớn và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến việc nâng cao nhận thức về BĐKH cho HS.
Giáo dục trong nhà trường đóng vai trò quyết định đối với việc hình thành tư
cách công dân, cách ứng xử đối với xã hội, đối với môi trường, trong đó có cách
ứng xử trước hiện tượng BĐKH của mỗi cá nhân. Một khi HS có được những hiểu
biết về hiện tượng BĐKH, nguyên nhân cũng như tác động trực tiếp của nó đối với
cuộc sống của người dân, với sự tồn vong của đất nước, nhân loại, thì trong mọi
hành động các em sẽ cân nhắc để hạn chế nguy cơ dẫn đến BDKH, chọn lối sống
thân thiện với môi trường vì mục tiêu PTBV. Giáo dục là một trong những biện
pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực
hiện mục tiêu bảo vệ môi trường cũng như mục tiêu của giáo dục về BĐKH.
Việt Nam đã có chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và đang
được triển khai sâu rộng. Tuy nhiên chúng ta lại còn thiếu các chương trình giáo
17
dục phổ thông về bảo vệ khí hậu và BĐKH có chất lượng và có tác động mạnh đến
HS. Trước thực trạng trên, đưa GDBĐKH vào chương trình phổ thông và thực một
cách có hiệu quả là nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết.
2.2. Mục tiêu của việc tiến hành GDBĐKH trong nhà trường phổ thông
GDBĐKH là một bộ phận của GDPTBV, chính vì vậy giáo dục về BĐKH vì
sự PTBV được xem là mục tiêu cao nhất. GDBĐKH không đơn thuần là dạy học về
BĐKH mà thông qua các hoạt động đa dạng của mình phát triển ở người học nhận
thức và năng lực ứng phó với BĐKH, đồng thời giúp cho người học có được những
hành vi thái độ bảo vệ theo những định hướng cơ bản của GDPTBV. Giáo dục
BĐKH không nên và không cần thiết làm cho người học hoảng sợ, bi quan về tương
lai với những rủi ro và tác động tiêu cực của BĐKH mà cần thiết phải giúp cho HS
vững tin về triển vọng tốt đẹp của bảo vệ khí hậu và thích ứng thành công với
BĐKH trong tương lai. Vì vậy nững mục tiêu và định hướng cơ bản của GDBĐKH
cần phải là:
• Giúp người học quan tâm đến vấn đề bảo vệ khí hậu, hiểu rõ nguyên nhân,
hậu quả của BĐKH: Những nguyên nhân của BĐKH do con người gây ra, liên
quan đến các hoạt động của con người, nên nguyên nhân và hậu quả của BĐKH cần
được xác định và làm sáng tỏ. Chương trình GDBĐKH có thể và cần giúp cho
người học nhận dạng và hiểu rõ các nguyên nhân của BDKH cũng như những khả
năng tổn thương mà cá nhân hay cộng đồng sẽ phải gánh chịu khi BĐKH xảy ra
nhằm hạn chế, giảm thiểu với nó.
• Giúp người học tiếp cận được với những giải pháp bảo vệ và ứng phó với
BĐKH toàn cầu đặc biệt tại địa phương: Không nên chỉ dừng lại ở việc tiếp cận và
định hướng nguyên nhân và hậu quả, thông qua các hoạt động đa dạng của mình,
GDBĐKH cần chia sẻ, chuyển giao, cung cấp những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ
và ứng phó với BĐKH. Đó là các giải pháp: sử dụng hiệu quả năng lượng, sử dụng
năng lượng tái sinh, tạo ra sự thay đổi trong lối sống, sinh hoạt…
GDBĐKH cần được đổi mới và chuyển hóa theo những định hướng cơ bản
sau đây:
• Phát triển năng lực hành động: Phát triển năng lực hành động ứng phó với
BĐKH chứ không đơn giản là kiến thức, kĩ năng liên quan đến BĐKH, đó mới là
18
mục tiêu đích thực của GDBĐKH. Mục tiêu này sẽ đạt được nếu coi trọng yếu tố
động cơ, niềm tin cá nhân trong việc hình thành năng lực hành động và được thiết
kế, triển khai thực hiện băng tiếp cận liên môn nhằm làm cho việc học tập trở nên
sống động hơn, cụ thể hơn và người học có nhiều cơ hội để trải nghiệm và tiếp cận
nhiều hơn với thực tiễn sinh động của cuộc sống.
• Thay đổi hành vi – thái độ: Đây được xem là nội dung và mục tiêu hàng đầu
của GDBĐKH. Sự thay đổi trong kiến thức, kĩ năng cần phải dẫn tới sự thay đổi
hành vi – thái độ của người học theo những định hướng của PTBV. GDBĐKH sẽ
thành công khi làm cho cá nhân và cộng đồng quan tâm hơn đến vấn đề BĐKH, có
những hành vi và thái độ tích cực để bảo vệ khí hậu và sẵn sàng ứng phó với những
thách thức của BĐKH.
• Tăng cường các giá trị và sáng tạo: Trở thành công dân toàn cầu, quan tâm
đến các cộng đồng dân cư bị thiệt thòi do BĐKH, tích cực tuyên truyền và thực hiện
bảo vệ khí hậu, thân thiện và làm bạn với môi trường…được xem là những giá trị
cần được khuyến khích khi tiến hành GDBĐKH.
2.3. Nguyên tắc GDBĐKH trong nhà trường phổ thông.
GDBĐKH trong nhà trường phổ thông Việt Nam cần đảm bảo các nguyên
tắc sau:
• Đảm bảo mục tiêu GDBĐKH phải phù hợp với mục tiêu giáo dục của cấp
học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung.
• Hướng giáo dục về BĐKH tới việc cung cấp cho HS những kiến thức liên
quan đến BĐKH và những kĩ năng ứng phó với những thiên tai do BĐKH gây ra,
phù hợp với tâm, sinh lí từng lứa tuổi.
• Nội dung GDBĐKH phải chú trọng các vấn đề thực tiễn, gắn với địa
phương, đất nước, trên cơ sở đó hình thành các kĩ năng, phương pháp hành động
cụ thể để HS có thể tham gia có hiệu quả vào các hoạt động phòng chống thiên tai
do BĐKH gây ra ở địa phương, đất nước phù hợp với lứa tuổi HS.
• Phương pháp GDBĐKH đảm bảo tạo điều kiện cho HS chủ động tham gia
vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em phát hiện các vấn đề liên quan đến
BĐKH và tìm hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của GV.
• Tận dụng các cơ hội để GDBĐKH nhưng phải đảm bảo kiến thức cơ bản
của môn học, tính logic của nội dung và không làm quá tải lượng kiến thức và
tăng thời gian của bài học.
19
2.4. Nội dung của GDBĐKH trong nhà trường phổ thông.
Việc lựa chọn những nội dung GDBĐKH để đưa vào chương trình giáo dục
phổ thông phải dựa trên những kiến thức khoa học về BĐKH, xuất phát từ mục tiêu
giáo dục, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc dạy học. Những nội dung đó bao gồm:
• Thực trạng của BĐKH trên phạm vi toàn cầu, khu vực, quốc gia và địa
phương.
• Tác động và hậu quả của BĐKH trên phạm vi toàn cầu, quốc gia và khu
vực - địa phương (trước mắt và tương lai)
• Nguyên nhân của sự BĐKH, đặc biệt là những nguyên nhân do con người
tạo ra, như phát thải khí nhà kính gây nên sự ấm lên toàn cầu…
• Những biện pháp hạn chế tác nhân gây nên BĐKH trên phạm vi toàn cầu,
quốc gia và địa phương, biện pháp hành chính (chính sách), biện pháp kỹ thuật…
• Ứng phó trước tác động của BĐKH ở Việt Nam: phòng chống ngập lụt ở
đồng bằng châu thổ và vùng ven biển, sạt lở đất vùng ven biển; lũ và sạt lở đất ở
vùng núi…
• Những kĩ năng cần thiết ứng phó với thiên tai do BĐKH gây nên ở địa
phương (kĩ năng cụ thể phòng chống lũ, lụt, sạt lở đất, bão
2.5. Các phương pháp GDBĐKH trong nhà trường phổ thông.
2.5.1. GDBĐKH trong các giờ học ở trên lớp
GDBĐKH trong nhà trường phổ thông, trong các giờ trên lớp được thực hiện
bằng phương thức tích hợp những nội dung liên quan vào một số môn học. Việc
tích hợp GDBĐKH được triển khai ở ba mức độ sau đây:
• Mức độ toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học hoặc của chương
trong sách giáo khoa môn học phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của
GDBĐKH.
• Mức độ bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu và nội dung của
GDBĐKH.
• Mức độ liên hệ: Bài học có điều kiện liên hệ một cách lôgic với các kiến
thức, các vấn đề của GDBĐKH.
Trong phương thức này các phương pháp thường được sử dụng là: Giảng
giải/giải thích - minh hoạ, phương pháp thảo luận, phương pháp đóng vai,
phương pháp tình huống, phương pháp trò chơi, phương pháp thí nghiệm, phương
pháp dự án
2.5.2. GDBĐKH thông qua các hoạt động ngoại khóa
20
Hoạt động GDBĐKH không nên và không chỉ hạn chế trong các giờ học ở
trên lớp mà con phải thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa.
Ngoại khóa là hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp, không quy định bắt buộc
trong chương trình, hoạt động dựa trên sự tự nguyện tham gia của một số hay số
đông HS có hứng thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi, sáng tạo, dưới sự
hướng dẫn của GV. Nội dung hoạt động ngoại khóa thường liên quan với nội dung
học tập trong chương trình và phù hợp với hoàn cảnh của địa phương và đặc điểm
tâm sinh lí lứa tuổi của HS tham gia hoạt động này.Là hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, hoạt động ngoại khóa có nhiều ý nghĩa thiết thực đối với việc thực hiện các
mục tiêu dạy học, đặc biệt là mục tiêu về kĩ năng và thái độ. Thông qua sự tham gia
tích cực vào các hoạt động ngoại khóa, người học biết vận dụng những tri thức đã
học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đời sống đặt ra, biết điều chỉnh hành vi,
đạo đức, lối sống cho phù hợp, biết nắm bắt những vấn đề nóng bỏng của thời đại.
Bằng cách đó, người học rèn luyện cho mình những kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng
xử có văn hóa, những thói quen trong học tập, lao động, kĩ năng tổ chức, kĩ năng
hoạt động nhóm…Với những khả năng trên, việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa
có tác dụng rất lớn trong giáo dục về ĐBKH ở nhà trường phổ thông.
Hộp thông tin số 1.3
Các hình thức hoạt động ngoại khóa GDBĐKH
Ngoại khóa nhận thức
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BĐKH
Tổ chức thi sáng tác văn thơ, thi hung biện, thi vẽ tranh…về chủ đề BĐKH
Tổ chức các cuộc nói chuyện, giao lưu, với chuyên gia về BĐKH
Tổ chức triển lãm, chiếu phim về BĐKH
Ngoại khóa truyền thông
Tổ chức các cuộc thi sáng tạo các ấn phẩm truyền thông về BĐKH.
Tổ chức tập huấn và thi cán bộ truyền thông về BĐKH
Xây dựng các câu lạc bộ, đội, nhóm hành động vì BĐKH
Xây dựng trang thông tin định kì và bảng tin về BĐKH.
Ngoại khóa hành động
Tham quan tìm hiểu tình hình BĐKH tại địa phương
Các chiến dịch làm sạch môi trường học đường và địa phương
Nghiên cứu các giải pháp, thu gom, phân loại và tái chế rác, tiết kiệm năng lượng,
Giúp đỡ nhân dân địa phương trồng, chăm sóc rừng, cải tạo đất đai, nguồn nước
Tổ chức quyên góp vật phẩm ủng hộ các địa phương chịu tác động của thiên tai.
Tổ chức các buổi giao lưu, thi đấu thể thao hưởng ứng phòng trào hành động vì BĐKH
Tổ chức các sự kiện hưởng ứng các ngày liên quan đến môi trường, BĐKH
21
III. GDBĐKH cho HS THCS thông qua môn Địa lí và phương pháp DHDA
với sự hỗ trợ của Internet.
1. Phương pháp dạy học dựa trên dự án
1.1. Khái niệm dạy học dự án
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án. DHDA
được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án, có
nhiều phương pháp cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên khi không phân biệt rạch ròi
giữa hình thức và phương pháp dạy học, người ta có thể gọi nó là phương pháp dự
án, nhưng trong trường hợp này cần hiểu đó là phương pháp dạy học theo nghĩa
rộng, một phương pháp dạy học phức hợp.
Có thể hiểu dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó người
học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực
hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích,
lập kế họach, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và
kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA.
Định nghĩa này được tôi chính thức sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài
của mình.
1.2. Những đặc trưng quan trọng của dự án
Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các
nhà sư phạm Mỹ đầu thế kỷ 20 khi xác lập cơ sở lý thuyết cho phương pháp này đã
nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của DHDA: định hướng HS, định hướng thực tiễn và định
hướng sản phẩm.
Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của
thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Các dự án học
tập, nhờ đó góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã
hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại
những tác động xã hội tích cực.
Định hướng người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù
hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết
hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn,
thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như
22
rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học. Trong DHDA,
người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học.
Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học.
Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm
việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và
rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia,
giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án
Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được
tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà
trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt
động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
Từ những đặc trưng nêu trên, chúng ta thấy DHDA là phương pháp có rất
nhiều ưu điểm, cụ thể là:
• Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội;
• Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học;
• Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm;
• Phát triển khả năng sáng tạo;
• Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp;
• Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn;
• Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc;
• Phát triển năng lực đánh giá.
Tuy vậy, phương pháp này cũng còn một số hạn chế nhất định:
• DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lí thuyết mang tính
trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kĩ năng cơ bản;
• DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho
phương pháp thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung
cần thiết cho các phương pháp truyền thống.
• DHDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
1.3. Các hình thức cơ bản của dạy học theo dự án
DHDA có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sơ đồ dưới
đây trình bày một số cách phân loại DHDA:
23
Hình 1.1: Sơ đồ phân loại dạy học dự án
1.4. Tiến trình tổ chức DHDA
Có nhiều cách xây dựng tiến trình thực hiện dự án khác nhau, nhìn chung có
thể tiến hành theo ba giai đoạn sau:
• Kích thích, dẫn dắt HS đi đến ý tưởng dự án. Cần tạo ra một tình huống
xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó
chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến
hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. GV có thể giới thiệu
một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp,
sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía HS.
• Tổ chức để HS lập và thực hiện kế hoạch dự án. Trong giai đoạn này
những công việc của GV và HS sẽ là:
HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho
việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc
cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công
công việc trong nhóm.
Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá
nhân. Trong giai đoạn này HS thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực
tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức
lí thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. GV luôn
luôn quan sát, hỗ trợ, khuyến khích HS hoàn thành các nhiệm vụ của dự án.
24
• Hỗ trợ HS đánh giá dự án. Đến đây, GV hướng dẫn HS thu thập kết quả
và công bố sản phẩm dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Tổ chức đánh giá
bao gồm việc HS tự đánh giá hoạt động của các em, các nhóm đánh giá lẫn nhau kết
hợp với đánh giá của GV và bên ngoài. Trong DHDA, chú ý nhiều hơn đến đánh
giá quá trình vì vậy giai đoạn này cũng là lúc GV đưa ra những tổng kết cho toàn bộ
tiến trình dự án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong
thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần
được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án khác
nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án
Tóm lại, DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm
dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt động và
quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và
hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm
việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần
trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
2. Sử dụng phương pháp dự án để GDBĐKH trong môn Địa lí ở nhà
trường phổ thông.
Một câu hỏi được đặt ra là: Sử dụng phương pháp DHDA như thế nào trong
môn Địa lí để GDBĐKH đạt hiệu quả cao? Để tìm câu trả lời cần phải phân tích
mối quan hệ giữa 3 yếu tố của quá trình này gồm: GDBĐKH, phương pháp DHDA
và môn Địa lí.
• Trong hệ thống các môn học ở nhà trường phổ thông thì Địa lí là môn có
nhiều ưu thế nhất khi tích hợp kiến thức về GDBĐKH. Bởi, các kiến thức địa lí gắn
liền với kiến thức BĐKH, từ biểu hiện, nguyên nhân cho đến hậu quả đều có thể
làm rõ nhờ kiến thức địa lí tự nhiên và KT – XH. HS cần được cung cấp những kiến
thức cơ bản về Địa lí trước khi các em tìm hiểu về BĐKH. Ví dụ, các em không thể
hiểu được nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính nếu không được học về nhiệt độ
không khí và quá trình cân bằng nhiệt của trái đất, các chất khí nhà kính trong khí
quyển…
25