Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Skkn biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn ngữ văn lớp 9 ở trường thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.58 KB, 32 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở cấp
THCS. Mục tiêu của môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú
trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba
mục tiêu chính sau: Thứ nhất rang bị những kiến thức phổ thơng, cơ bản, hiện đại, có
tính hệ thống về ngơn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam
– phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình thành và phát triển ở học
sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương
pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều
đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học,
văn hóa, tình u gia đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự
cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh
trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tơn trọng và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại”. Việc dạy học môn Ngữ Ngữ văn
cịn là giúp cho học sinh có được những những kỹ năng giao tiếp, sự tự tin trình bày
trước đơng người; giúp các em có bản lĩnh vững vàng, dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ
của mình. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn là vô cùng quan
trọng.
Tuy vậy, trong việc học môn Ngữ văn hiện nay nói chung, nhiều em rất rụt rè
trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ … của mình trước lớp, thiếu chủ
động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chất lượng học tập ở những lớp
đại trà chưa được như mong muốn. Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cơ giáo trong đó có bản thân
chúng tơi ln trăn trở và tìm hướng trả lời.
Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chúng tơi trong q trình dạy
học là nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn trong chương trình dạy học mơn
Ngữ văn lớp 9 ở trường phổ thơng, do đó chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Biện
pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn
lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp".


I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu của đề tài
Chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong
1


giảng dạy phân môn Đọc – Hiểu văn bản thuộc mơn Ngữ văn cấp THCS, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em trong học tập.
b. Nhiệm vụ của đề tài
Trình bày cụ thể những việc cần làm và làm như thế nào để tạo điều kiện cho
học sinh phát triển tư duy sáng tạo, phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tế việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường THCS Buôn
Trấp. Đặc biệt là việc dạy và học môn Ngữ văn ở học sinh lớp 9, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu những biện pháp dạy học tích, việc áp dụng biện pháp dạy học này trong
việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phần Đọc – Hiểu văn bản của
môn Ngữ văn lớp 9.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu viết về các phương pháp dạy
học tích cực, giáo án Ngữ văn của giáo viên.
- Phương pháp điều tra thực tế: thông qua thực tế giảng dạy và các tiết dự giờ
của đồng nghiệp.
- Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ đồng nghiệp, từ học
sinh.
- Phương pháp xử lý thông tin thơng qua đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng
hợp.
II. PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói
chung và vấn đề đổi mới PPDH trong trường trung học nói riêng. Vấn đề này đã được
đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. Đặc biệt,
trong thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 đã
chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ
một chiều. Phát huy PPDH tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm thời gian giảng lý
thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, giáo viên; gắn bó chặt chẽ
giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và
đời sống”.
2


Thực tế cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành cơng khi giáo viên
có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh thần
trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học.
Các chuyên đề về đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ sở cho giáo
viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với đặc
trưng bộ mơn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển và rèn
luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thơng tin, giải
quyết các tình huống, kỹ năng thực hành …
2. Thực trạng
1.2. Thuận lợi, khó khăn
a) Thuận lợi:
- Phịng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong việc
chỉ đạo đổi mới PPDH.
- Trường THCS Bn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ
văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành
một tổ chun mơn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng như

kinh nghiệm giảng dạy bộ môn.
- Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ đã
giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) dài, khó
…), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định.
- Công nghệ thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ của Internet nên việc tìm
hiểu, khai thác thơng tin về lĩnh vực bộ môn, phân môn, bài dạy trên mạng ngày càng
dễ dàng và thuận lợi.
- Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề về đổi mới
PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với mơn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo viên
đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào q trình lên lớp.
b) Khó khăn:
- Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề.
- Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy
định tại PPCT.
- Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học.
- Một số học sinh chưa thật hứng thú với mơn học, cịn có thói quen ỉ lại, dựa
dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.
3


2.2. Thành công, hạn chế
a) Thành công:
Thông qua đàm thoại, sự quan tâm hướng dẫn của giáo viên, kỹ năng nói của
học sinh đã được nâng lên rõ rệt, học sinh tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp; tích
cực, chủ động hơn trong học tập. Một số học sinh yếu trong lớp đã chủ động giơ tay
phát biểu, bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình trước thầy cơ và các bạn trong lớp.
b) Hạn chế:
- Khó kiểm sốt q trình học tập của học sinh (có nhiều tình huống bất ngờ
nảy sinh từ câu trả lời của học sinh), nếu giáo viên không chú ý, giờ học dễ bị chệch
hướng.

- Giáo viên cần phải có sự chuẩn bị công phu, mất nhiều thời gian.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
a) Mặt mạnh: Có thể áp dụng cho nhiều cấp học, lớp học với nhiều đối tượng
học sinh.
Đây là PPDH tích cực đã được nhiều giáo viên áp dụng thành công.
b) Mặt yếu: Giờ học sẽ bị nhàm chán nếu giáo viên khơng biết kết hợp các
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý.
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
a) Nguyên nhân thành công:
- Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong việc
chỉ đạo đổi mới PPDH.
- Bản thân chúng tôi được tham gia nhiều đợt tập huấn về đổi mới PPDH do
ngành tổ chức, đã từng tham gia giảng dạy ở các khối lớp, được làm quen với nhiều
đối tượng học sinh, được nghe rất nhiều tâm sự từ phía CMHS, học sinh … về bộ
mơn.
- Đề tài này đã được áp dụng trong nhiều năm học nên trong q trình vận
dụng đã có sự ghi nhận, đúc rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp với học sinh.
- Có sự cộng lực của các giáo viên dạy Ngữ văn tại trường.
b) Nguyên nhân hạn chế:
- Thời gian đầu tư cho bài soạn còn hạn chế (do quá nhiều công việc cùng phải
làm trong cùng một thời điểm).
- Sử dụng phương pháp này rất cần đến nghệ thuật giao tiếp của giáo viên.
- Một số học sinh chưa thực sự cố gắng trong học tập, thiếu mạnh dạn trong
4


giao tiếp, nhiều khi tỏ ra e dè, không tự tin, ít đầu tư thời gian cho việc chuẩn bị bài ở
nhà.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh học

khá, giỏi mơn Ngữ văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn chiếm tỷ lệ
rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, cịn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong học tập, thụ động
trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế về khả năng diễn đạt, thậm chí có những học
sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho “ngủ yên” để khỏi ảnh
hưởng lớp. Phương pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học
sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động “học là
một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập
của học sinh, dạy học sinh cách tự suy nghĩ, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học,
làm cho khơng khí lớp học sơi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin
của các em, rèn cho các em năng lực diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình,
biết chú ý lắng nghe và hiểu ý diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân
thiện để học sinh có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập
các bạn trong nhóm, cùng các bạn trong nhóm hồn thành nhiệm vụ được giao.
Thơng qua đàm thoại, dạy học tích cực, giáo viên sẽ nhanh chóng thu thập được
thơng tin phản hồi từ phía người học, duy trì và kiểm sốt được hành vi của học sinh.
Học sinh sẽ có được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu
và nắm bắt kiến thức mới thơng qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của
việc dạy học tích cực; có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi và
đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ mơn, tạo niềm say mê, hứng thú
cho các em trong học tập.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Từ ý thức về tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh trong học tập và từ thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn lớp 9 ở trường
THCS THCS Buôn Trấp, những năm qua chúng tơi đã cố gắng tìm tịi, vận dụng
Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn
Ngữ văn và bước đầu đã thấy hiệu quả. Cúng tơi xin trình bày cách nội dung và cách

thức thực hiện giải pháp, biện pháp như sau:
5


1. Biện pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học sinh –
đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động “học”.
- Trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải chú
trọng đến phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh dưới
sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh tác phẩm, tự rút ra
những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.
Theo chúng tôi, trong giờ dạy văn bản, giáo viên cần tổ chức, dẫn dắt cho học
sinh theo bốn cấp độ sau đây:
Thứ nhất, giúp học sinh tri giác, cảm thụ văn bản, hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt
truyện, thể loại... để có thể cảm nhận được hình tượng nghệ thuật trong sự tồn vẹn
của các chi tiết, các liên hệ.
Thứ hai, giúp học sinh tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào
hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm tác giả.
Thứ ba, giúp học sinh đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và
kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.
Thứ tư, giúp học sinh nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính hệ
thống, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và
truyền thống nghệ thuật.
Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người
“đồng sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, giáo viên phải
giúp học sinh tri giác, cảm thụ được: văn bản Lặng lẽ Sa Pa có cốt truyện rất đơn
giản, xoay quanh một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và anh
thanh niên làm cơng tác khí tượng trên đỉnh n Sơn thuộc Sa Pa. Nhân vật Chính –
anh thanh niên – chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng đã để lại cho các nhân vật khác
và đọc giả những tình cảm tốt đẹp. Nhân vật anh thanh niên trở thành một hình tượng

nghệ thuật kết tinh sâu sắc tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Hình ảnh anh thanh niên
đã và đang là tấm gương sáng về tinh thần lao động, về suy nghĩ và lối sống cao đẹp
để thế hệ trẻ mọi thời đại noi theo.
- Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo viên
phải nâng cao trình độ và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã khó,
hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự cập nhật tri
thức phải ln đi đơi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt tinh thần
6


coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với sự đa dạng,
phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em.
2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học sinh
có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết bài…
- Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
Với người dạy và người học hiện nay ở nước ta, SGK là công cụ có tính chất
pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử bắt đầu và xuất phát từ chương trình và Sách giáo
khoa. Nói cách khác dạy và học khơng thể thốt li chương trình và Sách giáo khoa.
Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được biên soạn theo
một cấu trúc cố định với những mục rõ ràng, với trình tự gồm các mục: Tên bài – Kết
quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích – Đọc – Hiểu văn bản – Ghi nhớ- Luyên tập.
Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển SGK và tự làm việc với
sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy đủ, học sinh thường xuyên
đọc sách, bám sát tất cả các mục ở trong SGK, mỗi mục có một vai trò cụ thể. Đặc
biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn bản sau mỗi văn bản. Đây là mục
quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn bản cho cả người học và người dạy.
Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu hỏi được sắp xếp theo hệ thống. Dựa vào
hệ thống câu hỏi này để giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp,
thiết thực và có hiệu quả. Bắt đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho giờ Đọc văn. Chẳng hạn

- Gắn với từng bài học cụ thể phù hợp với đặc trưng thể loại để hướng dẫn học
sinh chuẩn bị bài.
Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố với một số lượng thời gian nhất định
trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với từng bài
học, từng văn bản với số tiết quy định cụ thể để hướng dẫn học sinh cách thức nội
dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong một tiết thì có
cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo viên cũng cần phải
xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ thể để yêu cầu học sinh chuẩn bị:
Thơ khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng giảng dạy phần Văn theo
phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và đặc trưng thể loại. Xuất phát
từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát đặc trưng thể loại là định hướng
đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các em
chuẩn bị tốt bài ở nhà. Chẳng hạn khi dạy văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế ky
mới (Ngữ văn 9) giáo viên phải hướng dẫn cho các em nắm vững đặc trưng của văn
nghị luận để học sinh dễ tiếp xúc với văn bản. Bên cạnh đó khi dạy giáo viên nhất
7


thiết phải tích hợp với hồn cảnh đất nước và bản chất của con người Việt Nam để
làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu của con người Việt Nam ta. Từ đó giáo dục cho thế
hệ trẻ biết cần phải làm gì để góp phần xây đất nước.
- Giáo viên nắm chắc ý đồ của người soạn SGK ở phần hướng dẫn học bài
sau mỗi văn bản.
Ở mỗi văn bản, mỗi bài học cụ thể có những mục đích khác nhau. Trong Sách
giáo khoa Ngữ văn sau tên mỗi văn bản là mục kết quả cần đạt. Đây là phạm vi kiến
thức trọng tâm bài học mà học sinh cần nắm được. Để đạt được kết quả đó người
soạn sách đã có những định hướng đọc- hiểu cho cả người dạy và người học ở mục
hướng dẫn học bài. Để tổ chức cho học sinh đọc hiểu văn bản sát hợp, một yêu cầu
vô cùng quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà đúng
trọng tâm như yêu cầu ở mục kết quả cần đạt. Ví dụ, khi học đoạn trích Kiều ở lầu

Ngưng Bích, để học sinh hiểu và cảm nhận sâu sắc tâm trạng buồn - nhớ, lo lắng, đau
khổ của Thúy Kiều, giáo viên yêu cầu học sinh khi soạn bài cần đọc kĩ đoạn thơ nói
về nỗi nhớ về người thân; đoạn thơ nói về tâm trạng buồn, lo lắng, đau khổ của Thúy
Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Hiểu được mục đích của người soạn Sách giáo khoa ở
phần hướng dẫn học bài sau mỗi văn bản sẽ giúp giáo viên xác định phương pháp dạy
học phù hợp từng bài học cụ thể. Chẳng hạn, với mục đích đồng sáng tạo ở bạn đọc,
trong phần hướng dẫn học bài của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, sách
giáo khoa Ngữ văn 9 có nêu câu hỏi:
Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất?( Nỗi oan khuất của Vũ Nương có
nhiều ngun nhân: Do cuộc hơn nhân giữa TS và VN có phần khơng bình đẳng;
Do trương sinh đa nghi, hồ đồ, độc đoán dẫn đến cái chết oan nghiệt của VN)
Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong
kiến?( Người phụ nữ đức hạnh trong xã hội cũ không được bênh vực, che chở, họ
luôn bị đối xử bất công và chịu nhiều oan trái) Từ câu hỏi hướng dẫn này, giáo viên
có thể lồng phương pháp vấn đáp, đàm thoại bên cạnh các phương pháp khác. Tất
nhiên để đàm thoại được ở trên lớp thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài trước ở nhà...
- Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong Sách giáo
khoa.
Để giúp học sinh có sự chuẩn bị hiệu quả trước khi bước vào giờ học văn bản,
giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc với
Sách giáo khoa, tập cho các em biết gia công tìm tịi, sáng tạo trong q trình lĩnh hội
tri thức. Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất vẫn là yêu
8


cầu các em trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc Sách giáo khoa
như đã nói trên trước hết là để trả lời được các câu hỏi này. Tuy vậy, muốn công việc
này của các em đạt hiệu quả địi hỏi giáo viên phải có những cách thức, biện pháp
phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên các em tự trả lời các

câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh viêc ghi lại, chép lại
theo sách giải một cách đối phó, thụ động. Trong q trình soạn bài chỗ nào các em
chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em chú ý ghi lại hoặc gạch chân,
đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu văn bản trên lớp. Một điều nữa
không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi trong Sách
giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm,
điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này
giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước. Và như vậy, việc hướng dẫn học
sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Mùa xuân
nho nhỏ (Thanh Hải) giáo viên yêu cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau:
Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp và sức sống về mùa xuân của thiên nhiên và mùa
xuân của đất nước như thế nào? Đoạn thơ “Ta làm con chim hót…Dù là khi tóc bạc”
gợi cho em những cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người? (Với câu
hỏi 1 giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ 1 và 2 của bài thơ, câu
hỏi 2 giúp học sinh tìm hiểu nội dung khổ thơ thứ 3 trong bài; Nếu học sinh về
nhà chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho khi lên lớp các em sẽ tiếp
thu bài rất nhanh)
Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là việc
làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho việc đọc
tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ nhẹ nhàng hơn,
giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học.
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những dàn
ý theo suy nghĩ của mình. Điều ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học sinh cần
phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế
nào là phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều quan trọng là
người học phải tự mình nêu lại được các thơng tin quan trọng đã tiếp nhận bằng từ
ngữ riêng theo cách của mình.
- Tổ chức phân cơng từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh.
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo

9


viên dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. Đây
thường là việc làm lấy lệ máy móc, qua loa, làm cho xong. Vì thế tính hiệu quả thấp.
Kinh nghiệm cho thấy đối với học sinh THCS giao việc càng cụ thể thì tính hiệu quả
càng cao. Vì vậy, tổ chức phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị trước là bước đệm
rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để việc làm này có chất lượng giáo viên
phải thực hiện những bước sau:
+ Chuẩn bị trước các vấn đề.
+ Chia nhóm.
+ Phân cơng vấn đề cụ thể cho từng nhóm.
Chẳng hạn khi dạy văn bản “Đồng chí” (Ngữ văn 9) của Chính Hữu ngồi việc
học sinh chuẩn bài theo phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, giáo viên có
thể chuẩn bị trước các vấn đề sau để giao cho học sinh và yêu cầu mỗi nhóm phải
chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình. Giáo viên chia lớp làm ba nhóm mỗi nhóm
phải có nhóm trưởng, nhóm phó để đơn đốc các thành viên và chịu trách nhiệm chung
cho cả nhóm. Phần việc giao cho mỗi nhóm như sau: Nhận xét về cơ sở của tình đồng
chí. (Nhóm 1) Tìm những hiện biểu hiện của tình đồng chí. (Nhóm 2) Tình đồng chí
có những vẻ đẹp tiêu biểu nào?(Nhóm 3). Khi đã phân cơng học sinh về nhà chuẩn bị
như trên thì khi lên lớp, giáo viên giảng bài học sinh sẽ dễ tiếp thu và sau tiết học các
em sẽ dễ dàng thành lập được sơ đồ tư duy như sau:
Sơ đồ tư duy về bài thơ “Đồng chí”:

Có thể khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách đều
đặn và tâm huyết thì giờ học văn bản sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Ưu điểm của
cách làm này là tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách học hợp tác,
vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn..
10



- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở một số tiết học tác phẩm văn chương cụ
thể:
Bài 1: Chuyện người con gái Nam Xương.
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi chuẩn bị bài cần soan kỹ câu số 2,3,4 và 5 trong
phần hướng dẫn học bài để cùng thảo luận, tranh luận ở trên lớp.
+ Tưởng tượng cảnh Vũ Nương sau khi chết xuống thủy cung và được giải
oan…
+ Tìm một số bài thơ, truyện viết về số phận người phụ nữ trong xã hôi cũ.
Bài 2: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) Giáo viên hướng dẫn HS chuẩn bị kĩ
vấn đề sau khi soạn bài này để trao đổi trên lớp:
+ Suy nghĩ về quan niệm sống của nhà thơ được thể hiện trong bài thơ.
+ Mỗi người bày tỏ quan niệm sống của mình trong thời đại hiện nay.
3. Biện pháp tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
* Đối với giáo viên:
- Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để đặt câu hỏi hướng
vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ
thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy móc, hỏi cho có,
tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để rơi vào tình trạng dạy học hỏi đáp máy mọc
đơn điệu.
- Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa
chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. Nội
dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ năng;
giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh.
- Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có
chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài
giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà.
* Đối với học sinh:
- Khâu soạn bài: Học sinh đọc văn bản, chuẩn bị bài theo câu hỏi mà giáo viên
đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi giáo viên phân cơng học sinh chuẩn bị theo tổ,

nhóm, hoặc theo cá nhân.
- Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ học sinh bằng điểm số khi các em
tham gia xây dựng bài. Tạo khơng khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa thầy và
trò, giữa học sinh với học sinh, tranh luận giữa các nhóm học sinh với nhau để phát
11


huy tư duy sáng tạo của học sinh, tránh việc áp đặt kiến thức mang tính chủ quan của
người dạy, cần trân trọng khen ngợi, động viên những khám phá phát hiện độc đáo
mới lạ của các em trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học.
Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ sâu sắc giá trị của
đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập của học
sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy nhiên, để biến
những lý luận trên thành hiện thực địi hỏi người thầy ngồi tri thức khoa học cần
phải có lịng u nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và phải có thêm
niềm tin vào học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Từ mục tiêu trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong việc lựa
chọn hệ thống câu hỏi nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp
tác, phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau:
a. Yêu cầu của các loại câu hỏi:
- Câu hỏi phải gợi mở để tìm tịi vấn đề, phải đạt được mục đích kích thích
sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng bên trong
của học sinh.
Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có hoặc
khơng. Ví dụ: Khi giảng văn bản Bố của Xi-mông (Ngữ văn 9) chúng ta không nên
đặt những câu hỏi như: Đọc xong văn bản, em thấy chị Blăng- sốt có phải là một
người phụ nữ hư hỏng không? Mà chúng ta phải đặt những câu hỏi nhằm giúp các em
tìm kiếm, phát hiện: Qua hình ảnh ngơi nhà của chị Blăng -sốt, thái độ của chị đối
với khách và nỗi lòng của chị khi nghe con nói em cảm nhận chị là người như thế
nào?(Chị Blăng –sốt là người phụ nữ một thời lầm lỡ khiến Xi – mơng trở thành

đứa con khơng có bố. Nhưng thực ra chị là người phụ nữ đức hạnh, đứng đắn,
nghiêm túc)
- Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là tác
động đến trực giác của học sinh.
Ở dạng câu hỏi này giáo viên phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật đặc
sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao. Ví dụ: Cách sử dụng các từ “Ta làm” ở 3 câu thơ
trong khổ thơ thứ 3 trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải gợi tả được điều
gì? (Điệp ngữ “ta làm”diễn tả một cách tha thiết khát vọng được hòa nhập vào
cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé- của mình cho
cuộc đời chung, cho đất nước.)
Hình ảnh “con chim, cành hoa, nốt trầm” trong đoạn thơ có ý nghĩa gì?
12


(Hình ảnh con chim, nhành hoa, nốt trầm đó là những hình ảnh đẹp, giản dị
nhưng có một ý nghĩa lớn lao: Tác giả muốn nói lên ước nguyện phải đóng góp
những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến khiêm
nhường, giản dị. Điều đó khơng chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả
mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ “tôi’ sang “ta”,
nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung)
- Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát.
Chẳng hạn khi củng cố bài hay kiểm tra bài cũ học sinh cần tránh những câu
hỏi như sau: Em hãy đọc thuộc lòng bài thơ và cho biết nội dung, nghệ thuật của bài.
Dạng câu hỏi này khơng có tác dụng phát huy sự sáng tạo, tính tích cực của học sinh
vì chỉ cần chăm chỉ học thuộc phần ghi nhớ cuối sách giáo khoa chứ không cần tư
duy nhiều là học sinh trả lời được. Hơn nữa, câu hỏi này sẽ gây cho học sinh thói
quen có hại đó là thói quen học thuộc một cách máy móc.
Có thể thay dạng câu hỏi này bằng một câu hỏi có sức gợi hơn. Ví dụ: Để kiểm
tra kiến thức cũ bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu trong chương trình Ngữ văn lớp 9
thì giáo viên có thể hỏi như sau:

1. Qua bài thơ “Nói với con”, em thích nhất đoạn thơ nào? Vì sao? Hãy đọc
đoạn thơ đó với ngữ điệu sao cho phù hợp với những điều mà em vừa giải thích?
( Học sinh có thể trả lời em thích khổ thơ nào trong bài thơ cũng được. Miễn là
các em giải thích được lí do mình thích và đọc thuộc lịng đúng đoạn thơ đó)
2. Em có nhận xét gì về cách sử dụng ngơn ngữ, hình ảnh của tác giả trong bài
thơ? Cách viết đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài? Từ đó, em hãy
khái quát tư tưởng chủ đề của bài thơ. (Qua bài thơ “Nói với con”, bằng từ ngữ,
hình ảnh giàu sức gợi cảm, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca
ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài
thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi
nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với q hương và ý chí vươn lên trong
cuộc sống)
Với những câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết, cảm thụ sâu sắc
về tác phẩm đồng thời phải có cách trả lời sao cho đáp ứng được yêu cầu của câu
hỏi. Loại câu hỏi này vừa giúp giáo viên đánh giá được kiến thức, sự cảm thụ vừa
rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong môn Ngữ văn đồng thời cũng phát huy được tư
duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động của học sinh. Sở dĩ như vậy vì học sinh phải
dựa vào q trình phân tích tác phẩm để nhận biết những chi tiết nghệ thuật mà tác
13


giả sử dụng (đây là yêu cầu nhận biết). Sau khi nhận biết, học sinh phải lí giải
được tác dụng của những chi tiết nghệ thuật ấy tức là phải lí giải được câu hỏi viết
để làm gì? (đây là yêu cầu tư duy, cảm thụ). Cuối cùng học sinh phải chủ động
tổng hợp khái quát những vấn đề do chính học sinh đã phân tích ở trên.
- Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài, tránh
đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt khơng có sự tư duy, sáng tạo.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cố Hương” (Ngữ văn 9- Lỗ Tấn) chúng ta có thể đặt câu
hỏi: Qua sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ và hình ảnh Cố hương đã phản ánh điều
gì? Với câu hỏi này giáo viên giúp học sinh cảm nhận được bức tranh hiện thực của

xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ thật thê lương ảm đạm; Con người sa sút cả về tâm
hồn lẫn tính cách. Đó chính là tinh thần phê phán xã hội phong kiến một cách sâu sắc
của Lỗ Tấn.
- Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp với đối
tượng và phân loại đối tượng.
Kiểm tra bài cũ ở các đối tượng học sinh giáo viên tổ chức như sau:
Tổ chức trò chơi ai nhanh hơn:
Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các em xem một số hình ảnh và sau đó
chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới. Ai có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ được
cộng thêm điểm.
Để tổ chức kiểm tra bài cũ theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những
hình ảnh phục vụ tốt cho kiến thức cần kiểm tra, sau đó trình chiếu cho học sinh xem
rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Để kiểm tra bài “Những ngôi sao xa xôi” trong chương trình
Ngữ văn lớp 9, giáo viên cho các em xem hình ảnh sau:

14


Đặt các câu hỏi:
Hình ảnh các em vừa xem đại diện cho thế hệ nào trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước?
Em biết về họ qua văn bản nào đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp
9?
Từ đó hãy giới thiệu những phẩm chất đáng quý nhất về họ mà em biết.
Qua những vẻ đẹp đó của họ em học tập được điều gì ?
(Hình ảnh trên đại diện cho những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn thời chống Mĩ, qua văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của nữ
nhà văn Lê Minh Khuê. Họ là những cô gái xinh xắn, đáng yêu, tuổi đời mười
tám, đôi mươi. Họ sống lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, yêu quê hương, đất nước
sâu sắc. Giàu tình yêu thương đồng đội và rất dũng cảm. Họ sẵn sàng hy sinh

cuộc đời mình để cứu nước... Đó là những phẩm chất đáng quý của các cô gái
thanh niên xung phong thời chống Mĩ mà chúng ta phải học tập).
Với cách tổ chức và sử dụng các câu hỏi trên, giáo viên sẽ rất dễ dàng kiểm tra
được các đối tượng học sinh. Hai câu đầu dành cho học sinh yếu, trung bình; hai câu
sau dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi.
Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích thích,
vừa tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh. Việc đưa ra câu hỏi phải căn cứ vào
nội dung bài học, vào đối tượng học sinh, vào điều kiện khách quan… để có cách đặt
câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi thích hợp giúp các
em lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách hiệu quả nhất.
4. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ học văn bản.
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, kết hợp phương pháp
dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau:
15


(1) Câu hỏi tái hiện : Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ
lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu hỏi này
giúp học sinh tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình ảnh, hình
tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản ảnh…Các câu hỏi
này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong q trình tiếp nhận ở học
sinh. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học
với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa mới học.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Làng của Kim Lân (văn 9 tập 1), giáo viên có thể hỏi:
Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm trạng của ông Hai như thế nào?
Tâm trạng đó được thể hiện qua những hành động nào ?
+ HS điểm qua một vài chi tiết như:
- Ơng khoe làng ơng giàu đẹp
- Khơng khí cách mạng của làng sơi nổi.
- Ơng buộc phải tản cư, ở nơi tản cư ơng ln khoe về làng mình.

- Khi kể , ông kể say sưa, 2 con mắt sáng, cái mặt biến chuyển.
- Khi đi tản cư ông nhớ làng, nhớ hoạt động kháng chiến.
- Ông nghe được nhiều tin hay tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông múa
lên vui quá.
+ HS cảm nhận: Tất cả thể hiện tâm trạng vui sướng, tự hào, hãnh diện ông
Hai về làng quê của mình khi tham gia hoạt động kháng chiến.
(2) Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ: Loại câu hỏi này nhằm mục đích
làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi
kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này
được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi Giáo viên biểu diễn
phương tiện trực quan (băng ghi hình, máy chiếu)
Ví dụ: Em hãy quan sát các bức tranh và đọc lại bài thơ “Sang thu” của Hữu
Thỉnh?

16


(3) Câu hỏi tìm tịi (vấn đáp phát hiện)
Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học văn. Sự cảm thụ tác phẩm
của học sinh phải qua con đường của nhận thức. Để học sinh nắm bắt chính xác tác
phẩm, người giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các em. Cần tổ chức
việc trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, giữa trò với trò, thơng
qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tịi phát hiện. Hệ thống câu
hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một vấn đề xác định,
buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tịi lời giải đáp. Trong vấn đáp tìm tịi, hệ
thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của
lớp học.Trật tự logic của các câu hỏi hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản
chất của sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tịi, sự ham
muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo viên là người tổ chức sự tìm tịi cịn học sinh là
người tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có

được niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách
thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối đoạn
đàm thoại, Giáo viên cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để kết luận vấn đề đặt
ra, dĩ nhiên là có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, học sinh càng
hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình.
Để học sinh tìm tịi được kiến thức trong giờ học văn bản, có thể đưa ra nhiều
dạng câu hỏi khác nhau:
* Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề và
tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong tác
phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, khuyến khích
học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Ngữ Văn 9 tập 2),
Giáo viên có thể hỏi: hình ảnh: Từng giọt long lanh rơi
Tơi đưa tay tôi hứng .
17


Có người cho rằng đây là giọt mưa mùa xuân, giọt sương xuân. Có người lại
cho rằng đó là giọt âm thanh của tiếng chim. Em tán thành ý kiến nào? Vì sao?
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích phần đầu của bài thơ. Để giúp HS giải quyết
được vấn đề trên, GV có thể gợi mở giúp cho HS thấy được mối liên hệ giữa 2 câu
thơ này với 2 câu thơ trước. Với cum từ “Tôi đưa tay tôi hứng” HS cảm nhận
đượctiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành những giọt
sương óng ánh sắc màu thật tuyệt. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác: từ thính giác
sang thị giác rồi xúc giác- đưa tay hứng. Thể hiện niềm say mê, sự nâng niu trân
trọng của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân. Tuy nhiên dù hiểu thế nào (giọt mưa mùa
xuân, sương xuân hay giọt âm thanh của tiếng chim) thì đó cũng là sự cảm nhận vơ
cùng tài hoa, tinh tế của nhà thơ.
Ví dụ 2: Nói về chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm "Chuyện người con gái
Nam Xương" của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn

lớn". Em có ý kiến gì về vấn đề trên?
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích hình ảnh chiếc bóng. Giáo viên giúp HS giải
quyết vấn đề bằng những câu hỏi gợi mở để tìm ra giá trị nội dung và nghệ thuật của
chi tiết chiếc bóng. HS có thể nêu được một số ý như sau:
a. Giá trị nội dung:
- "Chiếc bóng" tơ đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trị người
vợ, người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng nhất "xa mặt nhưng
khơng cách lịng" với người chồng nơi chiến trận; đó là tấm lịng người mẹ muốn khoả
lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lịng đứa con thơ bé bỏng.
- "Chiếc bóng" là một ẩn dụ cho số phận mỏng manh của người phụ nữ trong chế
độ phong kiến nam quyền. Với chi tiết này, người phụ nữ hiện lên là nạn nhân của bi
kịch gia đình, bi kịch xã hội.
- "Chiếc bóng" xuất hiện ở cuối tác phẩm "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang
lống mờ nhạt dần mà biến đi mất" :
+ Khắc hoạ giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: phẩm giá của Vũ Nương đã
được chiêu tuyết, làm cho nhân vật càng thêm đẹp.
+ Khắc hoạ giá trị hiện thực: Khát vọng hạnh phúc trần gian của Vũ Nương vẫn
không được thực hiện.
- Chi tiết này còn là bài học về hạnh phúc muôn đời: Một khi đánh mất niềm tin,
hạnh phúc chỉ cịn là chiếc bóng hư ảo.
b. Giá trị nghệ thuật:
18


- Tạo sự hoàn chỉnh, chặt chẽ cho cốt truyện: Chi tiết "chiếc bóng" tạo nên nghệ
thuật thắt nút, mở nút và những mâu thuẫn bất ngờ, hợp lý
- Chiếc bóng xuất hiện cuối tác phẩm cịn là sự sáng tạo của Nguyễn Dữ (so với
chuyện cổ tích "Miếu vợ chàng Trương" ) tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm và một
kết thúc tưởng như có hậu nhưng lại nhấn mạnh hơn bi kịch của người phụ nữ


* Câu hỏi cần được phân tích, nhận xét, đánh giá: Sau khi nêu ra các câu hỏi
chúng ta phải đặt những câu hỏi để tìm ra những lý do: Tại sao tác giả lại xây dựng,
sử dụng những hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật đó? Ý nghĩa của vấn đề?
Loại câu hỏi này giúp học sinh biết phân tích, đánh giá và khái quát những vấn đề
quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác
phẩm.
Ví dụ 1: Khi giảng bài Đồng chí của Chính Hữu (Văn 9 tập 1), giáo viên có
thể hỏi: Vì sao đến câu thơ thứ 7, dịng thơ chỉ có 2 tiếng với dấu chấm than? Hãy
phân tích ý nghĩa của câu thơ đó.
Đối với câu hỏi này giáo hướng dẫn học sinh tìm hiểu từng ý nghĩa của câu
thơ:
- Như một nốt nhấn vang lên trong một bản đàn
- Kết tinh mọi cảm xúc tình cảm : tình đồng chí là cao độ của tình bạn, tình
người.
- Như một cái bản lề gắn kết đoạn 1 và 2.
Sau đó GV u cầu HS trình bày cảm nhận của mình dựa vào những ý nghĩa
trên: Câu thơ “Đồng chí!” như khép lại tình cảm đặc biệt của khổ thơ 1. Như bản lề
gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ 2 của bài thơ. Câu thơ đã tạo một nốt nhấn, vang lên
như một sự phát hiện, như một lời khẳng định về sự dồn nén, chất chứa, bật ra thật
thân thiết và thiêng liêng như tiếng gọi tha thiết của đồng đội, ấm áp.
Ví dụ 2: Tại sao kết thúc bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã xây dựng hình ảnh
“Đầu súng trăng treo”? Em có nhận xét gì về sự liên kết của những hình ảnh đó?
GV hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa tường minh và hàm ý của câu thơ:
+ Từ hình ảnh có thực ở chiến trường ( Người lính bồng súng đứng gác, đêm
đã về khuya, đứng ở một góc độ nào đó thấy ánh trăng chênh chếch đầu súng) nâng
lên thành hình ảnh khái quát mang ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp tinh thần của
người lính: Súng biểu tượng cho lí tưởng chiến đấu, trăng tượng trưng cho tâm hồn
người lính.
+ sự liên kết của những hình ảnh Súng và trăng thể hiên sự liên tưởng phong
phú. Sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, Thực tại và mơ mộng, chất

19


chiến đấu và chất trữ tình, giữa chiến tranh gian khổ và hịa bình trong sáng. Giữa
chiến sĩ và thi sĩ và là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Ví dụ 3: Khi dạy xong bài Lặng lẽ Sa Pa(Nguyễn Thành Long), GV có thể
hỏi: Vì sao tên các n/v đều vô danh ? (tác giả muốn họ vô danh, nhằm bình thường
hố họ; muốn nói rằng đó là những con người lao động bình thường, phổ biến,
thường gặp trong quần chúng nhân dân ta trên khắp nẻo đường đất nước)
* Câu hỏi yêu cầu có sự so sánh đối chiếu: Sự so sánh đối chiếu là một hình
thức của thao tác phân tích trong tư duy. Qua việc so sánh đối chiếu trong giờ học văn
bản, học sinh có thể nhận ra những nét độc đáo, những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.
Các loại câu hỏi đưa ra có thể là để so sánh các hình ảnh chi tiết trong tác phẩm hoặc
với các tác phẩm khác.
Ví dụ: Khi dạy bài Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính của Phạm Tiến Duật
(Ngữ văn 9 tập 1), Giáo viên có thể hỏi: Em hãy so sánh nụ cười chiến sĩ qua hai câu
thơ:
- Miệng cười buốt giá
( Chính Hữu)
- Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
( Phạm Tiến Duật)
Từ đó chỉ ra điểm gặp gỡ của hai nhà thơ và nét đẹp của người lính trong hai thời kì
kháng chiến chống ngoại xâm.
Bằng câu hỏi gợi mở, GV giúp HS tìm được điểm chung, điểm riêng của hai
câu thơ:
+ Nét riêng ở từng câu thơ:
Trong câu thơ của Chính Hữu: nụ cười “buốt giá” gợi cho người đọc
cảm nhận được thời tiết khắc nghiệt, nụ cười của người chiến sĩ đã sưởi ấm khơng
gian, thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó.
Trong câu thơ của Phạm Tiến Duật: Tiếng cười “ha ha” là cười to,

cười sảng khối, trẻ trung, lấy khó khăn vất vả để vui đùa => gợi tính cách trẻ trung,
ngang tàng của người lính lái xe Trường Sơn.
+ Phong cách thơ của từng nhà thơ: Chính Hữu: hình ảnh thơ chân thực, giản
dị, giàu sức biểu cảm; Phạm Tiến Duật: giọng thơ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe
khoắn
+ Điểm chung của hai tác giả:
- Cùng miêu tả nụ cười của người chiến sĩ
20


- Cùng làm nổi bật nét đẹp phẩm chất của người chiến sĩ trong hai
cuộc kháng chiến.
+ Nét đẹp của người lính trong hai thời kì kháng chiến chống ngoại xâm: Qua
tiếng cười thể hiện tinh thần lạc quan, ngạo nghễ, khơng khuất phục của người chiến
sĩ. Đó chính là sức mạnh làm nên chiến thắng.
Hay khi dạy khổ cuối bài Viếng lăng Bác( Viễn Phương), GV cho HS so sánh
ước nguyện cống hiến của tác giả với bài Mùa xuân nho nhỏ( Thanh Hải); so sánh
vầng trăng trong bài Ánh trăng(Nguyễn Duy) với Đồng chí ( Chính Hữu)
...
* Câu hỏi ứng dụng và liên hệ: Loại câu hỏi này giúp học sinh chuyển nhận từ
nhận thức về tác phẩm để nhìn vào hiện thực cuộc đời. Để trả lời câu hỏi này, học
sinh phải tự liên hệ với thực tế và bản thân để tìm ra hướng giải quyết thích hợp theo
sự cảm thụ của mình. Các loại câu hỏi này có thể là: Cho biết tác dụng từ việc đọc tác
phẩm đến tình cảm thái độ nhận thức của em? Theo em, tác phẩm này có tác dụng
như thế nào đối với đời sống? Tác phẩm có đóng góp gì đối với nền văn học?...
5. Các biện pháp kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Để phần việc này thực sự đạt hiệu quả và sức hấp dẫn, người giáo viên cần lưu
ý:
- Cần nắm vững chuẩn kiến thức- kĩ năng và yêu cầu cần đạt của mỗi bài học.
Đây là “kim chỉ nam” giúp cho phần củng cố của bài học không bị chệch hướng và

xác định được nội dung trọng tâm.
- Cần phối hợp nhiều phương pháp, trong đó chú ý đến phương tiện dạy học
hiện đại (dùng công nghệ thông tin, màn ảnh, máy chiếu, âm thanh...) để củng cố bài
học tạo nên sự hứng thú của học sinh.
- Cung cấp thêm những tư liệu liên quan đến tác giả, tác phẩm hoặc những lời
bình về tác phẩm, chẳng hạn:
+ Hồn cảnh ra đời của tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận), Bếp lửa
( Bằng Việt), Chiệc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng),... Bến quê ( Nguyễn Minh
Vhaau), Ánh trăng( Nguyễn Duy),...
+ Giới thiệu thêm tác phẩm có liên quan đến cùng nội dung chủ đề của cùng
tác giả: sau khi học xong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, đọc thêm cho
học sinh nghe bài thơ “Một khúc ca xuân”, Bài thơ cuối cùng của Tố Hữu,...
21


+ Đọc những bài thơ, câu thơ được khơi gợi cảm xúc từ những hình tượng
nhân vật văn học: ví dụ những câu thơ viết về Thánh Gióng, Hồ Chí Minh, Phan Bội
Châu,...
+ Dùng sơ đồ, biểu bảng... để tổng kết những nội dung cơ bản hoặc cấu trúc bài
học:
- Sử dụng hệ thống câu hỏi để kiểm tra, đánh giá năng lực nhận thức, rung
động cảm xúc và khả năng sáng tạo của học sinh bằng một số kiểu câu hỏi theo cấp
độ tăng dần như sau:
+ Những câu hỏi mang tính chất tái hiện lại, liệt kê lại kiến thức:
Ví dụ: Sau khi học xong 3 đoạn trích trong Truyện Kiều, hãy nêu nội dung và
nghệ thuật tiêu biểu trong mỗi đoạn trích đó?
+ Những câu hỏi để tìm hiểu cảm xúc chủ quan của học sinh về một vấn đề:
Ví dụ: Cảm nhận của em về khung cảnh mùa xuân dưới ngòi bút của Nguyễn
Du qua đoạn trích “Cảnh ngày xn” . Em có suy nghĩ gì về hình tượng người lính
trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu?

Ở những câu hỏi thuộc kiểu dạng này, giáo viên dần đưa các em vào việc khám
phá nội dung đồng thời bày tỏ suy nghĩ, thái độ của cá nhân mình về một vấn đề của
bài học trước tập thể lớp. Điều này giúp các em dần chủ động hơn trong việc lĩnh hội
và khám phá tác phẩm.
- Cho học sinh tìm hiểu và tranh luận về tên tác phẩm, tên đoạn trích:
Tên tác phẩm, tên đoạn trích (có thể do người biên soạn đặt) đều bao hàm chứa
đựng nội dung của tác phẩm, được biểu đạt ở dạng khái qt nhất. Do đó, tìm hiểu
tiêu đề tác phẩm cũng là một phương thức khá lý thú, hấp dẫn lại có hiệu quả trực
tiếp trong việc khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Tại sao tác giả Kim Lân lại đặt tên tác phẩm là “Làng” mà không phải là
“Làng chợ Dầu”? Nếu được đặt tên lại em sẽ đặt là gì?
Tại sao Nguyễn Thành Long đặt tên tác phẩm là “Lặng lẽ Sa Pa” nhằm mục
đích gì? Sau khi học xong bài thơ, em cảm nhận như thế nào về nhan đề “Mùa xn
nho nhỏ”? Em có suy nghĩ gì về nhan đề “Bến Quê”? Vì sao Lê Minh Khuê đặt tên
truyện là “Những ngôi sao xa xôi”?...
Rõ ràng khi trả lời được câu hỏi này học sinh phải nắm chắc nội dung bài học.
Đồng thời với việc đưa ra câu hỏi mang tính tình huống, học sinh sẽ hết sức phấn
22


khởi khi được tham gia vào việc tạo dựng tác phẩm (dù chỉ dừng lại tên gọi của nó).
Với những câu hỏi này giáo viên nên hết sức chú trọng đến ý kiến cá nhân học sinh
để có thể bổ sung hoặc điều chỉnh hợp lí.
Những câu hỏi thuộc kiểu loại trên địi hỏi học sinh phải có sự tư duy thấu đáo.
Yêu cầu các em phải hiểu nội dung bài học và nhận định của nhà nghiên cứu, từ đó
phải huy động kiến thức để lí giải, chứng minh. Những câu hỏi này giúp các em phát
triển tư duy và cách lập luận.
- Cung cấp cho học sinh những cách tiếp cận khác nhau về tác phẩm, sau đó
cho học sinh lựa chọn cách hiểu phù hợp với năng lực của mình và lí giải.
Điều cần lưu ý là với kiểu câu hỏi này, giáo viên khuyến khích các em mạnh

dạn trình bày những cách hiểu khác nhau nhưng điều quan trọng là xem xét đến sự lí
giải của các em. Từ đó giúp các em biết được nhiều “kênh” khác nhau, đồng thời rèn
luyện cho các em “bản lĩnh” nghiên cứu, sáng tạo...
- Ngồi ra có thể kết hợp với các hình thức sau:
+ Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Hình thức kiểm tra này
rất phù hợp bởi trong một khoảng thời gian ít ỏi nhưng có thể kiểm tra được nhiều
đơn vị kiến thức
+ Sử dụng các hình thức kiểm tra theo kiểu “vừa học vừa chơi” như câu đố,
chơi ô chữ.
Giáo án minh hoạ việc áp dụng Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp.
Tiết Ppct: 102
Văn bản:
CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỈ MỚI
- Vũ Khoan A- Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức:
- Giúp HS nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và
yêu cầu phải nhanh chóng khắc phục điểm yếu, hình thành những đức tính và thói
quen tốt trong bối cảnh đất nước đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại hoá trong thế kỉ
mới.
- Nhận xét được cách trình bày và nghệ thuật lập luận của văn bản.
2. Kĩ năng:
Trình bày, phân tích được những đặc điểm của con người Việt Nam (điểm
23


mạnh và điểm yếu).
3. Thái độ: Có ý thức rèn luyện những đức tính và thói quen tốt đối với bản
thân ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
4. Giáo dục kĩ năng sống:

- Tự nhận thức: nhận thức được những hành trang bản thân cần được trang bị
để bước vào thế kỉ mới.
- Làm chủ bản thân: Tự xác định được mục tiêu phấn đấu của bản thân khi
bước vào thế kỉ mới.
- Suy nghĩ sáng tạo.
B- Các phương pháp/kĩ thuật dạy học
- Học theo nhóm: trao đổi, phân tích nhóm về điểm mạnh, điểm yếu của con
người Việt Nam, của bản thân, xác định những yêu cầu của bối cảnh mới.
- Phát biểu, trao đổi chung: GV nêu vấn đề cần thảo luận về điểm mạnh, điểm
yếu của con người Việt Nam nói chung, của lớp thanh niên hiện nay, từ đó thống nhất
những hành trang cần chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới.
- Phương tiện dạy học: Giấy khổ to, bút nhiều màu ghi kết quả thảo luận nhóm
(có thể sử dụng máy chiếu thì cành tốt).
C- Chuẩn bi
- GV: Giáo án, tư liệu tham khoả, đồ dùng dạy học
- HS: Đọc kĩ văn bản, thực hiện các yêu cầu của GV đã dặn dò ở tiết trước.
D- Các hoạt động học tập và nội dung học tập
1. Ổn định tổ chức
2. Bài cũ
3. Bài mới
Giới thiệu bài
- GV yêu cầu HS nêu những cảm nhận, nhận xét của cá nhân về bối cảnh của
Việt Nam và thế giới trong thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỉ; đồng thời xác định
vị trí của lứa tuổi thanh niên HS với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.
- Từ những ý kiến của HS, GV nêu mục tiêu của bài học: Trong xã hội hiện
nay, lớp trẻ cần chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để bước vào thời kì hội nhập quốc
tế. Bài viết của tác giả Vũ Khoan đã chỉ rõ cho lớp trẻ những hành trang cần thiết để
bước vào thời kì mới.
Hoạt đợng của Thầy và Trị
Nợi dung

Hoạt động 1: Đọc – Tìm hiểu chung về văn I. Đọc – Hiểu văn bản
bản
1. Đọc – Tìm hiểu chung
Phương pháp: phát biểu, trao đổi
- Đọc, tìm hiểu từ khó
24


- GV hướng dẫn HS đọc văn bản
- HS đọc văn bản.
- Sau khi cho HS tìm hiểu từ khó, xác định thể
loại GV yêu cầu HS suy nghĩ và trình bày vấn
đề chính đặt ra trong văn bản và trình bày lập
luận của tác giả trong văn bản.
- GV chốt lại: + Vấn đề đặt ra của văn bản:
thể hiện ở câu văn mở đầu văn bản.
+ Trình tự lập luận: * Tác giả đặt vấn đề:
Trong hành trang để bước vào thế kỉ mới, sự
chuẩn bị bản thân con người là quan trọng
nhất.
* Tiếp đó, tác giả phân tích những điểm
mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam.
* Kết luận: Cần phát huy điểm mạnh, khắc
phục điểm yếu, hình thành thói quen tốt.
Hoạt động 2: Tìm hiểu văn bản
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu nội dung văn bản
Phương pháp: trao đổi nhóm
- GV chia nhóm và nêu yêu cầu thảo luận:
Nêu và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu
của con người Việt Nam được trình bày trong

văn bản.
- Đại diện các nhóm trình bày ý kiến trao đổi,
thảo luận trong nhóm. HS trong nhóm bổ
sung. Các nhóm khác theo dõi, nhận xét, bổ
sung.
- Sau nội dung được các nhóm trình bày, GV
và HS trao đổi, thống nhất kết luận những
điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt
Nam và yêu cầu rèn những thói quen tốt khi
bước vào thế kỉ mới.

- Thể loại: Văn bản nghị luận
- Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
- Vấn đề đặt ra của văn bản: (Câu
mở đầu)
- Trình tự lập luận:
+ Đặt vấn đề: Trong hành trang để
bước vào thế kỉ mới, sự chuẩn bị
bản thân con người là quan trọng
nhất.
+ Tiếp đó, tác giả phân tích những
điểm mạnh, điểm yếu của con
người Việt Nam.
+ Kết luận: Cần phát huy điểm
mạnh, khắc phục điểm yếu, hình
thành thói quen tốt.

2. Tìm hiểu văn bản
a) Tìm hiểu nội dung văn bản
Trong khi chỉ ra từng điểm mạnh

của con người Việt Nam, tác giả
nêu ngay những điểm yếu đi liền
theo. Cụ thể:
+ Cái mạnh đầu tiên là sự thông
minh….khả năng thực hành và sáng
tạo hạn chế.
+ cái mạnh thứ hai là sự cần cù,
sáng tạo, …thiếu tôn trọng kỉ luật
trong công việc.
+ Cái mạnh thứ ba là truyền thống
đùm bọc, đồn kết … thường có
tâm lí hơn thua, đố kị,…
=> Thế hệ trẻ Việt Nam cần nhận
thức đúng đắn về những nội dung
Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu nghệ thuật lập luận trên,…việc làm nhỏ nhất.
của văn bản
b) Nghệ thuật lập luận của văn bản
Phương pháp: phát biểu, trao đổi chung cả
25


×