Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

SKKN rèn luyện kỹ năng viết văn bằng lời văn của mình (ngữ văn 6)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.09 KB, 15 trang )

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài.
Mơn Ngữ văn ở trường phổ thơng nói chung, trong trường THCS nói
riêng thì về kiến thức mơn văn khơng chỉ ở trong những bài có sẵn trong SGK
qua phần Văn, Tiếng Việt hay Tập làm văn nào đó mà học sinh (HS) cần phải
có được những kĩ năng quý để làm một bài văn một cách thành thạo. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay HS đang xa rời với văn học, ngại nghĩ, ngại viết.
Do vậy, giúp HS biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng
hướng làm bài. Hướng dẫn HS cách tìm ý cho bài văn miêu tả, rèn cho HS có
kỹ năng diễn đạt, kỹ năng dựng đoạn trong văn miêu tả là một việc làm cần
thiết mà mỗi người giáo viên cần trang bị cho HS của mình.
Việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả là rất thiết thực cho HS. Việc trang bị
cho các em có kỹ năng để viết thành thào những bài văn miêu tả sẽ góp phần
vào tháo gỡ những vướng mắc, mặc cảm ngại học văn của một số HS hiện nay.
Đồng thời giúp cho các em có kỹ năng xây dựng cách làm một bài văn miêu tả,
tạo cho các em dần dần có tình yêu với môn văn học. Và tạo cho HS tự phát
huy tính tích cực chủ động học văn nói chung và làm bài văn miêu tả nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề này nhằm nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu trong
việc làm văn miêu tả của HS đồng thời thấy được quá trình hướng dẫn của giáo
viên. Từ đó khắc phục những hạn chế của giáo viên trong hướng dẫn HS làm
văn miêu tả và phát huy những điểm mạnh của bản thân trong hướng dẫn HS
làm văn miêu tả, để giúp bản thân và đồng nghiệp nâng cao tay nghề và giúp
HS có kỹ năng làm văn miêu tả và u thích mơn văn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
HS trong trường phổ thông, chủ yếu là THCS, đặc biệt là HS lớp 6.
Ngoài ra là giáo viên hướng dẫn môn Ngữ văn, đặc biệt là giáo viên ngữ văn
lớp 6.
1



4. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là đề tài nghiên cứu phương pháp giảng dạy văn miêu tả cho HS
khối 6. Khi nghiên cứu dùng kết hợp. Linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau
như đánh giá thực tiễn; phân tích đánh giá kết quả học tập của HS; điều tra HS;
thông qua các bài kiểm tra viết, nói của hS….
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Đối với HS lớp 6 tại trường THCS Ngọc Lũ trong một số năm học vừa
qua như năm học 2012-2013, 2013-2014 và năm học 2015-2016 tại lớp 6B.
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận:
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể
coi mỗi một tác phẩm văn học là một “viên ngọc trong cuộc sống”, được đúc
kết từ thực tế cuộc sống, cuộc đời. Vậy làm thế nào cho HS mình cảm nhận
được chất thơ của cuộc sống đời thường để rồi từ đó các em nói ra, viết ra
những điều mà các em đã học, đã cảm nhận trong cuộc sống xung quanh
thường ngày, tự các em tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “nhỏ bé bước đầu”
của mình có giá trị ? Tơi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cơ giáo đang tìm
cách để có hiệu quả nhất cho riêng mình, cho HS của minh.
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy rằng chương trình
Ngữ văn lớp 6 so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen và có nhiều
những khái niệm cịn trừu tượng. Giữa học và làm là cả một thao tác, một
khoảng cách khó. Riêng làm văn, địi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn,
sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải có hình ảnh sống động,
thuyết phục lịng người. Điều đó khơng thể đi từ lý thuyết sang thực hành ngay
được, bởi tư duy của các còn là tư duy cụ thể, chưa tiếp nhận ngay được những
kiến thức trừu tượng. Cảm nhận của các em còn đơn giản, cụ thể, vốn từ, vốn
hiểu biết phần nhiều còn nghèo nàn…do vậy mà các em chưa có nhiều vốn từ,
tính hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật trong viết văn…
2



2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế các em đã quá quen với việc viết văn miêu tả bằng những văn
bản mẫu mà thày cô cung cấp sẵn và qua “văn mẫu”. Đặc biệt ở bậc tiểu học,
các em thường xuyên sử dụng lỗi viết theo mẫu sẵn. Cho nên việc sáng tạo đối
với các em lớp 6 là việc khó khăn và ít hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư
liệu của các em HS bây giờ quả là ít ỏi, vì thơng tin hiện đại: hoạt hình, truyện
tranh, đặc biệt là dịch vụ In-tơ-nét tràn lan cuốn hút các em, làm cho các em
say mê hơn. Đặc biệt thời gian hiện nay HS THCS Ngọc Lũ có quan điểm coi
môn văn là môn phụ, môn không cần thiết trong đời sống kinh tế, hơn nữa HS
hiện nay đa số lười học, không say mê học, đặc biệt là các môn lĩnh vực xã hội.
Những năm qua tôi trực tiếp đứng lớp mơn văn, trong đó có văn 6. Năm
học 2012-2013 tôi dạy lớp 6C, năm học 2015-2016 này, tơi trực tiếp dạy lớp
6B. Trong q trình hướng dẫn giảng dạy tơi đã nhận thấy vẫn cịn có nhiều HS
có hứng thú, thích học văn, trong đó có văn miêu tả.
Bản thân làm tổ trưởng chuyên môn, nên luôn phải quan tâm, để ý đến
chất lượng của các môn trong tổ trong đó có mơn ngữ văn, và thỉnh thoảng vẫn
phải dạy thay đồng nghiệp một số giời văn trong đó có ngữ văn 6. Cho nên,
việc tiếp cận với học sinh lớp 6, với ngữ văn 6 cũng thường xun.
Tình trạng HS trước khi đến lớp khơng học bài cũ, không chuẩn bị bài
mới tương đối nhiều, thường xun. Đầu năm học có một số HS cịn chưa biết
viết một đoạn văn là như thế nào, khả năng đọc cịn chậm, đặc biệt có một số
HS viết khơng rõ chữ. Một số HS không hiểu cách hành văn miêu tả. Các em
còn phụ thuộc nhiều vào sách tham khảo.
Đặc biệt là xã hội, cha mẹ HS đa số khơng có ý thức coi trọng đối với
mơn văn mà chỉ thiên hướng cho con em mình học các mơn tự nhiên.
Từ những cơ sở trên, tôi thiết nghĩ: Quá trình rèn kỹ năng làm văn miêu
tả cho HS khối 6 là một việc làm cần thiết, chúng ta cần hướng cho các em làm
và làm một cách kiên trì, lâu dài, cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất.
3



3. Các biện pháp đã tiến hành để rèn kỹ năng cho học sinh:
3.1. Giúp HS có kỹ năng tìm hiểu đề, xác định đúng yêu cầu của đề bài.
- Bước tìm hiểu đề là cần giúp cho các em xác định được yêu cầu đề bài
trên ba phương diện: Một là thể loại; hai là nội dung; ba là phạm vi phải làm.
- Muốn xác định đề, tìm hiểu đề cho đúng và chính xác ta cần dựa vào
câu từ trong đề bài để xác định được nội dung, yêu cầu của đề bài.
- Việc xác định đúng yêu cầu của đề bài sẽ giúp chúng ta làm bài đạt kết
quả cao vì khơng bị lạc đề, sai u cầu đề bài.
* Ví dụ: Đề 1: Hãy miêu tả quang cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời.
Đề 2: Hãy tả lại quang cảnh trường em vào một buổi sáng.
Đề 3: Hãy tả lại trường em trong giờ ra chơi vào một ngày đẹp trời.
- Giáo viên giúp HS thấy cả 3 đề trên đầu có:
+ Yêu cầu về thể loại: Văn miêu tả (Hãy miêu tả; hãy tả lại…)
+ Nội dung chính cần tả: Cả 3 đề đều yêu cầu là tả về quang cảnh trường em.
+ Nhưng mỗi đề lại có yêu cầu cụ thể hơn:
Đề 1: Là quang cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời;
Đề 2: Là quang cảnh trường em vào một buổi sáng;
Đề 3: Là cảnh trường em trong giờ ra chơi vào một ngày đẹp trời.
Trong thực tế của đề bài có nhiều đề bài trong đề đã có yêu cầu về thể
loại “miêu tả”, nhưng có nhiều đề khơng có yêu cầu, câu từ “miêu tả” cụ thể.
Nhưng qua câu chữ ở đề HS vẫn phải xác định được đó là đề bài miêu tả.
* Vd: - Quang cảnh cánh đồng quê em vào những ngày gặt rộ.
- Hình ảnh con đường làng quê em vào buổi sáng đẹp trời.
- Cảnh bình minh trên biển.
- Hình ảnh mẹ em khi em làm được việc tốt.
3.2. Hướng dẫn cách tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh:
Khi HS đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng
miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để

4


giúp HS định hình được hướng đi của bài viết, tơi đã hướng dẫn HS bước tìm ý
cho bài văn tả cảnh:
- Nhất thiết phải theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh
chung sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
- Tìm ý là xác định, định hình, đưa ra những ý cơ bản khái quát cho vấn
đề cần tả theo yêu cầu của đề bài
- Bao quát không gian cảnh được coi là một thao tác quan trọng đầu tiên
của bức tranh tả cảnh, rất quan trọng trong việc định hình vị trí cảnh vật. Vậy
HS cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào?
Thực tế khi làm bài, tôi thấy HS thường viết một cách cộc lốc, cụt lủn, có khi
chỉ viết được một, hai câu cho phần tả bao quát.
- Để tả bao quát cảnh, trước hết phải xác định vị trí miêu tả khái quát.
Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được toàn cảnh
miêu tả.
Theo đề trên, các em phải giới thiệu đơi nét về trường học: Vị trí địa lý,
trục đường, hướng mặt, diện tích, ranh giới trường với xung quanh...
Bài làm của học sinh

Bài gợi ý của thầy
Trường THCS nơi em đang học là ngôi

Trường em nằm trên một khu đất trường nằm ở thơn 4 (cịn gọi là thôn
rộng, bằng phẳng. Khi em đến, hai Thượng), xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh
cánh cổng trường to lớn mở ra. Lớp Hà Nam. Trường nằm bên trục đường liên
học, bàn ghế những người bạn thân xã, cách Huyện lộ khoảng 0,5km về phía
của tuổi học trị chờ đón chúng em.


đông. Trường quay mặt về hướng đông
nam, xung quanh trường học được bao bọc
bởi hàng tường bao xây khá đẹp. Từ trên
cao nhìn xuống, trường như nằm trên một
tấm thảm xanh khổng lồ của cánh đồng lúa
bạt ngàn suốt ngày reo vui với nắng gió

5


Quá trình tìm ý gắn với lập dàn ý là một kĩ năng cực kì quan trọng. Thực
tế trong khi làm bài, điều lo buồn mà tôi đã thấy là nhiều em không lập dàn bài,
do đâu? Một phần là do các em chưa thấy tầm quan trọng của dàn bài. Định ra
được dàn bài, có thể các em đã thành công hơn một nửa trên các phương diện:
Thời gian, trình tự, nội dung viết. Nhưng chắc chắn phần lớn nhiều em chưa
biết, chưa có kĩ năng lập dàn bài.
Vậy nên thầy cơ giáo thường xun nói, rèn và bắt buộc kĩ năng lập dàn
bài, để kĩ năng này trở thành thói quen thì khơng khó nhưng phải kiên trì thực
hiện cho bằng được theo từng đối tượng. Các em ở mức học trung bình có thể
lập dàn bài sơ lược, đại cương. Các em học khá giỏi có thể trên dàn ý đại
cương mà xây dựng dàn bài chi tiết hơn nữa.
Ví dụ: Tả cây phượng ở trường em vào mùa hè (hoặc bất cứ cây nào)
Dàn bài chung văn tả cảnh
Mở bài

Dàn bài cụ thể

- Giới thiệu cảnh được tả: Cảnh - Giới thiệu cây được tả: Cây gì, ở
gì, ở đâu? Lý do tiếp xúc với đâu? Lý do tiếp xúc với cây, ấn tượng
cảnh, ấn tượng chung ?


Thân bài

chung ?

Tập trung tả cảnh vật chi tiết Tập trung tả cây chi tiết theo một thứ
theo một thứ tự hợp lý :

tự hợp lý :

+ Tả bao quát.

+ Tả bao quát.

+ Tả chi tiết :

+ Tả chi tiết :

- Từ ngồi vào (vị trí quan sát, - Từ bên ngồi vào (vị trí quan sát,
cảnh...)

chiều cao, diện tích che phủ ...)

- Đi vào bên trong (vị trí quan - Đi đến gần hơn (vị trí quan sát, gốc,
sát, cảnh vật chính...)

thân, cành, lá...)

- Cảnh chính hoặc cảnh quen - Cảnh chính hoặc hình ảnh đặc sắc
thuộc mà em thường tiếp xúc của cây vào mùa hè: hoa, dáng vẻ,

(vị trí quan sát, những cảnh màu sắc... quen thuộc mà em thường
chính...) Tập trung tả cảnh vật tiếp xúc (vị trí quan sát, những nét đặc
chi tiết theo một thứ tự hợp lý.

trưng...)
6


Kết bài

- Cảm nghĩ chung sau khi tiếp - Cảm nghĩ chung sau khi tiếp xúc,
xúc,

tình

cảm

riêng

hoặc tình cảm riêng hoặc nguyện vọng của

nguyện vọng của bản thân...

bản thân...

3.3. Rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài, kết bài:
Phần mở bài cho bài văn miêu tả thường coa hai cách: Mở bài trực tiếp
và mở bài gián tiếp. trong đó cách mở bài gián tiếp thường gây hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc, người nghe hơn.
Cách mở bài gián tiếp: Có thể giới thiệu cảnh bằng lời mời gọi du khách

để giới thiệu cảnh và bộc lộ cảm xúc của người viết một cách khái quát. Có thể
dẫn dắt từ lời thơ, bài hát... về cảnh sẽ tả để giới thiệu cảnh. Hoặc có thể bộc lộ
cảm xúc hồi tưởng về cảnh để mà giới thiệu.
Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng lưu ý cho HS đủ ý cần nêu trong
mở bài. Đó là phải đảm bảo ba yêu cầu: Dẫn vào đề, nội dung đề, chuyển ý.
Ví dụ minh họa:
Mở bài của học sinh

Thầy giáo gợi ý cách mở bài
* Cách mở trực tiếp: Thường lệ, cứ đúng 6 giờ 30 phút
sáng hàng ngày, em lại đến trường. Từ xa, ngôi trường

Trường

em

mang

tên Trung học cơ sở Ngọc Lũ hiện lên rất đẹp, gần gũi,

Trường Trung học cơ sở. thân thuộc quá! Mái trường mến thương.
Hôm nay, em đến trường * Cách mở gián tiếp: Một nhà thơ có viết:
sớm hơn mọi ngày để làm

“ Trường của em be bé

công việc trực nhật lớp nên

Nằm lặng giữa rừng cây”


có dịp quan sát vẻ đẹp của Trường THCS Ngọc Lũ mà em đang học không phải là
trường trước buổi học.

mái trường be bé mà trường của em là một ngôi trường
đẹp, rộng lớn, khang trang, một ngơi trường đã có bề
dày thành tích và là nơi đã chắp cánh cho bao thế hệ
học trò quê em lớn lên và thành những người cơng dân
có ích cho đất nước, q hương. Cũng từ mái trường
này mà bản thân em đang lớn lên từng ngày.
7


Kết bài không những đủ ý chốt của bài viết mà nên tạo độ lắng cho nốt
trầm xao xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc, điều này phụ thuộc vào
trình độ diễn đạt của HS, nên giáo viên hướng các em viết phần kế bài cần khái
quát được vấn đề được tả và bộc lộ phần cảm xúc, suy nghĩ của mình.
Ví dụ minh họa:
Kết bài của học sinh
Em rất yêu mến ngôi trường em

Thầy giáo gợi ý cách kết bài
Năm tháng rồi cũng sẽ qua đi, em sẽ

đang học. Nơi đây đã chứng kiến bao lớn lên, trưởng thành. Em có thể đi đến
kỷ niệm êm đềm trong sáng của chúng nhiều chân trời mới nhưng mái trường
em. Em mãi mãi nhớ ngôi trường này

THCS Ngọc Lũ vẫn là một nơi rất sâu đậm,
ấn tượng không bao giờ phai mờ trong ký
ức em, đặc biệt trong đó là những kỉ niệm

đẹp về thầy cô, bạn bè, những bài học hay.
Em ln tự nhủ trong mình:
Ta lớn khơn thành người hữu ích
Mãi mãi đừng quên mái trường xưa!...

3.4. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn.
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp
lý, logich, chặt chẽ, mạch lạc. HS thường rất lúng túng khơng biết tả cảnh cụ
thể là tả cảnh gì? Tả như thế nào? theo trình tự từ đâu? ... Các em thường kể lể,
liệt kê cảnh một cách lộn xộn, tràn lan, không tạo được ấn tượng cho người đọc
về cảnh. Vậy chúng ta phải làm như thế nào để khắc phục tình trạng này. Trước
hết tơi hướng cho HS hình dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn
trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể, bao giờ câu đầu
đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó.
Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần
đến xa (hoặc ngược lại) theo tầm mắt. Trong q trình miêu tả, thầy cơ lưu ý

8


cho HS trình tự miêu tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh,
lời văn nhận xét, đánh giá và sự tưởng tượng phong phú.
Ví dụ về cách dựng đoạn:
Cách dựng đoạn của học sinh

Cách dựng đoạn theo gợi ý của thầy

- Ngôi trường to và đẹp quá! Chúng em - Bước chân đến cổng trường, trước mắt em
có một khoản sân rộng để vui đùa, có là tấm biển Trường Trung học cơ sở Ngọc
cả ghế đá của những thầy cô và các anh Lũ bằng chữ màu xanh trên nền trắng trang

chị đi trước tặng lại nhà trường để ngồi trọng. Vào trong, dãy phòng Hội đồng, các
nghỉ ngơi trong giờ giải lao. Xà cừ, cửa vẫn cịn đóng im ỉm. Bên trên, một
bằng lăng, bàng hay phượng đã đứng màn sương lờ mờ như trùm lên cảnh vật.
đó mấy chục năm rồi, đã chia xẻ buồn Xung quanh là những dãy hàng cây xanh.
vui cùng bao thế hệ học trò, và chứng Mỗi cây có một dáng vẻ riêng, cây nào
kiến những đổi thay của trường lớp. cũng đẹp. Dưới bàn tay chăm sóc, sắp đặt
Những cây phượng cành lá xum x, của các thầy cơ, hình như mỗi cây có một
khẳng khiu như thế có hàng trăm cánh nét đẹp rất riêng. Lôi cuốn nhất là cây sanh,
tay vươn ra ôm lấy hoa và bác lá.

gốc to, cuối các chi, từng túm lá xịe ra
trơng rất ngộ nghĩnh.

3.5. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả cảnh.
Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng
song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được cảnh một cách
sống động, chân thực. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ diễn đạt như
thế nào là một điều giáo viên rất quan tâm.
Thực tế là qua nhiều năm chấm bài văn miêu tả của HS, tôi thấy đáng
buồn một điều là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng,
thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng sai nghĩa, từ, lặp từ, lặp ý ... như vậy để
làm bài văn của HS diễn đạt trong sáng có sức hấp dẫn chúng tơi nghĩ rằng
khơng có cách nào khác ngồi việc trau rồi ngôn từ cho HS. Để HS tự giác làm
điều này là một việc rất khó, nên để HS tự làm sau khi giáo viên đã tạo được
trong lòng HS sự u thích ngơn từ nghệ thuật.
9


Ví dụ: đoạn trích miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều sau đây:
“... Chiều buông xuống, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều

vàng trải lên cành lá, mái nhà một màu vàng ong mon đẹp lạ, vườn cây nhà tôi
cũng vậy. Giàn bầu nậm xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm.
ánh nắng chiều chiếu xuống làm giàn bầu trở thành màu xanh ngọc bích. Nhãn,
bưởi, mít và các loại cây khác nữa tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô
khổng lồ. Đó là mầu xanh no nắng, no gió và no... ”
Sau một vài đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh ngơn
từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở HS, kích thích các em
thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ là kỹ năng kỳ công nhất của thầy.
Sau khi tạo hướng thú cho HS qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn lọc,
chúng tôi mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra
một loạt hình ảnh, yêu cầu HS dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so
sánh, nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình gợi âm để tập diễn đạt .
Ví dụ : Hình ảnh cây đa -> Cây đa xum xuê, um tùm như chiếc ô khổng
lồ, hứng lấy nắng mưa bảo vệ cho cái giếng làng thân quen, thấp thống sau
tán lá đa là mái đình cổ kính ...
- Hình ảnh đồng cỏ -> Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng nhọn trải
bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ may rung
rinh trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn một điệu múa bale.
Ở giai đoạn luyện kỹ năng diễn đạt như thế này chúng tôi đặc biệt chú ý
đến phép so sánh, nhân hóa trong các câu văn. Có thể đây là nốt luyến cho
những bản nhạc ngôn từ. Tôi đã hướng cho HS luyện tập cách dùng so sánh
khác nhau sao cho thật đa dạng phong phú gợi cảm, tạo ấn tượng.
Ví dụ : - Dịng sơng q em dưới đêm trăng mềm mại như một mái tóc.
- Những lá sen già khum khum chắng khác gì những chiếc thúng đựng đầy ắp
nắng chiều mùa thu .
- Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn triệu
con mắt lá răm sáng trưng nắng hè .
10



3.6. Rèn luyện kỹ năng chuyển cảnh, chuyển ý :
Sau một vài đoạn văn như thế, thầy cơ phân tích những hình ảnh ngơn
từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở HS, kích thích các em
thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ rèn kĩ năng diễn đạt là một phương
pháp địi hỏi kỳ cơng nhất của thầy trị, cần phải mất một q trình.
Tạo được sự hứng thú cho các em xong, thầy cô mới cho các em luyện
tập diễn đạt bằng hình thức ra một loạt hình ảnh, yêu cầu các em dùng lời văn
kết hợp biện pháp nghệ thuật để tập diễn đạt.
Ví dụ: - Đầu xuân, ánh nắng ban mai chưa đủ xua đi màn sương chờn
vờn nhưng cành lá me tây đã xòe tay che chắn cái lạnh cho em.
- Mỗi phòng học em đi qua, bàn ghế như còn say ngủ. Sáng dậy, bảng
đen được các cậu học trò lau đi cái khn mặt nhăn nhó sau một đêm ngái ngủ.
Gần mười ngày nghỉ tết, dàn máy vi tính buồn nhớ các cậu học trị.
Cách này chúng tơi cũng cho HS luyện trong nhiều tiết học để trở thành
thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho HS kết hợp về tìm đọc tư liệu
sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất.
Lời văn chuyển cảnh khơng nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc
liên kết, liên hồn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu tả
cảnh. Chúng ta cần “mách nhỏ” cho các em một số cách chuyển cảnh sau đây:
+ Các cảnh được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mơ típ liên cảnh.
Vd: Chỉ một lát con đường đã dẫn em tới trường. Ngôi trường...
+ Chuyển cảnh nhờ hình ảnh trung gian. VD: Mặt trời ngoi lên khỏi núi,
các bạn học sinh từ các nẻo đường đổ về ngày càng đông.
+ Hướng chuyển cảnh theo gam màu. VD: Sáng nay, nền trời như tấm
thảm xanh treo trên cao. Dưới sân trường, là một màu xanh của cây lá. Hòa
trong màu xanh là màu áo trắng học trò. ..
+ Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với khơng gian, lấy động để tả
tĩnh: Ví dụ: Trên sân trường, rộn rã tiếng bước chân, tiếng nói, tiếng cười. Đột
nhiên, một hồi trống vang lên, sân trường bỗng chốc vắng lặng...
11



4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn.
Quá trình thực hiện qua nhiều năm đứng lớp, tơi tin chắc rằng những gì
tơi đã trình bày sẽ đem đến sự chuyển biến trong hướng dẫn làm văn miêu tả
cho các em. Trước mắt là đã phá bỏ được mặc cảm của HS với môn văn trừu
tượng là môn ngại viết, ngại nghĩ.
Sau đây là một vài con số thực tế và kết quả của HS ở môn Ngữ văn lớp
6, sau khi được cung cấp các kĩ năng về phương pháp miêu tả HS đã viết bài
hoàn chỉnh, và kết quả được phản ánh như sau: Năm học 2012-2013, lớp 6A tơi
phụ trách có 37 HS thì kết quả đạt được là: Giỏi 7/37= 18,9%; Khá 15/37=
40,5%; TB 14/37=37,8%; Kém 1/37= 2,8%.
Năm học 2015-2016, lớp 6B tôi đang phụ trách, qua bài viết số 5 và một
vài bài tập ngắn các em đã làm tôi nhận thấy cách làm bài của các em có nhiều
kết quả tốt, số lượng bài viết có chất lượng cao, đạt điểm 8 trở lên tương đối
nhiều tiêu biểu kể đến: Như Quỳnh, Bích Ngọc, Loan, Đức Tồn, Thu Un….
Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này giúp các em HS có kỹ năng
làm bài văn miêu tả được nâng cao hơn. Tạo cho các em niềm say mê với môn
văn, các em cảm nhận được các sự vật thiên nhiên rất gần gũi ngay trong cuộc
sống đời thường, tạo được những cảm xúc chân thực với cảnh vật khi miêu tả.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Giảng dạy và ôn tập môn ngữ văn, đặc biệt là phần văn miêu tả là một
vấn đề không dễ bởi đây là mảng kiến thức rất quan trọng giúp HS vừa củng cố
các kiến thức đã học, các kỹ năng làm bài mà còn gợi mở hướng cho HS lĩnh
hội kiến thức để học lên THPT, để HS có kiến thức, kỹ năng để làm tốt các thể
loại văn ở các lớp trên trong cấp THCS. Để thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên, HS
làm tốt một số vấn đề sau:
12



- HS phải có khả năng tìm hiểu vấn đề, phải có vốn ngơn từ phong phú,
cách sử dụng ngơn ngữ trau chuốt, diễn đạt tình cảm, rung động chân thành của
mình về hình ảnh trong thực tế cuộc sống; HS phải rèn cho mình có ý thức
thường xun quan sát các cảnh vật, sự vật, sự việc thường xuyên sảy ra, diễn
ra trong cuộc sống hàng ngày.
- Giáo viên phải bồi dưỡng cho HS lòng say mê văn học, có tư tưởng,
lập trường đúng đắn.
Sáng kiến đã giải quyết được những băn khoăn, đơn điệu trong quá trình
lên lớp của tôi so với ngày đầu tiếp cận với văn miêu tả. Nếu sáng kiến được áp
dụng sẽ phần nào đơn giản hóa, cụ thể hóa khi dạy dạng văn miêu tả. Từ đó mà
có những định hướng đúng mục tiêu, xác định đúng đối tượng miêu tả và có
những phương pháp cụ thể phù hợp khi giảng dạy văn miêu tả.
2. Kiến nghị:
Với Nhà trường: Cần khuyến khích động viên giáo viên nghiên cứu, áp
dụng những sáng kiến hay để đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng chuyên môn.
Đối giáo viên: Phải ln có ý thực tự học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng
cao trình độ chun mơn, trao đổi kinh nghiệp với các đồng nghiệp để nâng
cao hiệu quả giảng dạy.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân. Tơi rất mong
sự đóng góp của các thầy cô đồng nghiệp và các ban ngành phụ trách chuyên
môn để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng được hồn thiện hơn, có hiệu
quả hơn trong những năm tiếp theo .
Xin chân thành cảm ơn!

13


Ngọc Lũ, ngày 01 tháng 03 năm 2016

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM

Người viết

Trần Đức Tồn
Giáo viên THCS Ngọc Lũ

PHỊNG
GIÁO
DỤC
ĐÀO
TẠO
Người
thực
hiện:
Trần
ĐứcBÌNH
Tồn LỤC
TRƯỜNG THCS NGỌC LŨ
14


Chức vụ: Tổ trưởng Tổ KHXH&NV

Ngọc Lũ, ngày 01 tháng 02 năm

15




×