Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

skkn Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.88 KB, 47 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, với những bước tiến nhảy vọt của cuộc
cách mạng khoa học - cơng nghệ, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống
vật chất và tinh thần của xã hội; kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trị quan
trọng, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Đó là những cơ hội và cũng là
những thách thức lớn cho mọi quốc gia. Trong bối cảnh đó, giáo dục được xem
là một trong những nhân tố quyết định tương lai của các dân tộc. Điều đó địi
hỏi giáo dục phải phù hợp với thời đại. Hầu hết các nước trên thế giới đã và
đang tiến hành cải cách giáo dục, nhằm đáp ứng một cách năng động, hiệu quả
hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu phát triển đất nước.
Nghị quyết Số: 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng chỉ rõ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới
những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục
tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện;
đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản
trị của các cơ sở Giáo dục và Đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng,
xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Chất lượng giáo dục là vấn đề quan trọng hàng đầu của hoạt động giáo dục.
Chất lượng giáo dục phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu giáo dục, nội dung,
phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động giáo dục.
Chất lượng giáo dục không tốt thì mục tiêu giáo dục khơng đạt được. Trong thời
gian gần đây, chất lượng giáo dục đã được sự quan tâm, chú ý của mọi người
trong xã hội. Giáo dục ngày càng phát triển cả qui mô, phương thức giáo dục và
mạng lưới các cơ sở giáo dục. Đối với cơng tác Giáo dục và Đào tạo thì đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm lớp đóng một vai trị hết sức quan trọng. Chính vì vậy, xây
dựng và phát triển đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp là một trong những nhiệm
vụ cấp thiết của ngành giáo dục và của tất cả các nhà trường.


Ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS, người GVCNL có vai trị hết sức


quan trọng, vì lứa tuổi học sinh THCS từ 11 – 14 tuổi đang rất cần có sự giúp đỡ
và định hướng của người lớn. Nếu khơng, với vốn kinh nghiệm sống ít ỏi của
mình, các em sẽ khó tránh khỏi những ảnh hưởng khơng lành mạnh, nhất là mặt
trái trong nền kinh tế thị trường như hiện nay ở nước ta.
Trước hết người GVCNL được coi là người thay mặt Hiệu trưởng làm công tác
quản lý và giáo dục học sinh của một lớp học, là người gần gũi thân mật, là
người hướng dẫn, chỉ đạo, khuyên nhủ học sinh mỗi khi các em gặp khó khăn.
GVCNL có trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động của tập thể lớp và tác
động đến sự phát triển nhân cách của từng học sinh trong tập thể đó, chịu trách
nhiệm trước nhà trường về chất lượng giáo dục của lớp mình.
Để tổ chức các hoạt động giáo dục đạt kết quả, người GVCNL cần phải có một
hệ thống các kỹ năng nhất định. Trong mỗi kỹ năng, họ phải thực hiện một
chuỗi những thao tác và việc làm có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, địi hỏi
mỗi người phải cố gắng trau dồi, rèn luyện thường xuyên để thực hiện các kỹ
năng một cách thành thạo.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà trường, người Hiệu trưởng cần
phải quan tâm đến đội ngũ GVCNL, đây là lực lượng chủ đạo trong công tác
giáo dục đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường Nội
trú.
Xây dựng đội ngũ GVCNL giỏi làm lực lượng nòng cốt là cơng tác có ý nghĩa quyết
định trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở nhà trường Phổ thông Dân tộc Nội trú
THCS.
Sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ, trưởng thành của
từng tập thể lớp học, gắn liền với sự tiến bộ và trưởng thành của đội ngũ giáo
viên, đặc biệt là các GVCNL. Chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường phụ
thuộc phần lớn vào kết quả công tác giáo dục của từng giáo viên chủ nhiệm đối


với lớp mà họ phụ trách. Công tác GVCNL là một bộ phận quan trọng trong
tổng thể các hoạt động của nhà trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục toàn diện cho học sinh. Chất lượng giáo dục là chất lượng của sản
phẩm của nhà trường và chất lượng sản phẩm này phải đáp ứng yêu cầu sử
dụng của xã hội trong từng thời kỳ.
Với những lý do trên, tôi chọn Sáng kiến kinh nghiệm "Biện pháp quản
lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường Phổ thông Dân
tộc Nội trú THCS ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu.
2.Thời gian thực hiện và triển khai SKKN
Sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện và triển khai từ tháng 1/2017 đến
tháng 3/2018.

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận về công tác Giáo viên chủ nhiệm lớp và việc Quản lí cơng
tác Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ
sở.
1.1. Những khái niệm cơ bản của SKKN.
a. Giáo dục và Giáo dục toàn diện
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ lồi người, nhờ có
giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc của
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội lồi người không
ngừng tiến lên. Các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra nhiều định nghĩa về giáo
dục:
- Theo “Từ điển Giáo dục” (NXB Từ điển bách khoa): “Giáo dục là hoạt động
hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm


truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi
dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất, nhân cách, phù hợp với mục đích , mục tiêu chuẩn bị
cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội”

- Theo Đặng Vũ Hoạt và Nguyễn Hữu Dũng: “Giáo dục là một nhu cầu tất yếu
của xã hội và sự xuất hiện hiện tượng giáo dục là một tất yếu lịch sử. Nó diễn ra
theo cơ chế những thế hệ đi trước truyền lại cho những thế hệ đi sau những kinh
nghiệm tích luỹ được và thế hệ sau tiếp thu nó làm phong phú thêm vốn kinh
nghiệm đó. Chính nhờ cơ chế này những giá trị vật chất và những giá trị tinh
thần của lồi người khơng những khơng bị mai một đi mà điều quan trọng là lại
được phát triển không ngừng”
Từ các định nghĩa trên, ta thấy giáo dục là một khái niệm cơ bản thường được
dùng trong khoa học và thực tiễn đời sống xã hội. Ta có thể hiểu một cách
chung nhất: Giáo dục là hoạt động chuyển giao hệ thống tri thức cho thế hệ sau
nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân – xã hội, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển xã hội. Khái niệm giáo dục còn được phân nhỏ về ngoại diên và nội
hàm thành các khái niệm: Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã
hội; về nội dung giáo dục thì có: Giáo dục ý thức cơng dân, giáo dục văn hốthẩm mỹ, giáo dục lao động, hướng nghiệp, giáo dục thể chất – quân sự, giáo
dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục giới tính, giáo dục phịng chống ma
t…
Giáo dục được coi là khởi nguồn của sự phát triển. Khơng có giáo dục thì khơng
có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Chính
nhờ có giáo dục mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của các thế hệ trước được
truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ ngày càng phong phú làm
cho xã hội phát triển.


Giáo dục toàn diện: Theo Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng: “Giáo dục
toàn diện là những biện pháp tổng thể của nhà trường, gia đình và xã hội tác
động tới học sinh, sinh viên nhằm hình thành và phát triển tất cả các mặt: trí tuệ,
đạo đức, sức khoẻ và nhân cách con người nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc của mỗi cá nhân. Giáo dục toàn diện trong
nhà trường thường biểu hiện ở nội dung giáo dục bao gồm đầy đủ các mặt: đức
dục, trí dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục nghề nghiệp…phù hợp với điều kiện và

đặc điểm đặc thù của từng cấp học, bậc học”
“Thực hiện giáo dục toàn diện nhằm đào tạo những người lao động có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức, có tri thức văn hố, có sức khỏe và có kỷ
luật. “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh
sinh viên”. Giáo dục truyền thống cách mạng, văn hoá dân tộc xuyên suốt các
hoạt động và mọi hình thức giáo dục. Ở đây, việc chú trọng cải tiến nâng cao
chất lượng, hiệu quả giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với từng bậc
học, cấp học là hết sức quan trọng, quan tâm đến việc tăng cường học ngoại
ngữ, tin học”
b. Quản lý, chức năng quản lý
Quản lý: Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển
đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, bất luận tổ chức có mục đích gì, cơ
cấu và qui mơ ra sao, đều cần đến hoạt động quản lý và có người quản lý để tổ
chức hoạt động và đạt được mục đích của mình. Vậy hoạt động quản lý là gì ?
- Theo Đại từ điển tiếng Việt, quản lý là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của
một đơn vị, một cơ quan: quản lý lao động, quản lý cán bộ, quản lý công việc’’
hoặc quản lý là: “Trông coi, giữ gìn, theo dõi việc gì: quản lý hồ sơ lý lịch, quản
lý vật tư.”


- Quản lý có thể xét theo ngữ nghĩa: Quản lý = Quản + Lý, quá
trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”, quá
trình “Lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp đổi mới hệ vào thế “phát triển”. Nếu
người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “Quản”, tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn
thì tổ chức dễ trì trệ, tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc “Lý” tức là chỉ lo
việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định thì
sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong “Quản” phải có “Lý”,
trong “Lý” phải có “Quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động: Hệ vận
động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố

bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực)
Các định nghĩa khác:
- Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới
mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với qui luật khách quan.
- Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể và
đối tượng quản lý qua con đường tổ chức; là sự tác động điều khiển, điều
chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng
vào việc hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội.
Chức năng quản lý: Nhiều người đã khái quát hoá hoạt động quản lý thành một
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách thực hiện bốn chức năng:
+ Chức năng kế hoạch hóa.
+ Chức năng tổ chức.
+ Chức năng chỉ đạo thực hiện.
+ Chức năng kiểm tra đánh giá.
Bốn chức năng này được coi như bốn công đoạn tạo nên một chu trình quản lý.
Các chức năng này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen với nhau và đều cần


đến thơng tin quản lý. Ta có thể mơ hình hóa hoạt động quản lý như một chu
trình với các chức năng đó như sau:
Sơ đồ 1: Chu trình quản lý

Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Người quản lý cần phối hợp và sử
dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực của tổ chức để đạt được mục
tiêu giáo dục. Khái niệm "Quản lý giáo dục", chủ yếu có hai cấp độ: Cấp vĩ mơ
và cấp vi mô.
- Đối với cấp vĩ mô: Quản lý hệ thống giáo dục có thể xác định như là tác động
có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp

khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến các trường, các cơ sở
giáo dục khác,...) nhằm mục đích bảo đảm việc giáo dục xã hội chủ nghĩa cho
thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những qui luật chung của chủ nghĩa
xã hội, cũng như của các qui luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể
lực và tâm lý của trẻ em, thiếu niên và thanh niên.


- Đối với cấp vi mô: Trường học là một thiết chế xã hội trong đó có diễn ra q
trình đào tạo, giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố: “Thầy –
Trò”. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của Hệ
thống giáo dục quốc dân nó là đơn vị cơ sở.
Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ
chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác,
cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế
hệ trẻ, với từng học sinh.
Tóm lại, quản lý trường học về bản chất là quản lý con người (tập thể cán bộ,
giáo viên và học sinh) và quản lý các nguồn lực cơ sở vật chất – thiết bị giáo
dục của nhà trường. Do đó, có thể hiểu quản lý trường học là những tác động tối
ưu của chủ thể quản lý (lãnh đạo trường học) đến giáo viên, học sinh và các cán
bộ khác nhằm tận dụng các nguồn lực hướng vào đẩy mạnh các hoạt động của
nhà trường. Tiêu điểm là thúc đẩy quá trình đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có chất
lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mong
muốn.
d. Vai trò quản lý của Hiệu trưởng
- Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường,
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận.

- Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phải được đào tạo,
bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học.
* Theo điều 19 của Điều lệ trường THCS Hiệu trưởng có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:


+ Tổ chức bộ máy nhà trường;
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
+ Quản lý giáo viên, nhân viên, học sinh; quản lý chuyên môn; phân công công
tác, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, nhân viên;
+ Quản lý và giáo dục học sinh;
+ Quản lý hành chính, tài chính, tài sản của nhà trường;
+ Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên,
học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường;
+ Được theo học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ hiện hành
.
Trong các nhà trường cần xây dựng những mơ hình quản lý có tính mềm dẻo,
linh hoạt. Người giáo viên cần có cơ hội tương tác nhiều hơn với người đứng
đầu nhà trường. Vì vậy, mơ hình quản lý ''hợp tác" ''cộng tác" cần được hình
thành và phát triển mạnh mẽ hơn, trên cơ sở tính năng động và sáng tạo của
người Hiệu trưởng. Nhờ đó người Hiệu trưởng có thể đảm đương vai trị
''người lãnh đạo chuyên môn" và người quản lý cao nhất.
1.2. Nội dung công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và chức năng của giáo viên
chủ nhiệm lớp ở Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở
a. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp
trong nhà trường phổ thông.
Trong nhà trường phổ thông người GVCNL có vị trí, vai trị rất quan trọng:
- GVCNL là người thay mặt Hiệu trưởng thực hiện nguyên lí giáo dục của
Đảng, Nhà nước và mục tiêu, kế hoạch của ngành giáo dục và đào tạo trong một
lớp học - đơn vị cơ bản của nhà trường .

- GVCNL là người trực tiếp quản lí giáo dục tồn diện học sinh trong
một lớp học: cụ thể hoá mục tiêu, kế hoạch và chương trình hành động của


nhà trường ở từng lớp học. GVCNL có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc
và kiểm tra các hoạt động của lớp mình, chịu trách nhiệm trước nhà trường
và hội đồng nhà trường về chất lượng giáo dục toàn diện của lớp mình.
- GVCNL là đầu mối của sự phối hợp trong việc hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh trong lớp học, thống nhất mối liên hệ và mọi tác động
giáo dục, liên kết, phối hợp với giáo viên bộ môn, Đội thiếu niên tiền phong Hồ
Chí Minh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội khác để thống nhất các
biện pháp giáo dục học sinh trong lớp.
- GVCNL là cầu nối giữa nhà trường và các lực lượng giáo dục khác
với tập thể học sinh và mỗi cá nhân học sinh: truyền đạt và tổ chức thực hiện
những kế hoạch, nội qui, nền nếp, các chỉ thị, yêu cầu của Hiệu trưởng đến
từng học sinh trong lớp học. Đồng thời GVCNL cũng báo cáo cho Hiệu
trưởng những thơng tin từ phía học sinh, phản ánh kịp thời và đầy đủ diễn
biến của tập thể học sinh và từng cá nhân học sinh về những tâm tư nguyện
vọng, đề đạt kiến nghị của học sinh để giúp Hiệu trưởng quản lí có hiệu quả
hơn.
Người GVCNL trước hết phải thực hiện tốt nhiệm vụ của người thầy giáo
nói chung đó là mẫu mực về đạo đức, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nắm vững mục tiêu giáo dục
và đào tạo, kế hoạch và chương trình hoạt động của nhà trường (gồm mục tiêu
cấp học, chỉ thị của ngành, chương trình giảng dạy các mơn học, kế hoạch năm
học của nhà trường, các văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề giáo dục và
dạy học) để có cơ sở xây dựng kế hoạch hoạt động của bản thân nhằm đảm bảo
hiệu quả giáo dục. Ngoài cơng tác chủ nhiệm lớp, người GVCNL cịn đảm nhận
giảng dạy một mơn học ở lớp mình và các lớp khác do đó cần xác định rằng
giảng dạy tốt là điều kiện cần thiết để tạo ra uy tín của người GVCNL trước tập

thể và cá nhân học sinh, làm tăng hiệu quả của công tác GVCNL.


b Nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
Nắm vững học sinh một cách toàn diện là nắm vững đặc điểm tâm sinh
lý của mỗi học sinh, điều kiện hồn cảnh gia đình của học sinh, những mối
quan hệ của cá nhân học sinh, nắm vững tính cách và những hành vi đạo đức,
trình độ, khả năng của học sinh, tìm hiểu những nhu cầu năng lực của học
sinh…Qua đó người GVCNL có thể dự báo xu hướng phát triển nhân cách của
từng học sinh trong lớp để có phương hướng tổ chức hoạt động giáo dục và
dạy học phù hợp với điều kiện và khả năng của từng học sinh.
- GVCNL cần thăm hỏi gia đình học sinh, tìm hiểu và trị chuyện với các
bậc phụ huynh để nắm được những điều kiện ảnh hưởng tới học sinh. Việc tìm
hiểu nắm vững hồn cảnh sống nói chung của từng học sinh là hết sức quan
trọng. Nó giúp GVCNL biết được nguyên nhân và các yếu tố tích cực hoặc tiêu
cực, những thuận lợi hay khó khăn đang tác động đến học sinh. Đồng thời biết
được phương pháp giáo dục của gia đình (tốt hay chưa tốt) để có thể tham mưu,
tư vấn và phối hợp với gia đình lựa chọn phương pháp tác động phù hợp.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp phối hợp với cha mẹ học sinh, Hội phụ huynh học
sinh trong việc giáo dục
Hội phụ huynh học sinh là một trong những lực lượng giáo dục có ảnh
hưởng lớn đến q trình học tập và rèn luyện của học sinh. Việc phối hợp chặt
chẽ giữa nhà trường và gia đình là cần thiết và tạo ra những điều kiện thuận lợi
để học sinh học tập và rèn luyện.
Gia đình là mơi trường giáo dục - lực lượng giáo dục đầu tiên, ảnh hưởng
một cách sâu sắc đến học sinh. Vì vậy giáo dục gia đình trở thành một bộ phận
quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Giáo dục gia đình có những đặc trưng
riêng, nên nhà trường phải liên kết với gia đình để đảm bảo tính thống nhất tồn
vẹn của q trình giáo dục, có như vậy thì giáo dục gia đình mới phát huy được
ảnh hưởng và cùng với nhà trường giáo dục học sinh có hiệu quả. Chính

GVCNL là người thay mặt nhà trường thực hiện sự liên kết này. GVCNL giúp


cha mẹ học sinh hiểu rõ chủ trương, kế hoạch giáo dục của nhà trường và mục
tiêu, kế hoạch phấn đấu của lớp trong từng năm học. Trên cơ sở đó, GVCNL
thống nhất với gia đình về u cầu, nội dung, biện pháp, hình thức giáo dục.
GVCNL cũng đề nghị gia đình tạo mọi điều kiện cần thiết để học sinh học tập,
rèn luyện ở nhà theo mục tiêu giáo dục của nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp với việc xây dựng tập thể học sinh: Tập thể học sinh
trong nhà trường được coi là môi trường, phương tiện để giáo dục mỗi học sinh,
trong đó mỗi thành viên đều có điều kiện để phát triển tồn diện. Tác dụng giáo
dục của tập thể học sinh là rất lớn nếu ta xây dựng được những tập thể học sinh
vững mạnh.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp với việc giáo dục mỗi cá nhân học sinh trong
tập thể lớp: Sự trưởng thành của tập thể lớp có sự đóng góp của mỗi cá nhân
học sinh trong tập thể ấy. Sự trưởng thành của mỗi cá nhân không thể tách rời
sự trưởng thành của tập thể. Mục đích cuối cùng của tồn bộ quá trình giáo dục
là hình thành nhân cách cho mỗi học sinh. Do đó giáo dục mỗi thành viên của
tập thể lớp là một trong những nội dung công tác quan trọng của người
GVCNL.
- Giáo dục đạo đức, pháp luật và nhân văn cho học sinh: Tổ chức thi đua
học tập, rèn luyện đạo đức trong học sinh; có kiểm tra, đánh giá, tuyên dương,
khen thưởng cá nhân, nhóm, tổ hàng tuần, hàng tháng, học kỳ, năm học. Tuỳ
theo từng thời điểm và tình hình cụ thể của lớp, của trường, của địa phương, đất
nước để chọn chủ đề phù hợp.
- Tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát triển nhận thức, trí tuệ học
sinh: GVCNL thơng qua tập thể lớp đề ra những yêu cầu học tập đối với các
em, xây dựng dư luận tập thể lành mạnh, giúp các em xác định rõ nghĩa vụ
học tập của mình, xác định được động cơ thái độ học tập đúng đắn, tích cực
tìm tịi biện pháp hay, tốt để đạt kết quả học tập cao nhất.



- Tổ chức các hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp: căn cứ vào
kế hoạch chung của nhà trường, dựa vào tình hình cụ thể của lớp, GVCNL cần
xây dựng kế hoạch lao động cụ thể để giáo dục học sinh. Cần tổ chức các hoạt
động này một cách hệ thống, vừa sức với học sinh để vừa có hiệu quả giáo dục
vừa có hiệu quả kinh tế. GVCNL giúp các em tìm hiểu về nhu cầu nghề nghiệp
của xã hội, của địa phương. Đối với học sinh lớp 12 cần hướng dẫn, giúp đỡ các
em lựa chọn được nghề thích hợp với khả năng của các em và yêu cầu của xã
hội.
- Tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải
trí: GVCNL cần quan tâm cố vấn cho cán bộ lớp, cán bộ đoàn tổ chức cho cả
lớp vui chơi, giải trí, rèn luyện sức khoẻ như: các trị chơi, các hoạt động thể
thao, văn nghệ, tham quan du lịch, cắm trại, xem triển lãm, xem phim tập thể,
thi thanh lịch, thi tìm hiểu về văn hố xã hội, tìm hiểu về truyền thống nhà
trường, địa phương, hoạt động giao lưu văn hoá giữa các trường. Qua các hoạt
động này giúp các em sảng khối tinh thần, mở mang trí tuệ, phát triển thể chất,
tăng cường sức khoẻ, hình thành các phẩm chất nhân cách cơ bản như: lòng yêu
nước, u q hương, tình cảm thầy trị, tinh thần tập thể, lịng nhân ái. Đồng
thời hình thành các phẩm chất cá nhân: trung thực, kỷ luật, khiêm tốn, tự trọng,
kiên trì, dũng cảm, lễ phép, lịch sự, tế nhị, biết tự kìm chế tạo điều kiện cho học
sinh giao tiếp, hình thành ý thức, năng lực hồ nhập vào cộng đồng xã hội sau
này.
c .Những yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp
GVCNL là người giáo viên bộ môn, được hiệu trưởng phân công phụ
trách quản lý một tập thể lớp về mọi mặt, do vậy người GVCNL trước hết phải
có phẩm chất của người giáo viên (nhà sư phạm): có phẩm chất đạo đức tốt, có
trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có khả năng và năng lực vững vàng, có sức
khoẻ tốt. GVCNL phải thực hiện các chức năng rất quan trọng là giáo dục học
sinh lớp mình, góp phần hình thành nhân cách của học sinh, thực hiện mục tiêu



giáo dục, do đó người GVCNL phải phấn đấu và rèn luyện mình theo các yêu
cầu đặc trưng sau:
- GVCNL phải có lý tưởng nghề nghiệp đúng đắn, có lập trường tư tưởng
vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
- GVCNL phải thật sự là người say mê, nhiệt tình với cơng tác chủ nhiệm,
“tất cả vì học sinh thân u”, có lịng nhân ái rộng lớn, khắc phục khó khăn để
hồn thành nhiệm vụ.
- GVCNL phải là người có chun mơn vững vàng, có tay nghề cao.
- GVCNL phải có sự khéo léo đối xử sư phạm, phải có uy tín với học sinh và
cha mẹ học sinh.
- GVCNL khơng ngừng rèn luyện, hình thành những kỹ năng sau:
Kỹ năng nắm vững học sinh và tập thể học sinh một cách toàn diện; kỹ
năng tiếp cận đối tượng ( học sinh, phụ huynh, các đối tượng xã hội cần giao
tiếp); năng lực cảm hoá, thuyết phục, xây dựng uy tín; kỹ năng kế hoạch hố
cơng tác GVCNL; kỹ năng tổ chức lãnh đạo mọi hoạt động tập thể; kỹ năng
phối hợp với các lực lượng giáo dục học sinh.
1.3. Quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trong nhà
trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở.
Trong nhà trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở, Hiệu trưởng là
người đại diện chức trách hành chính, là người quản lý và lãnh đạo cộng đồng
giáo dục, có trách nhiệm và thẩm quyền cao nhất về hành chính và chuyên môn,
chịu trách nhiệm trước nhà nước và nhân dân, tổ chức và quản lý mọi hoạt động
của nhà trường theo đường lối giáo dục của Đảng.
Với tư cách là nhà quản lý, người Hiệu trưởng có trách nhiệm quản lý
mọi hoạt động của nhà trường, quản lý mọi tổ chức trong nhà trường. Hoạt động
giáo dục của nhà trường chỉ có kết quả cao khi Hiệu trưởng biết huy động sự



tham gia đồng bộ, nhịp nhàng ăn khớp của các bộ phận trong trường trong đó có
đội ngũ GVCNL. Sự phát triển của nhà trường, chất lượng giáo dục và đào tạo
toàn diện của nhà trường phải kể đến sự đóng góp đáng kể của đội ngũ
GVCNL.
Đội ngũ GVCNL là lực lượng nịng cốt trong cơng tác giáo dục, là đội ngũ trợ
lý quan trọng, trực tiếp quản lý toàn diện các lớp học sinh; Báo cáo cho hiệu
trưởng những thông tin cần thiết về học sinh, về tập thể lớp, về các hoạt động
giáo dục theo định kỳ và đột xuất. Chính họ biết khai thác và phát huy sức mạnh
tổng hợp của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để thực hiện
mục tiêu giáo dục của nhà trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở.
a. Xác định mục tiêu và lập kế hoạch cho công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
Trong nhà trường, đơn vị tổ chức cơ bản để giảng dạy và học tập là lớp học.
Để quản lý trực tiếp một lớp học nhà trường cử ra những giáo viên giỏi, nhiệt
tình để làm chủ nhiệm lớp. GVCNL là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý
toàn diện một lớp học. GVCNL là nhân vật trung tâm, là linh hồn của lớp, tập
hợp, đồn kết học sinh trong tập thể, có vai trò lớn trong tổ chức mọi hoạt
động của lớp, nhằm giáo dục học sinh. Họ chịu trách nhiệm trước nhà trường
về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh của mình.
Sau khi xác định mục tiêu người Hiệu trưởng phải đưa ra các biện pháp
cải tiến công tác GVCNL.
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm về công tác GVCNL.
- Qui định mối liên hệ thường xuyên giữa Ban giám hiệu với GVCNL (họp giao
ban, định kỳ báo cáo,…)
- Đề ra được qui chế hoạt động cho tổ GVCNL và từng GVCNL. Hiệu
trưởng hướng dẫn GVCNL xây dựng nội dung cơng tác GVCNL, coi trọng hình
thức, nội dung sinh hoạt, hoạt động tự quản; xây dựng tập thể lớp, chi đoàn


vững mạnh toàn diện…Những nội dung thi đua thật cụ thể, chi tiết cho từng
hoạt động, cho từng thời kỳ, từng nội dung thi đua.

- Có kế hoạch chung của nhà trường về các hoạt động ngoại khoá, lao
động, văn nghệ, thể dục thể thao… để GVCNL chủ động đề ra kế hoạch hoạt
động của lớp mình.
- Tạo điều kiện cho GVCNL được được rèn luyện về chuyên môn nghiệp
vụ. Những yêu cầu công việc của người quản lý đưa ra phải có tính thực tế và
cái đích cuối cùng của mọi cơng việc là phải có tác dụng giáo dục cao.
b. Bố trí đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp
Việc phân công GVCNL đầu năm cần:
- Căn cứ vào qui mô nhà trường: số học sinh, số lớp, số giáo viên hiện
có.
- Phân lớp chủ nhiệm cho giáo viên phải có giờ dạy trên lớp, ưu tiên mơn
có nhiều giờ.
- Cố gắng đảm bảo cho GVCNL theo liên tục bốn năm liền đối với một
lớp, trường hợp đặc biệt mới thay GVCNL.
- Đối với lớp mũi nhọn của nhà trường phải bố trí GVCNL là người có
chun mơn vững vàng, phải dạy môn được chú ý đầu tư ở lớp đó.
- Đối với những lớp có học sinh "cá biệt", có nhiều học sinh yếu thì bố trí
GVCNL cứng rắn, giàu kinh nghiệm trong cơng tác giáo dục, có những phẩm
chất như : nhiệt tình, chu đáo, tỉ mỉ…
c. Động viên và theo dõi công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
- Một trong những việc làm cần thiết của Hiệu trưởng nhà trường là phải phát
động các phong trào thi đua trong nhà trường một cách thường xuyên, liên tục,
sôi nổi mang lại hiệu quả cho công tác giáo dục. Hiệu trưởng cần xây dựng


được những chỉ tiêu, tiêu chí, lượng hố tối đa các nội dung cho cả năm học,
cho từng kỳ, cho từng đợt thi đua phù hợp với đối tượng học sinh ở các khối lớp
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá chính xác, cơng bằng.
- Sau mỗi đợt thi đua, sau mỗi học kỳ, cuối năm học có sơ kết tổng kết
đánh giá và vạch ra được mặt mạnh, mặt yếu để có phương hướng phấn đấu,

khắc phục. Hiệu trưởng cần coi trọng đúng mức việc tuyên dương, khen thưởng
đối với những lớp có thành tích, những cá nhân học sinh có tiến bộ, có nhiều
thành tích.
- Phải nhìn nhận, đánh giá cơng lao của các GVCNL một cách công bằng, khen
chê kịp thời.
- Kịp thời động viên, khuyến khích đội ngũ GVCNL khi họ đạt được kết
quả tốt trong công tác.
- Kịp thời uốn nắn những lệch lạc, sai sót trong cơng tác giúp họ vượt qua
những khó khăn gặp phải và tạo các điều kiện cần thiết để GVCNL hoàn thành
nhiệm vụ.
- Quan tâm, tạo mọi điều kiện về vật chất, tinh thần cho các hoạt động
thuộc công tác GVCNL. Tạo điều kiện để các đoàn thể hoạt động phát huy hết
tác dụng đối với nhà trường.
d. Kiểm tra công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
Chất lượng văn hoá được thể hiện khá cụ thể, rõ ràng, song chất lượng
giáo dục đạo đức khó định lượng, khó đánh giá. Do vậy việc kiểm tra, đánh giá
công tác GVCNL của Hiệu trưởng sao cho khách quan, khoa học, có hiệu quả là
vấn đề cần được lưu ý, hiệu trưởng cần kiểm tra thường xuyên (đột xuất, định
kỳ), kiểm tra phải có đánh giá. Hiệu trưởng kiểm tra công tác GVCNL thông
qua hoạt động của các lớp, thông qua xếp loại thi đua hàng tuần, thông qua hồ
sơ, báo cáo hàng tháng, học kỳ…, cần lưu ý việc kiểm tra đánh giá học sinh của
GVCNL sao cho đảm bảo sự thống nhất chung trong toàn trường (tránh trường


hợp GVCNL quá dễ dãi hoặc quá khắt khe,…), hướng dẫn GVCNL đánh giá
hạnh kiểm học sinh sát với các tiêu chí chung.
2. Thực trạng về về cơng tác Giáo viên chủ nhiệm lớp và việc Quản lí cơng
tác Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ
sở trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Yên Bái

Yên Bái thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc với 30 dân tộc chung sống, trong đó
các dân tộc thiểu số chiếm gần 60%, đơng là dân tộc Tày, Dao, Mơng, Thái. n
Bái có 81 xã trên 180 xã, phường, thị trấn thuộc vùng đặc biệt khó khăn, 2
huyện thuộc diện nghèo nhất cả nước. Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ
XVIII (2015) đã xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp của ngành giáo dục Yên Bái là
“Nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; ưu tiên phát
triển giáo dục mũi nhọn và giáo dục vùng cao”.
Yên Bái có tiềm năng về đất đai, tài nguyên rừng, khống sản đa dạng, phong
phú. Trong đó có một số khống sản có trữ lượng lớn như đá q, đá hoa trắng ở
Lục Yên, đá vôi xám ở Lục Yên, Yên bình làm nguyên liệu cho sản xuất xi măng,
nguyên liệu gốm sứ (Fenlspát, cao lanh..), quặng sắt ở Văn Yên, Trấn Yên và Văn
Chấn…
Nền kinh tế Yên Bái đang dịch chuyển theo hướng cơng nghiệp hố. Từ năm
2010 đến nay tỷ trọng nông, lâm công nghiệp tăng mạnh. Các vấn đề kinh tế xã
hội, an ninh quốc phòng tiếp tục được phát triển theo chiều hướng tích cực.
2.2. Một số nét khái quát về Giáo dục và Đào tạo hệ thống trường Phổ thông
Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Từ thập niên 90 đến nay, dưới sự định hướng, lãnh đạo toàn diện của cấp uỷ
Đảng và chính quyền các cấp; được sự quan tâm sâu sắc, sự phối hợp và tạo
điều kiện của các ban ngành, các tổ chức đoàn thể; hệ thống các trường
PTDTNT đã được đầu tư: Cơ sở vật chất khang trang, cơ bản đáp ứng được nhu


cầu ăn, ở, học tập cho con em đồng bào các dân tộc của tỉnh Yên Bái. Đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên đảm bảo đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu.
Các trường PTDTNT chú trọng công tác tổ chức dạy học nâng cao chất lượng,
quán triệt mục tiêu giáo dục toàn diện, đổi mới phương pháp, nâng cao năng lực
chuyên môn, yêu thương và tôn trọng học sinh, trách nhiệm trước nhiệm vụ vẻ
vang của sự nghiệp “trồng người”. Các trường tổ chức triển khai việc giáo dục
hướng nghiệp, giáo dục nghề phổ thông cho 100% học sinh lớp cuối cấp; các

hoạt động lao động, văn hoá, thể thao và tổ chức đời sống nội trú cho học sinh
phù hợp với tính chất đặc thù của trường như: sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể
thao; các trò chơi dân gian, các hoạt động ngoại khóa theo chủ đề, chủ điểm
tháng... Chú trọng công tác giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng lao động thông qua
sinh hoạt tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tổ chức nấu ăn 3
bữa/ngày cho học sinh, quản lý tốt học sinh ở nội trú 24/24 giờ; duy trì việc
thực hiện nội quy nền nếp theo quy định. Với những hoạt động đó, các trường
PTDTNT từng bước khẳng định vị trí là trung tâm chất lượng quan trọng trong
hệ thống giáo dục dân tộc của tỉnh, là nơi tạo nguồn nhân lực chất lượng cho
vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn.
Đến năm học 2017 - 2018, tồn tỉnh có 9 trường PTDTNT với 88 lớp, 2.981 học
sinh, trong đó có 7 trường trung học cơ sở, 64 lớp, 2.109 học sinh; học sinh
người dân tộc thiểu số cấp THCS, được học tại các trường phổ thông dân tộc
nội trú chiếm tỷ lệ 7,12%. Trong tổng số 7 trường PTDTNT THCS có 06 trường
đạt Chuẩn Quốc gia: Trường PTDTNT THCS huyện Yên Bình, Văn Chấn, Lục
Yên, Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Yên. Trong các kỳ thi học sinh giỏi các
trường PTDTNT trong tỉnh đạt hàng trăm giải học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp huyện.
2.3. Thực trạng về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và việc quản lý công
tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên
địa bàn tỉnh Yên Bái.


Qua nghiên cứu thực trạng về công tác GVCNL và việc quản lý công tác
GVCNL ở các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh
n Bái. Chúng tơi thấy mặc dù có nhiều thuận lợi và ưu điểm nhưng cũng cịn
nhiều khó khăn, bất cập:
a. Những thuận lợi và ưu điểm
- Khi nhận lớp, GVCNL đều tìm hiểu học sinh về mặt chất lượng học tập,
rèn luyện ở lớp dưới, hoàn cảnh gia đình, nhu cầu, khả năng, đặc điểm của từng
học sinh. Từ đó xây dựng kế hoạch cơng tác GVCNL và đưa vào sổ chủ nhiệm

của GVCNL.
- Các GVCNL đều quan tâm, thực hiện đủ các chương trình giáo dục
chung như: Thực hiện nền nếp các tiết học, các tiết ngoài giờ lên lớp, tổ chức
các hoạt động của học sinh, các tiết sinh hoạt cuối tuần…
- GVCNL đều có kế hoạch giáo dục học sinh cá biệt và thực hiện có hiệu
quả.
- GVCNL phối hợp với cha mẹ học sinh để quản lý, giáo dục học sinh
thông qua các buổi họp cha mẹ học sinh. Cuối mỗi kỳ, GVCNL thông báo tình
hình học tập, rèn luyện của mỗi học sinh và tình hình chung của lớp cho cha mẹ
học sinh và nhận được những thông tin cần thiết của học sinh từ gia đình.
- GVCNL đã thực hiện tốt chủ trương dân chủ hố trường học, cơng
khai nội dung chương trình giáo dục và đào tạo, cơng khai việc cho điểm,
đánh giá, công khai kết quả thi đua, khen thưởng, kỷ luật học sinh; đặc biệt
thực hiện tốt các qui trình đánh giá xếp loại về hạnh kiểm, văn hố của học
sinh, tôn trọng ý kiến thể lớp. GVCNL đã phát huy vai trò của cán bộ lớp
trong việc tổ chức tự quản của học sinh, đặc biệt giúp các em tổ chức các
hoạt động tập thể ngoài giờ, hoạt động nhân đạo…
- Những hình thức khen thưởng được GVCNL sử dụng kịp thời đã tác
động mạnh mẽ đến học sinh. Đó là động lực thúc đẩy sự cố gắng vươn lên ở học


sinh, kích thích ở các em động cơ phấn đấu đúng đắn, tin tưởng vào khả năng
của bản thân.
- Một yếu tố rất quan trọng nữa đòi hỏi ở người thầy làm công tác chủ
nhiệm lớp là: Thầy phải luôn khách quan, công bằng trong việc đánh giá học
sinh. Điều này vơ cùng quan trọng, vì trong con mắt học sinh thầy bao giờ cũng
là tấm gương sáng để học sinh noi theo.
- Về mặt quản lý, các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa
bàn tỉnh Yên Bái đều nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị và tầm quan trọng của
cơng tác GVCNL. Các trường đều ưu tiên cho công tác GVCNL; khi phân công

chuyên môn đều căn cứ vào khả năng quản lý, chuyên môn của giáo viên, mỗi
trường đều thành lập tổ GVCNL do Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng trực tiếp
quản lý có nghị quyết và kế hoạch hoạt động riêng cho tổ GVCNL.
- Kết quả công tác GVCNL là một trong những nội dung chính được dùng
để đánh giá, xếp loại thi đua của giáo viên trong năm học và trong công tác
kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lý giáo dục.
b. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
- Ở các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Yên
Bái, ngoài việc học tập, trau dồi và chiếm lĩnh tri thức cịn có các hoạt động
ngồi giờ, vui chơi, giải trí, ăn, ở, ngủ, nghỉ tại trường. Nhưng hiện nay vì nhiều
lý do khách quan (kinh phí, thời gian, công tác quản lý học sinh,…) nên việc tổ
chức các hoạt động ngồi giờ lên lớp khơng được các nhà trường, GVCNL quan
tâm tổ chức thường xuyên.
- Mối quan hệ giữa GVCNL với học sinh trong lớp cịn có những khoảng
cách nhất định, GVCNL chưa thực sự gần gũi, quan tâm đến tất cả các học sinh
trong lớp. Do điều kiện của tỉnh miền núi, gia đình học sinh ở xa trường, đường
xá đi lại khó khăn nên việc đến thăm gia đình học sinh của GVCNL cịn hạn
chế, vì vậy sự phối kết hợp giữa GVCNL với gia đình học sinh chưa thường


xuyên. Thường thì GVCNL chỉ gặp cha( mẹ) học sinh thông qua các kỳ họp phụ
huynh đầu năm học, cuối kỳ một và kết thúc năm học, nhưng không phải gia
đình nào cũng đi họp đầy đủ, có những gia đình gần như phó mặc con cho nhà
trường, GVCNL...
- Một hạn chế cần nhắc đến là những hình thức xử phạt học sinh ở các
trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Yên Bái cịn
nhiều bất cập. Như áp dụng những hình phạt quá khắt khe, xử phạt nặng những
khuyết điểm nhỏ của học sinh. Những hình phạt đó khơng những khơng đem lại
tác dụng tích cực, thúc đẩy học sinh tiến bộ, nhiều khi còn phản tác dụng giáo
dục, tạo nên ấn tượng không tốt trong ý thức học sinh và phụ huynh học sinh.

- Một bộ phận GVCNL thiếu nhiệt tình, việc quản lý giáo dục học sinh
còn xem nhẹ, sự phối kết hợp giữa GVCNL với các lực lượng giáo dục trong xã
hội chưa chặt chẽ do đó cơng tác quản lý giáo dục học sinh cịn gặp nhiều khó
khăn. Một số ít giáo viên đánh giá học sinh chưa công bằng, một số GVCNL
chưa thực sự là “tấm gương sáng" cho học sinh noi theo, do đó hiệu quả cơng
tác GVCNL khơng cao. Một số trường cịn thiếu giáo viên, nhân viên nên việc
lựa chọn GVCNL gặp khó khăn, GVCNL phải dạy nhiều giờ, do đó khơng dành
nhiều thời gian và công sức cho công tác chủ nhiệm lớp.
- Hiện nay ở nhiều trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn
tỉnh Yên Bái điều kiện làm việc của GVCNL còn chưa được đảm bảo (cơ sở vật
chất cịn thiếu thốn, kinh phí đầu tư cho hoạt động ngồi giờ cịn nghèo nàn).
Một số Ban giám hiệu chưa coi trọng đúng mức công tác GVCNL, chưa biết
phát huy tác dụng hoặc chưa quan tâm giúp đỡ kịp thời đội ngũ GVCNL.
- Qua điều tra thực tế chúng tôi thấy những năm gần đây công tác GVCNL
trong nhà trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Yên
Bái chưa được coi trọng đúng như vị trí, vai trị của nó trong cơng tác giáo dục,
vì các lý do sau :


+ Về chế độ chính sách đối với GVCNL chưa hợp lý so với nhiệm vụ họ
đảm nhận. Ở một số trường, Hiệu trưởng chưa tạo điều kiện, môi trường tối ưu
cho GVCNL hoạt động hiệu quả. Do đó dẫn tới tình trạng nhiều giáo viên
khơng muốn làm cơng tác GVCNL vì quyền lợi khơng hơn gì giáo viên khác
mà trách nhiệm lại nặng nề, hao tổn sức lực, tinh thần, thời gian nhiều hơn.
Nhiều GVCNL muốn xin thôi để đầu tư vào giảng dạy, nâng cao năng lực
chuyên môn phấn đấu trở thành giáo viên giỏi hơn là GVCNL giỏi.
+ Một số giáo viên mới ra trường chưa chuẩn bị tốt kiến thức, kỹ năng
làm công tác GVCNL, nên trong công tác thực tế ở trường Phổ thông Dân tộc
nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh n Bái nhiều thầy, cơ cịn lúng túng, gặp
khó khăn.

+ Do xu thế chung của xã hội (nhiều thầy, cô, học sinh, cha mẹ học
sinh) chỉ quan tâm đến dạy học văn hố, ít chú ý tới việc giáo dục toàn diện .
+ Trong điều kiện hiện đại, xã hội ngày càng phức tạp, quan hệ xã hội
càng phong phú, học sinh tiếp cận thông tin bằng nhiều nguồn khác nhau, rất dễ
bị lơi kéo, kích động, dễ bị nhiễm tư tưởng bàng quan, thói quen hưởng thụ,
lười lao động; nhiều tệ nạn xã hội tác động, xâm nhập vào nhà trường như : văn
hoá phẩm đồi truỵ, hút thuốc lá, chia bè phái gây gổ đánh nhau, nghiện trò chơi
điện tử,…
+ Một số giáo viên không muốn làm công tác GVCNL một phần do ngại đối
đầu, giáo dục học sinh “cá biệt’’. Những học sinh này thường xuyên quậy phá, vi
phạm nội qui, qui chế của trường, của lớp gây ảnh hưởng tới phong trào thi đua
của lớp. Việc giáo dục các em thường gặp nhiều khó khăn và khơng đạt hiệu quả
như mong muốn. Điều đó tạo ra tâm lý chán nản, làm giảm ngọn lửa nhiệt tình,
yêu nghề, mến trẻ trong lòng người giáo viên.
+ Một số phụ huynh còn che đậy, lấp liếm những sai lầm khuyết điểm của
con em mình, thường khơng muốn hoặc khơng cộng tác với nhà trường và


GVCNL để có các hình thức giáo dục kịp thời, vì khơng muốn con mình bị phạt
hay bị xử lý kỷ luật. Cá biệt cịn có trường hợp phụ huynh khơng chấp nhận
hình thức kỷ luật của nhà trường do bênh con, xót con…
- Việc động viên khen thưởng cho GVCNL cịn ít hoặc chưa kịp thời.
- Các cấp quản lý giáo dục từ Phòng Giáo dục đến các nhà trường chưa tổ
chức hội nghị rút kinh nghiệm về công tác GVCNL; sinh hoạt chuyên đề về
công tác GVCNL.
Những lý do trên là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác
giáo dục của GVCNL ở các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở
trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Để khắc phục được tình trạng này bên cạnh sự nỗ lực,
cố gắng của từng GVCNL cần có sự phối hợp, giúp sức từ các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường, đồng thời phải có sự ủng hộ nhiệt tình của chính

học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh yêu trường, yêu lớp, kính trọng thầy cơ,
u q bạn bè, tích cực rèn luyện và học tập ? Đó là những câu hỏi đặt ra cần
được các nhà quản lý trường học : Ban giám hiệu và các GVCNL giải đáp.
3. Các biện pháp quản lí cơng tác Giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh
Yên Bái trong giai đọan hiện nay
3.1. Lập kế hoạch công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
Kế hoạch công tác GVCNL là cụ thể hoá mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung
giáo dục của một tập thể lớp. Kế hoạch công tác GVCNL là chương trình hoạt
động thực hiện vào từng giai đoạn cụ thể. Do đó Hiệu trưởng cần phải giúp đỡ
GVCNL nắm vững kế hoạch công tác của nhà trường cả năm, từng học kỳ, từng
tháng, đặc biệt là những định hướng về các mặt giáo dục, những chủ đề trong
năm học để GVCNL có căn cứ và làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch chủ
nhiệm của mình.


* Hiệu trưởng giúp đỡ GVCNL xây dựng kế hoạch công tác trong năm
học với những gợi ý công việc sau đây:
- Yêu cầu GVCNL lập kế hoạch công tác GVCNL theo mẫu đã được in
sẵn và sử dụng thống nhất trong nhà trường.
- Yêu cầu GVCNL lập kế hoạch công tác GVCNL theo mẫu đã được in sẵn và
sử dụng thống nhất trong nhà trường.
Yêu cầu GVCNL thực hiện điều tra cơ bản về học sinh của lớp ngay từ
tuần đầu của tháng 9. Thông qua việc hướng dẫn giáo viên sử dụng mẫu phiếu
điều tra, tổ chức bàn giao công tác GVCNL giữa giáo viên trước với lớp sau,
giáo viên cũ và giáo viên mới ( khi có sự thay đổi).
+ Điều tra hồn cảnh gia đình của học sinh, truyền thống, phong tục địa
phương để có kế hoạch giáo dục học sinh.
+ Nắm bắt quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức ở các năm trước.
+ Nắm vững tâm lý lứa tuổi học sinh trường Phổ thông Dân tộc nội trú

Trung học cơ sở.
Qua đó GVCNL có thể nắm rõ được tình hình học sinh của lớp mình phụ
trách để làm căn cứ xây dựng kế hoạch công tác GVCNL một cách cụ thể và xác
định mục tiêu phấn đấu của lớp mình cho phù hợp. Trên cơ sở đó có những chủ
trương và biện pháp triển khai các mặt giáo dục, lựa chọn xây dựng đội ngũ tự
quản của lớp mình phụ trách như lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng…
- Chỉ đạo GVCNL xây dựng kế hoạch công tác GVCNL theo tháng, tuần.
Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm phải bám sát với kế hoạch hoạt động trong tháng
của nhà trường và yêu cầu GVCNL thường xuyên quan sát sự phát triển của học
sinh, sự chuyên cần của học sinh để hàng tháng báo cáo với lãnh đạo trường, đề
ra phương hướng cụ thể cho tháng sau.


×